Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.82 KB, 56 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Đất đai là thành phần vô cùng quan trọng của môi trường sống, từ đất đai
mà các yếu tố của sự sống được hình thành và phát triển. Đối với xã hội loài
người, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng, là địa bàn phân bổ dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng… Đối với một quốc
gia, đất đai là dấu hiệu quan trọng để xác định chủ quyền, xác định sự thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Bởi ý nghĩa quan trọng đó,
từ xa xưa, đất đai luôn là đối tượng của các cuộc xâm lược lãnh thổ, các cuộc
tranh chấp giữa các giai cấp đối kháng.
Cùng với các cuộc xâm lược lãnh thổ, tranh chấp đất đai giữa các giai cấp
đối kháng, khi có sự xuất hiện của Nhà nước, của giai cấp, của hiện tượng vi
phạm pháp luật thì hai hiện tượng khiếu nại và tố cáo về đất đai cũng xuất hiện.
Các quốc gia trên thế giới, trong lịch sử phát triển của mình đã không
ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp, giải quyết
khiếu nại tố cáo (KN - TC) về đất đai để có thể ổn định tình hình quản lý sử
dụng đất, nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng của quốc gia, tài sản quí giá của
mỗi người dân.
Ở nước ta, từ khi đất nước bước vào thời kỳ mở cửa, thực hiện theo cơ
chế thị trường, nhất là từ khi Luật đất đai năm 2003 được ban hành, đất đai được
coi là hàng hoá đặc biệt, thì số lượng các vụ tranh chấp về đất đai cũng như KN
- TC về đất đai ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình ổn định kinh
tế, xã hội cũng như đời sống của xã hội của mỗi người dân. Trước tình hình đó
hệ thống pháp luật về giải quyết KN - TC về đất đai của nước ta không ngừng
được hoàn thiện.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối chủ chương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước công tác giải quyết KN - TC nói chung, cũng như
giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói riêng đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần vào sự ổn định chung của toàn xã
hội, phát triển kinh tế của đất nước, nâng cao đời sống của người dân, cũng như
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai và hoạt
động sử dụng đất của người dân.
Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, hệ thống
pháp luật về giải quyết KN - TC về đất đai của nước ta còn nhiều bất cập, công
tác giải quyết KN - TC về đất đai trên thực tế vẫn còn nhiều khó khăn, vướng
mắc, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động quản lý đất đai của các cơ quan
nhà nước cũng như hoạt động sử dụng đất của mỗi người dân. Từ đó gây bức
xúc, mất lòng tin trong bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân.
Với lý do đó em đã chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai” cho Khoá luận tốt nghiệp của mình
hy vọng sẽ góp phần tìm ra giải pháp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật,
nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết KN - TC ở nước ta trong thời gian tới.
Khoá luận tập trung vào nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành
về KN - TC và giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai, thực trạng
áp dụng các quy định đó trong giai đoạn hiện nay, từ đó tìm ra các nguyên nhân
của KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai, những thành tựu đã đạt được
cũng như những mặt hạn chế của công tác giải quyết KN - TC về đất đai trong
thời gian qua. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác này ở nước
ta trong thời gian tới.
Để nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề đó, em đã sử dụng phương pháp
luận Mác – Lênin, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp
với phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh trên cơ sở những kiến thức đã được
trang bị ở Nhà trường.
Khoá luận được trình bày gồm ba chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về giải quyết KN - TC trong lĩnh vực
quản lý và sử dụng đất đai.
Chương II: Những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết KN - TC
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết KN - TC trong
lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Với sự nỗ lực của bản thân, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên
hướng dẫn, em đã hoàn thành Khoá luận này. Nhưng do vốn kiến thức lý luận và
thực tiễn còn hạn chế, nên Khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi
vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, bạn bè và những người có
quan tâm để Khoá luận ngày một hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI - TỐ CÁO
TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1. Khiếu nại – tố cáo và khiếu nại – tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai
1.1. Khái niệm chung về KN - TC
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác giải quyết
KN - TC. Người quan niệm “đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc vì chưa
hiểu rõ chính sách của Đảng, Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh,
tốt thì đồng bào mới thấy rõ Đảng và chính phủ quan tâm, lo lắng đến quyền lợi
của nhân dân do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng
được củng cố tốt hơn”.
Thực hiện quan điểm chủ chương đó của Người, Nhà nước ta luôn quan
tâm tới việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về KN - TC nói chung, KN
- TC trong quản lý và sử dụng đất đai nói riêng.
Năm 1991, Pháp lệnh giải quyết KN - TC của công dân được ban hành,
năm 1998, Luật KN - TC ra đời đã pháp điển hóa các quy định về KN - TC và

giải quyết KN - TC một cách rõ ràng, chính xác, tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho công tác giải quyết KN - TC ở nước ta. Luật này đã được bổ sung sửa đổi
vào các năm 2004, 2005.
Theo quy định tại Điều 2, khoản 1 của Luật này, khiếu nại là “việc công
dân, cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc cán bộ công chức theo thủ tục do luật định
đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành
vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật của cán bộ công chức khi có căn cứ cho
rằng quyết định hoặc hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của mình”
Tố cáo là “việc công dân theo thủ tục do luât định báo cho cơ quan nhà
nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Đây là các khái niệm về KN - TC đã được luật hóa. Ngoài ra, các nhà
Khoa học, tùy theo góc độ nghiên cứu, cũng đưa ra những khái niệm khác nhau
về KN - TC. Trong Từ điển Luật học của Trường Đại Học Luật Hà Nội, khiếu
nại là“đề nghị của công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan nhà nước hoặc người
có thẩm quyền chức vụ về sự vi phạm hoặc cho là vi phạm quyền và lợi ích chính
đáng của họ”. Trong“Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng” của Nguyễn Duy
Lâm, Nhà xuất bản Giáo dục, khiếu nại hành chính là“khiếu nại một việc có nội
dung thuộc pham vi quản lý hành chính nhà nước”.
Tố cáo là “báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền biết về hành vi
trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang hoặc cá nhân thuộc cơ quan, tổ chức đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của cơ quan,
tổ chức”.
1.2. Khiếu nại - Tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai
Khiếu nại, tố cáo về đất đai là họat động KN - TC mà đối tượng của nó là

các hành vi, các quyết định hành chính trong quản lý và sử dụng đất đai, các
hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
Cụ thể khiếu nại về đất đai là “việc các cơ quan, tổ chức, công dân để
nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định,
hành vi hành chính đó là xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
[5,tr.470]
Tố cáo về đất đai là “sự phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
những hành vi vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân thuộc
các cơ quan, đơn vị đó hoặc của những người khác gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của người sử dụng đất”.
[5,tr.470, 471]
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có được những khái niệm chuẩn xác về KN - TC cũng như KN - TC
trong quản lý và sử dụng đất đai có ý nghĩa rất to lớn không chỉ trong việc xây
dựng pháp luật mà còn cả trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn giải quyết
KN - TC nói chung, cũng như giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý, sử
dụng đất đai.
Việc chuẩn hóa các khái niệm này trong các quy định của pháp luật hiện
hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đó.
1.3. Đặc điểm của KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai
* Khiếu nại tố cáo là các quyền dân chủ cơ bản của nhân dân. Các quyền
này đã được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta cũng như các văn bản pháp
luật chuyên ngành khác. Nó cũng là một quyền dân chủ cơ bản của người sử
dụng đất. Sở dĩ như vậy vì Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Hơn nữa, đất đai ở nước ta thuộc sử hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ
sở hữu, thay mặt nhân dân thực hiện hoạt động quản lý đất đai để đảm bảo cho
đất đai được sử dụng hợp lý, phục vụ cho lợi ích của chủ sở hữu đích thực là

toàn dân, cũng như phục vụ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người sử
dụng đất.
Bởi vậy, bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khi có đủ căn cứ đều có
quyền KN - TC những gì mà mình cho là trái pháp luật nói chung, pháp luật đất
đai nói riêng, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, của người khác và của toàn xã hội
Quyền KN - TC của công dân được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực hành
chính, chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, và lĩnh vực tự do của cá nhân. Quyền
này được đảm bảo bằng nghĩa vụ giải quyết KN - TC của các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và những người có chức vụ. Những đảm bảo này
đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của nước ta.
* Khiếu nại và tố cáo có cùng căn cứ là sự vi phạm pháp luật:
Đó là các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan, tổ chức cá
nhân có thẩm quyền hoặc bất kỳ hành vi của bất kỳ cá nhân tổ chức, cơ quan
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nào trái hoặc vi phạm pháp luật đất đai, xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm tới
các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng như của toàn xã hội.
Khi thực hiện KN - TC người KN - TC đều hướng tới mục đích là chấm
dứt những hành vi vi phạm, trái pháp luật ấy; yêu cầu phục hồi các quyền và lợi
ích bị xâm hại, bồi thường thiệt hại về vật chất, danh dự do những hành vi đó
gây ra, xử lý đúng pháp luật các cá nhân, tổ chức đã vi phạm, góp phần củng cố
pháp chế Xã hội chủ nghĩa và lập lại kỷ cương xã hội.
* Nội dung của KN - TC về đất đai rất phong phú và đa dạng.
Các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai bao gồm rất nhiều nội dung:
ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai, và tổ chức
thực hiện văn bản đó; xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới
hành chính, lập bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất;
lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất; quản lý qui hoạch, kế hoạch
sử dụng đất; quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử

dụng đất; quản lý tài chính về đất đai…
Chính vì thế mà nội dung của KN - TC về đất đai cũng rất phong phú và
đa dạng. Điều 162, Nghị định 181/2004/NĐ-CP có liệt kê và cụ thể hoá các
quyết định hành chính và hành vi hành chính có thể bị khiếu nại như sau:
Quyết định hành chính trong quản lý đất đai có thể bị khiếu nại bao
gồm:
- Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dựng đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất.
+ Quyết định giao đất là quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
+ Cho thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng
cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất;
+ Thu hồi đất là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hành
chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã cho tổ chức, Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của pháp luật;
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Trưng dụng đất là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định sử
dụng đất đã có người sử dụng vào mục đích công trong trường hợp Nhà nước
tuyên bố tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp,
trường hợp khẩn cấp của chiến tranh, thiên tai, hoả hoạn, hoặc các trường hợp
khẩn cấp khác đe doạ nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của tổ chức, tính
mạng của nhân dân mà cần sử dụng đất.
+ Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép người sử dụng đất chuyển đất đang sử dụng từ loại đất này
sang loại đất khác;
- Quyết định bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư.
+ Bồi thường là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với
diện tích bị thu hồi cho người sử dụng đất.
+ Hỗ trợ là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo

nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
- Cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Là việc Nhà nước
cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận của người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất.
- Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất.
Hành vi hành chính trong quản lý đất đai có thể bị khiếu nại là hành
vi của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết những công việc nói trên.
Nội dung của tố cáo lại càng đa dạng, bất cứ khi nào phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật đất đai của bất kỳ cá nhân, tổ chức công dân nào thì bất kỳ ai
cũng có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có thể khái quát nội
dung của tố cáo bao gồm:
- Tố cáo chính quyền vi phạm pháp luật đất đai, nhất là việc thu hồi đất,
giao đất xây dựng các công trình giao thông thủy lợi, xây dựng cơ bản, góp vốn
bằng đất để liên doanh với nước ngoài và xây dựng kỹ thuật hạ tầng để kinh
doanh nhà ở đô thị.
- Chính quyền địa phương (nhất là cấp xã) giao đất trái thẩm quyền, giao
đất xây dựng không đúng danh sách được phê duyệt theo quyết định của cơ quan
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhà nước có thẩm quyền, giao sai vị trí, sai lệch diện tích, không đúng quy
hoạch, thu tiền sử dụng đất vượt quá nhiều lần so với quy định của Nhà nước, sử
dụng tiền thu từ đất không đúng chế độ tài chính;
- Tố cáo chính quyền địa phương quản lý, sử dụng quỹ đất công ích trái
pháp luật: Diện tích đất công ích vượt quá 5%; sử dụng quỹ đất công ích sai mục
đích; cho thuê trái thẩm quyền; thời gian cho thuê có trường hợp đến 20 – 30
năm, giá thuê rất thấp và có biểu hiện tham nhũng.
* Khiếu nại tố cáo về đất đai cũng giống như tranh chấp về đất đai, khi
xảy ra không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động sử dụng đất của người sử dụng đất mà
nó còn ảnh hưởng tới hoạt động quản lý đất đai của Nhà nước.
Khi khiếu nại tố cáo xảy ra, bản thân người sử dụng đất không thể thực

hiện được các quyền lợi của mình đối với đất đai, không thực hiện được các
nghĩa vụ đối với nhà nước. Còn cơ quan nhà nước sẽ khó khăn trong hoạt động
quản lý nhà nước của mình về đất đai, vì việc thực thi các quyết định, hành vi
hành chính về đất đai bị đình trệ.
Về phương diện kinh tế khi có KN - TC, các hoạt động kinh doanh, sản
xuất liên quan tới đất đai sẽ bị ngừng trệ. Không những vậy, KN - TC trong đất
đai thường kéo dài gây ra những thiệt hại không nhỏ về của cải vật chất cho cả
người sử dụng đất cũng như cho toàn xã hội.
Về mặt chính trị xã hội, KN - TC xảy ra có tác động không nhỏ tới tâm
lý, tinh thần của nhân dân, gây mất ổn định trong các mối quan hệ xã hội, nhất là
các mối quan hệ xã hội giữa cơ quan nhà nước với người sử dụng đất. Không
những vậy, KN - TC xảy ra, nếu không được giải quyết đúng đắn, kịp thời, triệt
để còn gây mất niềm tin trong không ít bộ phận nhân dân, làm cho những chính
sách, đường lối của Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để.
Bởi vậy, công tác giải quyết KN - TC nói chung và giải quyết KN - TC
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm
góp phần giữ vững trật tự xã hội và mang lại công bằng cho mỗi người dân.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giải quyết tốt KN - TC về đất đai còn góp phần bảo đảm cho pháp luật
đất đai được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tăng
cường hiệu quả của công tác quản lý đất đai.
* Mặc dù có nhiều điểm chung như đã phân tích ở trên, nhưng rõ ràng
khiếu nại và tố cáo là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt:
- Khiếu nại là việc công dân đề nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho
rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm tới các quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Còn tố cáo là thông báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi phát hiện
có hành vi vi phạm pháp luật.
- Về chủ thể, người khiếu nại là người có quyền và lợi ích bị xâm phạm

hoặc cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm bởi các quyết định hành
chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại; còn chủ thể tiến hành tố cáo là bất
kỳ công dân nào khi họ phát hiện thấy có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại tới quyền và lợi ích của chính họ cũng như quyền và
lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác, lợi ích của toàn xã hội.
- Đối tượng của khiếu nại là các hành vi hành chính, quyết định hành
chính của các cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền trong quản lý đất đai.
Còn đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật đất đai của bất kỳ cá
nhân, tổ chức, cơ quan nào. Hơn nữa, việc làm trái pháp luật bị tố cáo là hành
động hoặc không hành động, có thể là gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại tới
lợi ích của Nhà nươc, quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Còn quyết
định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại là những quyết định và hành vi
trực tiếp xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
- Khi công dân thực hiện quyền tố cáo, giữa họ và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền luôn phát sinh những quan hệ pháp luật nhất định và họ phải chịu
trách nhiệm về những thông tin của mình.
- Về tính chất, những hành vi bị tố cáo thường nguy hiểm cho xã hội hơn
những hành vi bị khiếu nại.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Tuy là hai sự việc hoàn toàn khác biệt nhưng KN và TC có quan hệ mật
thiết với nhau:
- Chúng đều phản ánh những mâu thuẫn bất bình trong các mối quan hệ
xã hội giữa Nhà nước với công dân, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa người này
với người khác, giữa tập thể với tập thể.
- Về mặt chủ quan, khi khiếu nại, người khiếu nại luôn muốn đạt được
mục đích của mình nên khi trình bày sự việc họ thường tìm ra những sai sót của
người bị khiếu nại để đồng thời tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bởi
vậy, trên thực tế, trong nhiều trường hợp cùng một lá đơn nhưng đương sự đề
cập đến cả khiếu nại, tố cáo, lấy tố cáo để yêu cầu giải quyết khiếu nại và ngược

lại, lấy khiếu nại để yêu cầu giải quyết tố cáo.
1.4. Những nguyên nhân dẫn tới KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai
Ở nước ta trong thời gian gần đây, số lượng các vụ KN - TC về đất đai
xảy ra ngày càng tăng. Tuy tính chất, mức độ và phạm vi khác nhau nhưng nhìn
chung đều phát sinh do những nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân về kinh tế: Kể từ khi nước ta bước vào thời kỳ mở cửa,
thực hiện theo cơ chế thị trường, nhất là từ khi Luật đất đai 2003 ra đời với
những quy định mới, đất đai được coi là hàng hóa đặc biệt và pháp luật cho phép
người sử dụng đất được tự do chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường,
thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nước ta đã có sắc diện hoàn toàn
mới. Trong thị trường ấy quyền sử dụng đất ngày càng trở thành loại hàng hóa
có giá trị lớn, mang lại những nguồn lợi không nhỏ cho người sử dụng đất. Khi
những nguồn lợi từ đất đai tăng lên, thì những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên
quan tới đất đai cũng ngày một tăng, đó là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị
trường.
- Nguyên nhân về lịch sử: Ba mươi năm chiến tranh đã gây ra sự xáo
trộn về nơi cư trú, cùng với sự thay đổi của chính sách đất đai cho phù hợp với
yêu cầu của từng thời kỳ Cách mạng đã dẫn đến những biến động lớn về sử
dụng đất. Đã vậy do điều kiện chiến tranh, nên nhiều giấy tờ về đất đai, bản đồ
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
địa chính bị thiếu hụt, bị thất lạc, mất mát, không tìm thấy giấy tờ gốc. Từ đó đã
dẫn đến nhiều KN - TC, tranh chấp về đất đai. Những tranh chấp, KN - TC này
thường kéo dài, khó giải quyết vì các căn cứ để giải quyết hầu như không còn.
- Nguyên nhân về chính trị pháp lý: Kể từ năm 1945 tới nay, chế độ
chính sách về đất đai của nước ta đã trải qua nhiều lần biến đổi tới mức “vật đổi
sao rời”:
Năm 1945 Nhà nước tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm
hữu ruộng đất của thực dân pháp và Phong kiến, thiết lập quyền sở hữu ruộng

đất cho nông dân.
Năm 1960 đất đai được đưa vào hợp tác xã nông nghiệp, tạo nên chế độ
sở hữu tập thể về ruộng đất.
Năm 1975, thống nhất đất nước, quan hệ đất đai ở nước ta bước sang giai
đoạn mới, mà chủ yếu là ở Miền nam, chúng ta xóa bỏ các hình thức bóc lột của
phú nông, địa chủ, tịch thu ruộng đất của ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai
để chia cho nhân dân. Đồng thời tiến hành điều chỉnh ruộng đất theo tinh thần
“nhường cơm, sẻ áo”.
Vào các năm 1988, 1993 và 2003 các Luật đất đai lần lượt được ban hành
cũng tạo ra những chuyển biến không nhỏ trong chế độ sử dụng và quản lý đất
đai ở nước ta.
Mỗi lần biến động như vậy đều tạo ra những thay đổi lớn đối với toàn xã
hội, cũng như đối với từng hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Có biến động tất có
được, có mất, mà có mất có được thì dẫn tới việc KN - TC của người dân là lẽ
đương nhiên.
- Nguyên nhân về nhận thức của người dân:
Do trình độ am hiểu pháp luật của nhân dân ta còn thấp, nên trong thời
gian qua, tình trạng KN - TC sai, KN - TC tràn lan, vượt cấp, không đúng thẩm
quyền xảy ra rất phổ biến, gây khó khăn, phức tạp cho công tác giải quyết KN -
TC ở nước ta.
- Nguyên nhân về quản lý:
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự buông lỏng trong quản lý nhà nước về đất đai trong thời gian qua, nhất
là ở các cấp quản lý cơ sở và sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp
luật đất đai của các địa phương cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới
KN - TC về đất đai. Đa số các địa phương chưa có sự đầu tư kinh phí thoả đáng
để xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, đảm bảo quản lý chặt chẽ đến từng thửa
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm, công tác kiểm tra, thanh tra
chưa được quan tâm đúng mức, các địa phương cũng ít chú ý tới công tác hậu

kiểm tra đối với các dự án, công trình sau khi giao đất, cho thuê đất. Công tác
bồi thường, giải phóng mặt bằng chưa giải quyết tốt được mối quan hệ giữa
quyền của cơ quan nhà nước (Đại diện chủ sở hữu của nhân dân về đất đai) và
của người sử dụng đất đã được pháp luật công nhận, chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa lợi ích xã hội, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhà đầu tư cần sử
dụng đất với người sử dụng có đất bị thu hồi, không chấp hành đúng các quy
định của Nhà nước về trình tự thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
- Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận
cán bộ công chức: Khi các cán bộ có trách nhiệm trong quản lý đất đai lợi dụng
quyền hạn, nhiệm vụ, lợi dụng những kẽ hở trong pháp luật để tham nhũng, mưu
lợi cá nhân, nhũng nhiễu nhân dân, thì tất yếu sẽ dẫn tới KN và TC.
Đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới KN - TC về đất đai ở nước ta
hiện nay. Biết được những nguyên nhân này là một cở sở rất quan trọng giúp ta
có thể có những đối sách hợp lý, góp phần giải quyết KN - TC về đất đai đúng
pháp luật, hiệu quả, có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật đất đai, góp phần lập lại kỷ cương, trật tự xã hội, tăng cường
hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai.
2. Giải quyết khiếu nại tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai
2.1. Khái niệm và đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và
sử dụng đất đai
2.1.1. Khái niệm
Điều 2 Luật KN - TC năm 1998, đã được sửa đổi bổ sung năm 2004 và
2005 quy định:
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giải quyết khiếu nại là “việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải
quyết của người giải quyết khiếu nại”(khoản 13).
Giải quyết tố cáo là “việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và ra
quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo”(khoản 14).
Dựa vào các khái niệm này có thể hiểu, giải quyết khiếu nại trong lĩnh

vực quản lý và sử dụng đất đai là việc cơ quan có thẩm quyền xem xét, xác
minh, kết luận và ra quyết định về tính đúng đắn của các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong quản lý đất đai khi có khiếu nại của người sử dụng đất
về quyết định, hành vi đó.
Giải quyết tố cáo về đất đai là việc cơ quan có thẩm quyền xác minh, kết
luận về nội dung tố cáo liên quan tới quản lý và sử dụng đất đai từ đó đưa ra
quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo.
2.1.2. Đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng
đất đai
- Thứ nhất: Giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai là trách nhiệm của các
cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Hiến pháp nước ta đã ghi nhận khiếu nại,
tố cáo là các quyền dân chủ cơ bản của công dân. Để cho các quyền đó được
đảm bảo, khi công dân thực hiện KN - TC, các KN - TC của công dân phải được
giải quyết nhanh chóng kịp thời, có như vậy quyền KN - TC của công dân mới
có ý nghĩa trên thực tế. Chính bởi vậy mà pháp luật quy định giải quyết KN - TC
là trách nhiệm của các cơ quan hành chính nói chung và các cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai nói riêng. Điều đó được thể hiện ở chỗ, pháp luật không những
đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải giải quyết KN - TC về
đất đai một cách nhanh chóng, hiệu quả, tích cực mà pháp luật còn quy định
những hình thức trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức cá nhân, cơ quan
không hoàn thành trách nhiệm, làm trái và vi phạm các quy định của pháp luật
về giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai.
- Thứ hai: Giải quyết KN - TC về đất đai phải được thực hiện trong
khuôn khổ của pháp luật và phải tuân theo trình tự, thủ tục đã được quy định
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong Luật KN - TC ban hành năm 1998, đã được sửa đổi bổ sung năm 2004,
2005; Luật đất đai 2003, và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Thứ ba: Thẩm quyền giải quyết KN - TC về đất đai trước hết thuộc về
người đã ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính bị

khiếu nại (nếu người đó là thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước về đất
đai) hoặc thủ trưởng cơ quan đơn vị trực tiếp quản lý người đã ban hành ra quyết
định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khiếu nại. Thẩm quyền giải
quyết tố cáo thuộc về thủ trưởng cơ quan đơn vị nơi quản lý người bị tố cáo
hoặc thủ trưởng cơ quan đơn vị cấp trên trực tiếp nếu người bị tố cáo là thủ
trưởng cơ quan, đơn vị đó.
Đặc điểm này giúp ta dễ dàng phân biệt được giải quyết KN - TC về đất
đai với giải quyết tranh chấp về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai, vì
giải quyết tranh chấp đất đai luôn thuộc thẩm quyền của Toà án, còn xử lý vi
phạm pháp luật đất đai, tuỳ theo tính chất, mức độ, người vi phạm sẽ bị áp dụng
các hình thức trách nhiệm pháp lý tương ứng (trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm
hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự) theo trình tự thủ tục, thẩm
quyền phù hợp do pháp luật quy định.
- Thứ tư: Giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai phản ánh mối quan hệ
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý đất đai với người sử dụng
đất. Trong quan hệ này cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét nội dung quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, tố cáo từ đó đi đến công nhận hay
không công nhận, công nhận một phần hay toàn bộ quyết định hành chính đó;
kết luận về tính đúng đắn của hành vi hành chính hoặc kết luận về tính đúng đắn
của nội dung tố cáo.
Đặc điểm này của giải quyết KN - TC giúp ta phân biệt được giải quyết
KN - TC về đất đai với giải quyết tranh chấp về đất đai.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai là việc xác minh, kết luận và ra
quyết định giải quyết của người giải quyết đối với các khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai. Còn giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật, nhằm
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giải quyết các bất đồng mâu thuẫn giữa các bên, khôi phục lại quyền lợi cho bên
bị xâm phạm đồng thời xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai.

Giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết KN - TC về đất đai tuy cùng là
những nội dung quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, và việc
giải quyết chúng đều phải dựa trên các quy định của pháp luật, trên thực tế
người ta đôi khi cũng khó phân biệt được đâu là giải quyết KN - TC và đâu là
giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng rõ ràng chúng là hai sự việc hoàn toàn khác
biệt bởi, như đã nói ở trên giải quyết KN - TC về đất đai phản ánh quan hệ giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền với người sử dụng đất, còn giải quyết tranh
chấp về đất đai là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra phân giải các
tranh chấp đất đai giữa nguyên đơn và bị đơn xảy ra trong quá trình sử dụng đất
đai.
Ta cũng dễ dàng nhận thấy là giải quyết KN - TC về đất đai và xử lý vi
phạm pháp luật về đất đai là hai hiện tượng hoàn toàn khác biệt. Bởi xử lý vi
phạm pháp luật về đất đai là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các hình thức
trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai, nhằm
buộc họ gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật
hoặc hậu quả của hành vi đó gây ra.
Đặc biệt ta không nên nhầm lẫn giữa giải quyết tố cáo về đất đai với xử lý
vi phạm pháp luật về đất đai. Bởi, tuy trong giải quyết tố cáo về đất đai cũng có
giai đoạn người giải quyết tố cáo ra quyết định xử lý đối với người vi phạm nếu
tố cáo là đúng. Nhưng giải quyết tố cáo khác với xử lý vi phạm pháp luật ổ chỗ
xử lý vi phạm pháp luật trong giải quyết tố cáo phải bắt nguồn từ việc người có
thẩm quyền xem xét tính đúng đắn của nội dung tố cáo, từ đó đi đến quyết định
có ra quyết định xử lý hay không. Hơn nữa, xử lý vi phạm pháp luật trong quá
trình giải quyết tố cáo có thể do một cơ quan khác thực hiện chứ không phải do
cơ quan giải quyết tố cáo thực hiện (nếu cơ quan giải quyết tố cáo không có
thẩm quyền xử lý thì họ phải kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
cơ quan đó tiến hành xử lý). Như vậy có nghĩa là, giải quyết tố cáo có thể dẫn
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tới xử lý vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật có thể bắt nguồn từ một

quyết định giải quyết tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Sở dĩ ở đây phải xem xét tới quan hệ giữa giải quyết KN - TC trong quản
lý và sử dụng đất đai với xử lý vi phạm pháp luật đất đai và giải quyết tranh
chấp đất đai bởi, phân biệt được các nội dụng này, xử lý tốt mối quan hệ giữa
chúng có ý nghĩa to lớn trong thực tế áp dụng pháp luật.
Trên thực tế, muốn góp phần hạn chế tình trạng KN - TC thì phải giải
quyết tranh chấp đất đai hiệu quả và xử lý vi phạm pháp luật đất đai đúng quy
định pháp luật, ngược lại, công tác giải quyết KN - TC mà hiệu quả sẽ có ảnh
hưởng tích cực tới các hoạt động khác, sẽ hạn chế được các tranh chấp xảy ra,
ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Nghĩa là giải quyết tốt mối
quan hệ giữa các hoạt động này thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của từng hoạt
động nói riêng cũng như của hoạt động quản lý và sử dụng đất nói chung.
2.2. Ý nghĩa, mục đích của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử
dụng đất đai
Giải quyết KN - TC về đất đai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm
bảo cho pháp luât nói chung, pháp luật đất đai nói riêng được thực thi nghiêm
chỉnh. Việc giải quyết KN - TC về đất đai còn góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động sử dụng và quản lý đất đai. Không những vậy thông qua hoạt động
này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thấy được những lĩnh vực nào của
pháp luật đất đai còn bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn để từ đó
tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng thời cũng thông qua
đây, Nhà nước còn có thể điều chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích
của Nhà nước của nhân dân cũng như của từng cá nhân, hộ gia đình.
Thêm vào đó việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các KN - TC
về đất đai, gắn với nó là việc khôi phục kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất, đồng thời xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật những người
có hành vi sai phạm sẽ củng cố niềm tin yêu của nhân dân vào chính quyền, chế
độ, vào các chủ chương đường lối của Đảng, Nhà nước, làm cho mối quan hệ
giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng gắn bó bền chặt.
17

Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.3. Các nguyên tắc cơ bản của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và
sử dụng đất đai
2.3.1. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định của pháp
luật
Tuân theo Hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt trong tất cả
các hoạt động của cơ quan nhà nước cũng như trong hoạt động của bất kỳ cơ
quan, tổ chức, cá nhân nào. Đối với hoạt động giải quyết KN - TC, việc tuân
theo các quy định của pháp luật là nguyên tắc mang tính chất cơ bản nhất.
Tuân theo Hiến pháp, pháp luật trong giải quyết KN - TC nói chung cũng
như giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất nói riêng có nghĩa
là phải tuân theo pháp luật cả trong xác định thẩm quyền; trong tiếp nhận đơn
thư; trong xác minh, nghiên cứu vụ việc; trong ra quyết định giải quyết KN - TC
và trong việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo đã có
hiệu lực. Có như thế mới có thể giải quyết KN - TC một cách đúng đắn, triệt để,
và đạt hiệu quả.
2.3.2. Nguyên tắc dân chủ và công khai
Đảng và Nhà nước ta đang không ngừng phấn đấu để xây dựng một nhà
nước dân chủ, thực sự của dân, do dân, vì dân. Để thực hiện tốt điều đó nguyên
tắc dân chủ công khai đang được đặt ra đối với mọi họat động quản lý nhà nước.
Khiếu nại tố cáo được coi là phương thức trực tiếp để thực hiện quyền dân
chủ của công dân. Bởi vậy dân chủ công khai trong giải quyết KN - TC càng là
một đòi hỏi quan trọng. Nguyên tắc này đòi hỏi người giải quyết KN - TC phải
lắng nghe ý kiến của các bên, đảm bảo tự do dân chủ, bình đẳng trước pháp luật.
Trong giải quyết khiếu nại người giải quyết khiếu nại lần đầu phải có trách
nhiệm đối thoại trực tiếp với người khiếu nại và người bị khiếu nại để làm rõ
nguyên nhân khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu
nại.
Phải tạo điều kiện cho các bên trình bày quan điểm của mình về nội dung
vụ việc cũng như về dự kiến cách thức giải quyết.

18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối với quá trình giải quyết lần hai, người giải quyết phải triệu tập người
khiếu nại, người bị khiếu nại để đối thoại khi cần thiết. Có thể nói đây là hình
thức “tranh tụng”theo thể thức hành chính và nếu làm tốt sẽ khắc phục được tệ
quan liêu, một chiều khi giải quyết KN - TC.
Hoạt động giải quyết KN - TC từ lúc tiếp nhận đơn cho tới khi ra quyết
định giải quyết KN - TC cuối cùng đều phải công khai minh bạch, mọi trình tự
thủ tục, mọi quyết định liên quan tới vụ việc mà người giải quyết đưa ra phải
được công bố công khai cho người KN - TC, người bị KN - TC và người có
quyền và lợi ích liên quan được biết. Hiện nay việc công khai minh bạch vẫn
chưa được đảm bảo. Vì thế yều cầu đề cao nguyên tắc này ngày càng cần thiết.
2.3.3. Tôn trọng sự thật khách quan, thận trọng và vô tư
Nguyên tắc này không chỉ là yêu cầu riêng đối với hoạt động giải quyết
KN - TC về đất đai, mà nó còn là yêu cầu chung đối với cả hoạt động giải quyết
tranh chấp đất đai cũng như xử lý vi phạm pháp luật đất đai.
Nguyên tắc này đòi hỏi công dân, cơ quan, tổ chức khi thực hiện việc KN
- TC phải phản ánh trung thực, đúng sự thật mọi tình tiết, diễn biến của sự việc,
không lợi dụng quyền KN - TC để vu khống, vu cáo người khác. Bởi nếu cung
cấp thông tin không chính xác sẽ dẫn đến việc giải quyết KN - TC không chính
xác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đối với người giải quyết KN - TC nguyên tắc này đòi hỏi phải nhìn nhận
sự việc một cách trung thực như nó vốn có, không phụ thuộc vào ý muốn của
các bên đương sự, cũng như không phụ thuộc vào ý nghĩ chủ quan của bản thân
người giải quyết KN - TC, bởi nếu không sẽ dẫn tới ngộ nhận, ra quyết định giải
quyết KN - TC không đúng, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Để làm được điều đó, người giải quyết KN - TC phải nắm vững các quy
định của pháp luật và tuân theo các quy định đó trong quá trình giải quyết. Bởi
chỉ có tuân theo pháp luật thì mới có thể vô tư, khách quan, thận trọng. Khi tiến
hành giải quyết KN - TC, cơ quan, người có thẩm quyền phải thu thập đầy đủ

chứng cứ, tài liệu, khi cần thiết. Người giải quyết có thể gặp gỡ nhân chứng,
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trưng cầu giám định, yêu cầu các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung
cấp thông tin cho mình, kể cả việc có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế.
Đồng thời, người giải quyết KN - TC có trách nhiệm tạo mọi điều kiện
thuận lợi, không cản trở và phải cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để công
dân thực hiện quyền KN - TC của mình.
2.3.4. Kết hợp giải quyết KN - TC về đất đai với việc giáo dục, thuyết phục,
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về đất đai
Nâng cao kiến thức của người dân không chỉ có ý nghĩa trong hoạt động
giải quyết KN - TC, nó là đòi hỏi chung trong công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền ngày nay. Khi kiến thức pháp luật được nâng cao người dân sẽ dễ
dàng hiểu và chấp hành các quy định của pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Còn
trong công tác giải quyết KN - TC sẽ tránh được tình trạng KN - TC tràn lan,
không nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định giải quyết KN - TC, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết KN - TC.
2.3.5. Giải quyết kịp thời, nhanh chóng, ngăn chặn và loại trừ các hành vi
vi phạm pháp luật đất đai
Yêu cầu này không chỉ là yêu cầu đối với giải quyết KN - TC mà còn đối
với giải quyết tranh chấp đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai. Việc giải
quyết nhanh chóng kịp thời sẽ tránh được những bức xúc, thiếu tin tưởng trong
nhân dân, đồng thời tiết kiệm được nhiều tiền của của nhân dân cũng như của
Nhà nước do khiếu nại tố cáo dây dưa, kéo dài.
Trong giai đoạn hiện nay giải quyết KN - TC kịp thời và nhanh chóng
đang là một nguyên tắc cần được đề cao.
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1. Khiếu nại tố cáo là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được
Hiến pháp ghi nhận
1.1. Khiếu nại, tố cáo là một trong các quyền dân chủ cơ bản của công dân
Sớm nhận thức được tầm quan trọng của KN - TC và giải quyết KN - TC
trong việc xây dựng một nhà nước dân chủ thực sự của dân do dân vì dân, ngay
từ khi ra đời Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú ý tới công tác giải quyết KN -
TC cũng như xây dựng hệ thống các quy định pháp luật về giải quyết KN - TC
của công dân. Chế định pháp luật này đang ngày càng được đổi mới và hoàn
thiện.
Hiến pháp 1946 đã quy định các quyền tự do của công dân trong lĩnh vực
hành chính, chính trị và các quyền tự do khác. Một trong các nguyên tắc cơ bản
của Hiến pháp này là đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân.
Các quy định đó của Hiến pháp 1946 đã đặt nền tảng cho sự hình thành và
phát triển quyền KN - TC của công dân trong các bản Hiến pháp cũng như trong
hệ thống pháp luật của nước ta sau này.
Hiến pháp năm 1959, quyền KN - TC của công dân đã được ghi nhận tại
Điều 29: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền KN - TC với bất
cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ
quan nhà nước. Những việc KN - TC phải được xét và giải quyết một cách nhanh
chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm của nhân viên cơ quan nhà nước có
quyền được bồi thường”.
Hiến pháp năm 1980 đã kế thừa tại Điều 73: “công dân có quyền khiếu
nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan nhà nước, tổ chưc xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của
bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức thuộc đơn vị đó”.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đến hiến pháp năm 1992, quyền khiếu nại tố cáo được ghi nhân tại Điều
74: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước về những

việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc KN - TC phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời
hạn luật định.
Mọi hành vi xâm pham lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể và của công dân, phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị
thiết hại phải được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người KN - TC hoặc lợi dụng quyền KN - TC để
vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Những quy định của Hiến pháp đã làm cơ sở cho các hệ thống pháp luật
chuyên ngành cụ thể hóa quyền khiếu nại tố cáo của công dân trong từng lĩnh
vực cụ thể.
Điều 1 Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991 đã quy định rõ:
“1. Công dân có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
quyết định hoặc việc làm trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý hành chính của cơ
quan nhà nước hoặc nhân viên nhà nước xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
Quyền khiếu nại của công dân đối với quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự, dân sự, trọng tài kinh tế do pháp luật tố tụng hình sự, dân sự, trọng
tài kinh tế quy định.
2. Công dân có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền việc làm
trái pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền việc làm trái pháp luật của
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân, gọi chung là cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân thuộc cơ quan, tổ chức đó
gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân”.
Điều 1 Luật khiếu nại tố cáo được ban hành năm 1998, sửa đổi bổ sung
năm2004, 2005 cũng quy định: “Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368

quyết định hành chính, hành vi hành chinch của cơ quan hành chính nhà nước,
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho
rằng quyết định, hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình” và “công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, Luật đất đai năm 2003, quyền
KN - TC vẫn được khẳng định là một trong các quyền cơ bản của người sử dụng
đất. Tại điều 105, Khoản 6 Luật đất đai đã quy định rõ người sử dụng đất có
quyền “khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất
hợp pháp của mình và những hành vi khác vi pháp luật về đất đai”.
Điều 138, khoản 1 cũng quy định “người sử dụng đất có quyền khiếu nại
quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai”.
Tại Điều 139 “cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử
dụng đất đai”.
Những quy định ấy đã làm nền tảng vững chắc cho công dân cũng như
người sử dụng đất có thể thực hiện quyền KN - TC của mình trong lĩnh vực
quản lý và sử dụng đất đai.
1.2. Quyền và nghĩa vụ của công dân và người sử dụng đất khi thực hiện
KN - TC
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại
- Quyền của người khiếu nại:
+) Được quyền tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đai diện hợp pháp
để khiếu nại;
+) Được nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại, nhận
quyết định giải quyết khiếu nại;
+) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật;
23

Website: Email : Tel : 0918.775.368
+) Được khiếu nại tiếp hoặc rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của
quá trình giải quyết;
- Nghĩa vụ của người khiếu nại:
+) Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết;
+) Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin tài liệu cho người giải
quyết khiếu nại;
+) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực;
Việc quy định những nghĩa vụ của người khiếu nại như vậy là một đảm
bảo có ý nghĩa pháp lý - thực tiễn để việc giải quyết KN - TC được khách quan,
nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại
- Quyền của người bị khiếu nại:
+) Biết các căn cứ khiếu nại của người khiếu nại; đưa ra bằng chứng về
tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại.
+) Nhận quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc bản án của Toà án.
- Nghĩa vụ của người bị khiếu nại:
+) Tiếp nhận, thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại về việc thụ lý
để giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
khiếu nại; sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị
khiếu nại; gửi quyết định giải quyết cho người khiếu nại và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc giải quyết của mình; trong trường hợp khiếu nại do cơ
quan, tổ chức cá nhân chuyển đến thì phải thông báo việc giải quyết hoặc kết quả
giải quyết cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đó theo quy định của Luật khiếu nại tố
cáo;
+) Giải trình về tính hợp pháp, đúng đắn của quyết định hành chính, hành
vi hành chính bị khiếu nại, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi người giải
quyết khiếu nại lần hai yêu cầu;
+) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực
pháp luật;

24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+) Bồi thường, bồi hoàn thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định hành chính,
hành vi hành chính trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật;
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo
- Quyền của người tố cáo:
+) Gửi đơn hoặc trực tiếp đến tố cáo với cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm
quyền;
+) Yêu cầu giữ bí mật thông tin về họ tên, địa chỉ, bút tích của mình;
+) Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
+) Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trù dập,
trả thù;
- Nghĩa vụ của người tố cáo:
+) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
+) Nêu rõ tên, địa chỉ của mình;
+) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật;
Việc quy định người tố cáo có quyền yêu cầu giữ bí mật thông tin về họ
tên, địa chỉ, bút tích đồng thời lại có nghĩa vụ nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình là
không hề mâu thuẫn với nhau. Bởi quyền yêu cầu giữ bí mật thông tin về họ tên,
địa chỉ, bút tích là nhằm tránh cho người tố cáo bị trả thù, hoặc gây các tác hại
khác cho người tố cáo, nhưng để đảm bảo cho hoạt động điều tra, xét xử, giải
quyết KN - TC của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người tố cáo vẫn phải
có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ các thông tin cá nhân này. Nhưng những thông tin
này sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo đảm bí mật nếu người tố cáo
có yêu cầu.
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo
- Quyền của người bị tố cáo:
+) Được thông báo về nội dung tố cáo;
+) Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự
thật;

+) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được khôi phục
danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
25

×