Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 84 trang )

PHẠM THỊ QUỲNH NGỌC

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

PHẠM THỊ QUỲNH NGỌC

2014 - 2016

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH

PHẠM THỊ QUỲNH NGỌC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN TRUNG TÍN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng học
viên. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn, học viên có tham khảo
một số bài viết, tài liệu của các tác giả khác, các nguồn trích dẫn tham khảo, thông
tin từ các buổi hội thảo đã được chỉ ra trong mục Danh mục tài liệu tham khảo.
Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn được đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Hà Nội, ngày .. tháng .. năm 2016

Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Học viên


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian qua để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Luật học này, bên
cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên
và hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè trong suốt khóa học cũng
như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến PGS. TS Nguyễn Trung Tín đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện và nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám

hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa luật Viện đại học Mở đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn bên cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn thiện luận văn này.
Hà Nội, ngày.....tháng .... năm 2016
Tác giả


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ......................................................... 1
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu ................................................................... 2
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 3
4. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 3
5. Những đóng góp mới của Luận văn .................................................................. 4
6. Bố cục của Luận văn.......................................................................................... 4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA ....................................................................................................................... 5
1.1. Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa ......................................... 5
1.2. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa..................................................... 11

1.3. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa ........................................................ 13
1.4. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa ở Việt Nam ........................................................................... 13
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.................................. 20
2.1. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ......................................................... 20
2.2. Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa .................................................. 34
2.3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa ................................................. 40


2.4. Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa ...................................................... 45
2.5. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa .............................. 56
Chương 3. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

.............................................................62

3.1. Một số nhận xét về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa ..... 62
3.2. Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hóa ............................................................................................... 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 74


BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt


Ý nghĩa

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

DN

Doanh nghiệp

3

HĐMBHH

Hợp đồng mua bán hàng hóa

4

LTM

Luật Thương mại

5

MBHH


Mua bán hàng hóa

6

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


LỜI MỞ ĐẦU
Các Mác đã nói: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Bản chất
của sự “tổng hòa các mối quan hệ xã hội” ấy đã được thể hiện ngay từ thời kỳ sơ
khai. Thuở sơ khai, cũng như các loài vật khác, để duy trì sự tồn tại của mình, con
người đã biết cần đến nhau trong một cộng đồng. Khi ngôn ngữ chưa hình thành
thì phương tiện của “mối quan hệ xã hội” này là những âm thanh, dấu hiệu chung
của từng nhóm, bầy đàn. Sau này, khi ngôn ngữ phát triển, trở thành một công cụ
hữu hiệu nhất và không chỉ cho nhu cầu tồn tại, mà lớn hơn nhiều – nhu cầu của sự
phát triển. Để thỏa mãn nhu cầu ngày một lớn, người ta đã cần đến nhau trong việc
trao đổi những gì mình có để có được những thứ mình cần.
Thời kỳ phát sinh thêm một nghề là thương mại. Nghề thương mại gắn liền
với lịch sử văn minh nhân loại mà cơ sở tồn tại và phát triển của nó là quan hệ
cung – cầu. Từ khi con người biết trồng trọt thay cho hái lượm; biết chăn nuôi thay
cho săn bắt; biết trao đổi sản vật theo phương thức hàng đổi hàng, khi đó một cái
gọi là “nền kinh tế” đã manh nha hình thành. Bên cạnh đó, sự phát triển của ngôn
ngữ cũng hỗ trợ đắc lực cho công việc mua bán. Ngôn ngữ giúp người ta tìm hiểu
nhu cầu và khả năng của nhau, ngôn ngữ cũng giúp người ta đạt được sự thống
nhất cho việc mua – bán. Ngay từ thời kỳ này, về bản chất, hợp đồng mua bán đã
thực tế tồn tại. Sau này cùng với những phát minh lớn lao của con người là sự ra
đời của tiền tệ và nền sản xuất hàng hóa, hoạt động mua bán hàng hóa đã phát triển
mạnh mẽ và theo đó là sự đa dạng của các hoạt động mua bán hàng hóa.

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Mua bán hàng hóa (MBHH) đã từng là hình thức chủ yếu của hoạt động
thương mại. Hiện nay, mặc dù có nhiều hình thức hoạt động thương mại mới xuất
hiện nhưng mua bán hàng hóa vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động thương
mại. Hợp đồng mua bán hàng hóa (HĐMBHH) là một phương thức giao dịch phổ
biến trong đời sống kinh tế - xã hội kể từ khi con người biết trao đổi sản phẩm

1


phục vụ cho nhu cầu và sự tồn tại của mình. Cho đến nay, chúng ta không thể phủ
nhận vai trò quan trọng của phương thức giao dịch này.
Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với các khái niệm đổi mới
và “mở cửa”, nền kinh tế Việt Nam đã được chuyển mình và bước đầu tự khẳng
định trên trường quốc tế bằng những chỉ số về tốc độ phát triển, về sự ổn định của
môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, khi nhắc đến những cơ hội thì không thể bỏ
qua những thách thức. Những thách thức này luôn hiện hữu đối với mọi chủ thể
của nền kinh tế. Nó đòi hỏi chúng ta phải đạt tới một tầm cao mới. Pháp luật về
hợp đồng nói chung và HĐMBHH nói riêng là một lĩnh vực quan trọng cần được
hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Không thế nói tới một nền kinh
tế phát triển khi mà ở đó sự lưu thông hàng hóa ở một trình độ thấp. Hậu quả của
nó đối với kinh tế quốc gia, hoặc là chậm phát triển kinh tế hàng hóa, hoặc là gánh
chịu hậu quả của các giao dịch mua bán thiếu sự bảo đảm chặt chẽ của pháp luật
về hợp đồng. Có thể hình dung, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa như sự vận
chuyển máu nuôi cơ thể và HĐMBHH giữ vai trò như một sự đảm bảo tính ổn
định của dòng lưu chuyển ấy. Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật điều
chỉnh HĐMBHH là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết hiện nay, nhằm tạo điều kiện
xây dựng và hoàn thiện các chế định pháp luật này, tạo ra môi trường pháp lý ổn
định, bảo đảm được quyền và lợi ích của các chủ thể kinh doanh.
Xuất phát từ lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Hợp đồng mua bán hàng hóa

theo pháp luật Việt Nam hiện hành” để làm Luận văn tốt nghiệp.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là những vấn đề pháp luật về
HĐMBHH như: Khái niệm HĐMBHH; đặc điểm HĐMBHH; vấn đề giao kết và
thực hiện hợp đồng. Lý luận về HĐMBHH là một lĩnh vực kiến thức khá rộng liên
quan đến cả vấn đề kinh tế và vấn đề pháp lý. Do đó, Luận văn còn đưa ra những
vấn đề chung nhất về HĐMBHH, đưa ra những ưu điểm, nhược điểm. Trên cơ sở

2


đó phát hiện ra được những hạn chế, thiếu sót của pháp luật về HĐMBHH để có
hướng hoàn thiện phù hợp.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là lý giải những vấn đề lý luận và thực
tiễn về HĐMBHH; trên cơ sở đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
HĐMBHH để đảm bảo thực thi có hiệu quả trên thực tế, nhằm đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về HĐMBHH, hiệu
quả của việc tuân thủ pháp luật về việc thực hiện HĐMBHH.
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả Luận văn sử dụng các phương pháp biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
tổng hợp, phân tích; Phương pháp so sánh luật học; Phương pháp logic và lịch sử;
nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn…
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
HĐMBHH là vấn đề thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu khoa

học pháp lý thời gian qua. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này
như: “Một số vấn đề pháp lý về HĐMBHH trong thương mại” của Nguyễn Ngoc
Minh (2007); “Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại trong điều
kiện sửa đổi, bổ sung BLDS” của Dư Hoài Phương (2014); “Quyền tự do hợp
đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam” của TS. Phạm Hoài Giang (2007);
“Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” của TS. Lê Minh
Hùng (2010); “So sánh chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và
pháp luật Hoa Kỳ” của Th.S Nguyễn Thị Mai Hương (2010);… các công trình trên

3


đây là nguồn tài liệu vô cùng quý báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan
trọng phục vụ cho việc nghiên cứu Luận văn.
Tuy vậy, các công trình nghiên cứu trên đây chưa thực sự đi sâu vào vấn đề
pháp luật hiện hành quy định như thế nào về HĐMBHH. Từ việc quy định đó có
những ưu điểm và hạn chế gì
5. Những đóng góp mới của Luận văn
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong Luận văn có một số điểm mới sau:
- Tiếp tục làm rõ được một số vấn đề lý luận về HĐMBHH như: bản chất,
khái niệm, đặc điểm, vai trò của HĐMBHH, xu hướng điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam…
- Nêu được các quy định của pháp luật hiện hành về HĐMBHH, như: đối
tượng của hợp đồng, chủ thể ký kết hợp đồng, nội dung của HĐMBHH, thực hiện
hợp đồng… đồng thời nêu những nhận xét về các quy định đó. Từ đó đưa ra một
số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về HĐMBHH.
- Đặc biệt, Luận văn có đưa ra được điểm mới đó là: sự điều chỉnh của pháp
luật Việt Nam về HĐMBHH với thương nhân nước ngoài trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
6. Bố cục của Luận văn

Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục các từ viết tắt, Mục lục và
Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa;
Chương 2: Thực trạng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp
đồng mua bán hàng hóa;
Chương 3: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA
1.1. Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Quan hệ mua bán hàng hóa được thực hiện trên cơ sở sự thỏa thuận, thống
nhất ý chí giữa các chủ thể. Nói cách khác, mua bán hàng hóa được thực hiện trên
cơ sở hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi
hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Điều 388 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân
sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Tại Điều 428 BLDS 2005 có đưa ra định nghĩa về một loại hợp
đồng cụ thể: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa
vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”.
LTM 2005 quy định mua bán hàng hóa trong thương mại được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng. Tuy nhiên, Luật không đưa ra khái niệm HĐMBHH trong
thương mại mà chỉ đưa ra khái niệm mua bán hàng hóa. Khoản 8, Điều 3 LTM
2005 quy định: “Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh

toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hóa theo thỏa thuận”.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, các bên tham gia vào hoạt động
mua bán hàng hóa đều hướng tới mục đích sinh lời, vì vậy HĐMBHH là một loại
hợp đồng thương mại. Căn cứ vào khái niệm mua bán hàng hóa kết hợp với các
quy định của BLDS 2005 về hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán tài sản, có thể
đưa ra khái niệm HĐMBHH như sau: HĐMBHH là sự thỏa thuận giữa các bên,

5


theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận thanh toán; còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán cho
bên bán.
Như vậy, để hình thành HĐMBHH, phải có sự thống nhất ý chí giữa các
bên và sự thống nhất ý chí đó sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ. Sự
thống nhất ý chí này phải được hình thành trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không
chịu bất kỳ sự tác động nào từ bên ngoài.
HĐMBHH và hợp đồng mua bán tài sản là hai khái niệm có nhiều điểm
tương đồng. Tuy nhiên, khái niệm hợp đồng mua bán tài sản có phạm vi rộng hơn.
Quan hệ mua bán hàng hóa trong thương mại là một quan hệ dân sư theo nghĩa
rộng. Vì vậy, HĐMBHH trước hết chịu sự điều chỉnh của BLDS. Xét về bản chất,
hàng hóa cũng là một loại tài sản. Hàng hóa là đối tượng của HĐMBHH bao gồm:
tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật
gắn liền với đất đai (khoản 2, Điều 3, LTM 2005). Còn đối tượng của hợp đồng
mua bán tài sản lại bao gồm tất cả các tài sản được phép giao dịch bao gồm: Vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản (Điều 163 và Điều 429 BLDS 2005). Như
vậy, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản có tính chất bao trùm so với đối
tượng của HĐMBHH trong thương mại. Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản
rộng hơn chủ thể của HĐMBHH trong thương mại. HĐMBHH trong thương mại

phải có ít nhất một chủ thể là thương nhân còn với hợp đồng mua bán tài sản, chủ
thể chỉ cần có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Tóm lại, có thể coi
HĐMBHH là hợp đồng mua bán tài sản nhưng mang bản chất thương mại, vì mục
tiêu lợi nhuận.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
HĐMBHH trước hết mang những đặc điểm của hợp đồng mua bán tài sản
nói chung. Đó là:
- Thứ nhất, HĐMBHH là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán hàng hóa.

6


- Thứ hai, HĐMBHH là hợp đồng song vụ, bên bán và bên mua đều có
quyền và nghĩa vụ. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Bên
bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và có quyền yêu cầu bên mua trả tiền
mua hàng hóa, ngược lại bên mua có quyền yêu cầu bên bán chuyển giao hàng hóa
và có nghĩa vụ trả tiền mua hàng hóa cho bên bán.
- Thứ ba, HĐMBHH là hợp đồng có đền bù. Khoản tiền bên mua trả cho
bên bán chính là khoản tiền đền bù đối với việc chuyển giao hàng hóa và quyền sở
hữu hàng hóa.
HĐMBHH mang bản chất thương mại, hành vi của các chủ thể trong hợp
đồng là hành vi thương mại, nhằm mục đích lợi nhuận, chính vì vậy, HĐMBHH
mang những đặc trưng riêng so với hợp đồng mua bán tài sản, đó là:
- Thứ nhất, về chủ thể của HĐMBHH
HĐMBHH gồm hai bên: bên bán và bên mua. Các bên có thể là cá nhân,
pháp nhân, các tổ chức không là pháp nhân hay tổ hợp tác, hộ gia đình… Tuy
nhiên, bắt buộc một trong hai bên phải là thương nhân.
Dựa vào tư cách thương nhân của các chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa
được chia thành hai loại, đó là HĐMBHH giữa thương nhân với thương nhân và

HĐMBHH giữa một bên là thương nhân và một bên không phải là thương nhân.
Như vậy, chủ thể của HĐMBHH gồm các chủ thể là thương nhân và các chủ thể
không phải là thương nhân.
Để có thể tham gia giao kết HĐMBHH, các chủ thể không phải là thương
nhân chỉ cần đảm bảo điều kiện có năng lực hành vi dân sự. Các chủ thể này sẽ
chịu sự điều chỉnh của LTM nếu họ chọn áp dụng LTM (xem khoản 3, Điều 1,
LTM 2005).
Đối với các chủ thể là thương nhân, họ cần đảm bảo điều kiện có năng lực
hành vi thương mại. Điều kiện này cho phép các thương nhân bằng chính hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ thương mại. Năng lực hành vi

7


thương mại cơ bản gồm các nội dung giống với năng lực hành vi dân sự. Ngoài ra,
để có năng lực hành vi thương mại, chủ thể còn phải thỏa mãn các quy định đặc
thù như yêu cầu về chứng chỉ hành nghề, yêu cầu về giấy phép kinh doanh các mặt
hàng bị hạn chế lưu thông, yêu cầu đăng ký kinh doanh, yêu cầu bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp… Khoản 1, Điều 6, LTM 2005 quy định: “Thương nhân bao
gồm tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, thương
nhân là những chủ thể có năng lực hành vi thương mại, có đăng ký kinh doanh,
thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì
lợi ích của chính bản thân. Hành vi thương mại của thương nhân phải được thực
hiện một cách thương xuyên, liên tục và nhằm mục tiêu tạo ra nguồn thu nhập
chính đáng cho thương nhân (không phân biệt là có thu được lợi nhuận trên thực tế
hay không).
- Thứ hai, đối tượng của HĐMBHH
Đối tượng của HĐMBHH là hàng hóa. Hiểu theo nghĩa thông thường, hàng
hóa là sản phẩm của lao động, được tạo ra nhằm mục đích thỏa mã nhu cầu của

con người. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam:
“Hàng hóa là sản phẩm lao động do lao động làm ra dùng để buôn bán trên thị
trường” [36, tr.422]. Trong kinh tế chính trị học, hàng hóa được hiểu là một vật
thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của con người và được sản xuất ra không phải
để người sản xuất tiêu dùng mà để bán. Cùng với sự phát triển của xã hội, hàng
hóa ngày càng phong phú và đa dạng.
Dưới khía cạnh pháp lý, có thể xem hàng hóa trong mua bán thương mại là
một loại tài sản được đưa vào quan hệ lưu thông trên thị trường. Hàng hóa có thể
được chia thành nhiều loại khác nhau như động sản, bất động sản, tài sản hữu hình,
tài sản vô hình. Theo khoản 2, Điều 3 LTM 2005 thì hàng hóa bao gồm tất cả các
loại động sản kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với
đất đai. Theo đó, tất cả các tài sản là động sản được phép lưu thông đều có thể trở

8


thành hàng hóa. Khi so sánh khái niệm hàng hóa theo quy định của LTM năm
2005 với khái niệm bất động sản trong BLDS, có thể nhận thấy, bất động sản là
hàng hóa chỉ bao gồm các vật gắn liền với đất đai (các công trình xây dựng, các
vật gắn liền với các công trình xây dựng đó…), còn đất đai và các tài sản khác mà
pháp luật quy định là bất động sản không phải là hàng hóa (xem Điều 174 BLDS
2005). Như vậy, hàng hóa là đối tượng của HĐMBHH có thể là hàng hóa đang tồn
tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai, hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động
sản được phép lưu thông thương mại.
Hàng hóa là đối tượng của HĐMBHH phải là tài sản có thể tham gia vào
giao dịch mua bán hàng hóa. Nghĩa là hàng hóa phải xác định, có nguồn gốc hợp
pháp, không do phạm tội mà có và không thuộc danh mục bị cấm lưu thông hay
cấm xuất khẩu. Đối với hàng hóa là động sản hình thành trong tương lai thi bên
bán phải có căn cứ chứng minh hàng hóa đó chắc chắn sẽ được hình thành.
HĐMBHH sẽ bị coi là vô hiệu nếu có đối tượng là hàng hóa bất hợp pháp. Việc

mua bán hàng hóa bất hợp pháp sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với
các hàng hóa bị hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thì việc mua bán
hàng hóa chỉ được thực hiện khi hàng hóa và các bên mua bán hàng hóa đáp ứng
đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba, hình thức của HĐMBHH
HĐMBHH trong thương mại đa dạng về hình thức. Pháp luật của hầu hết
các nước đều quy định HĐMBHH có thể được ký kết dưới nhiều hình thức, như:
văn bản, lời nói hay hành vi cụ thể tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên tham gia
hợp đồng.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định hình thức của hợp đồng
kinh tế phải bằng văn bản, tài liệu giao dịch, công văn, điện báo, đơn chào hàng,
đơn đặt hàng là phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa. Tuy nhiên, nó lại trở thành
rào cản đối với quyền tự do định đoạt của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường.
Với xu hướng mở rộng quyền tự do định đoạt của các chủ thể khi tham gia giao kết

9


hợp đồng, LTM 1997 cũng như LTM 2005 quy định HĐMBHH có thể được giao
kết dưới hình thức lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể (khoản 2 Điều 49 LTM
1997; khoản 1 Điều 24 LTM 2005). Đối với các hợp đồng được thực hiện thông
qua chứng từ điện tử, nếu thông tin chứa trong chứng từ điện tử đó có thể truy cập
được để sử dụng khi cần thiết thì pháp luật cũng công nhận giá trị pháp lý như văn
bản của các hợp đồng này (Điều 8 Nghi định số 57/2006/NĐ-CP của Chính phủ về
thương mại điện tử). Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật vẫn
đòi hỏi hợp đồng phải được lập thành văn bản như đối với HĐMBHH quốc tế hay
hợp đồng mua bán nhà ở (khoản 3 Điều 49 LTM 1997; khoản 2 Điều 24 LTM
2005).
- Thứ tư, nội dung của HĐMBHH
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa là toàn bộ các quyền và nghĩa vụ

của các bên giao kết hợp đồng về việc chuyển giao quyền sở hữu từ người bán
sang người mua, làm thế nào đê người bán nhận được tiền và người mua nhận
được hàng.
Giao hàng và chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa là nghĩa vụ cơ bản
nhất của bên bán. Các nghĩa vụ khác của bên bán mà các bên thỏa thuận hay pháp
luật có quy định đều có liên quan và đóng vai trò hỗ trợ cho việc thực hiện nghĩa
vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa từ bên bán sang bên mua. Tương
ứng với nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu của bên bán, nghĩa vụ nhận
hàng và thanh toán là nghĩa vụ cơ bản của bên mua. Bên cạnh các nghĩa vụ cơ bản
này, bên mua còn có nghĩa vụ hỗ trợ bên bán về thủ tục giao hàng, bốc dỡ hàng
hóa, chuyển quyền sở hữu…
Ngoài các nghĩa vụ liên quan đến việc chuyển giao hàng hóa và thanh toán,
nội dung của HĐMBHH trong thương mại còn bao gồm các quy định về trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng. Các quy định này có tính chất hỗ trợ, đảm bảo cho
việc thực hiện hợp đồng diễn ra chính xác, nhanh chóng, hạn chế được việc vi
phạm hợp đồng.

10


Từ những đặc trưng đã nêu trên, có thể phân biệt HĐMBHH với một số hợp
đồng khác, như:
- Với hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan đến hàng hóa: thì khác biệt lớn
nhất là đối tượng của các hợp đồng này là dịch vụ được cung ứng từ bên cung cấp
dịch vụ (thực hiện công việc – hành vi phi vật chất) cho bên nhận dịch vụ, còn đối
tượng của HĐMBHH là hàng hóa (vật chất hóa, hữu hình).
- Với hợp đồng cho thuê tài sản: thì khác biệt lớn nhất là quyền chiếm hữu
và quyền sử dụng tài sản được chuyển giao cho bên thuê nhưng tài sản vẫn thuộc
sở hữu của bên cho thuê. Trong khi với HĐMBHH, quyền sở hữu hàng hóa được
chuyển giao từ bên bán hàng sang bên mua hàng.

- Với HĐMBHH chọn áp dụng LTM: chủ thể của hợp đồng này không bắt
buộc phải là thương nhân, còn HĐMBHH trong thương mại luôn có một bên chủ
thể là thương nhân. Do mang bản chất thương mại nên HĐMBHH trong thương
mại luôn chịu sự điều chỉnh của LTM. HĐMBHH chọn áp dụng LTM chỉ chịu sự
điều chỉnh của LTM trong trường hợp các bên tham gia lựa chọn LTM để điều
chỉnh hợp đồng.
1.2. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa
• HĐMBHH giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động thương mại
Mua bán hàng hóa chính là nhân tố cơ bản tạo ra nền kinh tế thị trường.
Ngữ nghĩa của từ “thị trường” với ý nghĩa là nơi diễn ra các hoạt động mua bán,
nó đã bao hàm tính tổ chức rất cao, ở đó những tập quán, tiền lệ thương mại được
hình thành và tồn tại với sự chấp nhận của các thương nhân. Từ rất sớm trong lịch
sử loài người đã xuất hiện những thương nhân. Trải qua nhiều thế hệ, họ sống bằng
việc mua bán hàng hóa từ vùng này sang vùng khác, từ quốc gia này sang quốc gia
khác để kiếm lợi nhuận. Thực tiễn của hoạt động buôn bán đã đặt ra cho họ những
luật lệ, nguyên tắc và tập quán thương mại. HĐMBHH qua nhiều thời kỳ đã tồn tại
phổ biến dưới nhiều hính thức khác nhau. Bằng lời nói hay bằng văn bản nó cũng
chưa đựng những quy tắc chặt chẽ và buộc các bên ký kết phải tôn trọng nếu

11


không muốn bị tẩy chay và đặt ra ngoài vòng của “thị trường” đó. Bất cứ tổ chức
hay cá nhân nào tham gia thị trường, bằng một lời nói, một hành vi đơn giản hay
bằng giấy tờ văn bản mà làm xuất hiện một sự lưu thông hàng hóa thì HĐMBHH
được xem là đã phát sinh. Giá trị của nó thực tế đã tồn tại và bảo đảm cho sự theo
đuổi hiệu quả của các bên trong suốt quá trình thực hiện HĐMBHH. Không có
HĐMBHH – hình thức của giao dịch, thì không có hoạt động thương mại trong
mua bán hàng hóa.
HĐMBHH với tính ổn định của các tập quán thương mại và tính linh hoạt

của thỏa thuận giữa các bên đã góp phần làm phát triển thị trường. Ngược lại, thị
trường với ý nghĩa là môi trường thực tiễn của hoạt động mua bán hàng hóa cũng
có tác động trở lại làm phong phú thêm cho HĐMBHH và các tập quán thương
mại khác.
• HĐMBHH là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên
- Trên phương diện giữa các bên tham gia quan hệ mua bán hàng hóa: đây
là quan hệ song vụ, theo đó một bên có quyền nhận lấy hàng hóa như đã thỏa thuận
và bên kia có quyền nhận tiền sau khi đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng và các
nghĩa vụ khác theo hợp đồng. Có thể nói đơn giản rằng quyền của bên này làm
phát sinh nghĩa vụ tương ứng của bên kia. Các bên đều có quyền yêu cầu đối tác
của mình thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ theo hợp đồng, nếu không, lập tức hợp đồng
sẽ làm phát sinh trách nhiệm cho bên đã không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Trách nhiệm này buộc họ phải hoàn thành nốt phần
nghĩa vụ còn lại, bồi thường thiệt hại cho bên kia (nếu có thiệt hại) và phải chịu
một khoản phạt hợp đồng theo thỏa thuận và theo luật định.
- Trên phương diên quản lý nhà nước: HĐMBHH nhằm đảm bảo trật tự
chung trong quan hệ mua bán hàng hóa, bằng quyền lực của mình, nhà nước sẽ căn
cứ vào pháp luật hoặc công nhận giá trị của các tập quán thương mại, can thiệp vào
quan hệ mua bán giữa các bên để bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.

12


1.3. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa
Căn cứ vào đặc điểm của các giao dịch mua bán hàng hóa trong thương
mại, có thể chia HĐMBHH thành ba loại cơ bản như sau:
- Thứ nhất, Hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường (nội địa): Là
HĐMBHH mà các bên chủ thể của hợp đồng thực hiện các giao dịch về mua bán
hàng hóa với nhau trên lãnh thổ Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa được quy định
tại Điều 3 LTM 2005 bao gồm cả động sản và bất động sản gắn liền với đất đai.

- Thứ hai, Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Là HĐMBHH có thêm
yếu tố quốc tế - là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. Tại Điều 27 LTM
2005 quy định: "Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức
xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu".
- Thứ ba, Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết thông qua Sở giao
dịch hàng hóa: Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương
mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của
một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của
Sở giao dịch hàng hóa, với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và
thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai (Điều 63 LTM
2005). Theo quy định tại Điều 64 LTM 2005, HĐMBHH qua Sở giao dịch hàng hóa
bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
1.4. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa ở Việt Nam
Nhìn từ góc độ lịch sử, có thể chia quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về HĐMBHH của Việt Nam thành bốn giai đoạn chính:
• Giai đoạn 1954 – 1960
Đây là giai đoạn cách mạng Việt Nam phải thực hiện đồng thời hai nhiệm
vụ, đó là tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng
miền Nam. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ này bao gồm nhiều thành phần kinh

13


tế, đó là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản tư doanh.
Để phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, Chính phủ đã sớm quan tâm xây dựng
một văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Ngày
10/4/1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời số 735-TTh về hợp
đồng kinh doanh, lần đầu tiên khái niệm hợp đồng kinh doanh được ghi nhận trong

văn bản pháp luật. Theo đó: “Hợp đồng là một bản quy định mối quan hệ giữa hai
hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện cam kết với nhau thực hiện một số nhiệm
vụ nhất định, trong những thời gian nhất định, nhằm mục đích phát triển kinh
doanh công thương nghiệp góp phần thực hiện kế hoạch nhà nước”. Phạm vi chủ
thể của hợp đồng kinh doanh theo pháp luật thời kỳ này khá dá dạng. Điều lệ quy
định: chủ thể của hợp đồng kinh doanh là tất cả các cơ sở kinh doanh không phân
biệt quốc doanh hay tư doanh, là người Việt Nam hay người nước ngoài cư trú tại
Việt Nam. Bản Điều lệ với cách quy định khá rộng và bình đẳng đã tạo điều kiện
thu hút các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, đóng góp
đáng kể vào quá trình xây dựng đất nước khi hòa bình được lập lại.
• Giai đoạn 1960 – 1989
Giai đoạn này gắn với thời kỳ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa dưới sự
quản lý và chỉ huy của nhà nước. Trước đòi hỏi mới của nền kinh tế, Điều lệ 735TTg ngày 10/4/1956 tỏ ra không còn phù hợp. Để thay thế Điều lệ 735-TTg, Điều
lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan
nhà nước được ban hành kèm theo Nghị định số 04-TTg ngày 4/1/1960.
Khác với quy định trong Điều lệ số 735-TTg, bản Điều lệ này không định
nghĩa hợp đồng kinh tế mà liệt kê một số hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, Điều lệ
không điều chỉnh cụ thể từng loại hợp đồng. Mọi vấn đề quy định trong Điều lệ
được áp dụng chung cho tất cả các hợp đồng kinh tế. Với quy định “ký kết hợp
đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc trong quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc
doanh, các cơ quan nhà nước”, Điều lệ đã gạt bỏ hoàn toàn nguyên tắc tự định

14


đoạt trong giao kết hợp đồng kinh tế. Như vậy, các quy định về hợp đồng kinh
doanh hoàn toàn mang tính chất phi hợp đồng, đi ngược lại với bản chất tự do thỏa
thuận của hợp đồng.
Kế thừa Điều lệ tạm thời ban hành kèm theo Nghị định 04-TTg là Điều lệ
về chế độ hợp đồng kinh tế mới được ban hành kèm theo Nghị định số 54/CP. Đây

là bản Điều lệ chính thức đầu tiên của nước ta về chế độ hợp đồng kinh tế. Tuy
nhiên, cũng tương tự như bản Điều lệ tạm thời trước đây, bản Điều lệ này cũng
mang nặng tính áp đặt, đi ngược lại với bản chất tự do thỏa thuận của hợp đồng.
Như vậy, pháp luật điều chỉnh hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này hoàn toàn
mang tính phi hợp đồng. Hợp đồng kinh tế nói chung, HĐMBHH nói riêng đã đi
ngược lại bản chất vốn có của nó, trở thành công cụ kinh tế để thực hiện quan hệ
phân phối, lưu thông hàng hóa
• Giai đoạn 1989 – 2005
Cùng với công cuộc đổi mới về mọi mặt trong đời sống xã hội của đất nước,
pháp luật thời kỳ này đã đưa quan hệ HĐMBHH trở lại đúng với bản chất của nó,
phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường. Trong giai đoạn này, HĐMBHH
chịu sự điều chỉnh của ba văn bản pháp luật chính đó là Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế 1989, BLDS năm 1995, LTM 1997.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ban hành ngày 25/9/1989 quy định hợp đồng
kinh tế phải được giao kết trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Pháp
lệnh còn nhấn mạnh, ký kết hơp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế.
Không một đơn vị kinh tế nào được phép áp đặt ý chí của mình cho các đơn vị
kinh tế khác khi ký kết hợp đồng. Ngoài ra, Pháp lệnh còn mở rộng phạm vi chủ
thể của hợp đồng kinh tế đến mọi thành phần kinh tế.
BLDS 1995 ra đời một lần nữa khẳng định lại bản chất của quan hệ hợp
đồng. BLDS 1995 quy định hợp đồng phải được giao kết trên cơ sở tự do, tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác trung thực và ngay thẳng. Bên cạnh đó,
BLDS 1995 đã quy định các vấn đề cơ bản của hợp đồng như: Nội dung chủ yếu

15


của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, các nguyên tắc thực hiện hợp đồng, các loại
hợp đồng cơ bản…
LTM 1997 được thông qua ngày 10/5/1997 đã góp phần cụ thể hóa các quy

định của pháp luật về HĐMBHH. Lần đầu tiên HĐMBHH trong thương mại được
quy định trong một văn bản pháp luật. LTM 1997 đã mở rộng phạm vi chủ thể
tham gia ký kết HĐMBHH, quy định phạm vi các hàng hóa là đối tượng của hợp
đồng. Bên cạnh đó, LTM 1997 đã đơn giản hóa các quy định về hình thức của
HĐMBHH. Ngoài ra, LTM 1997 cũng quy định về các quyền, nghĩa vụ cơ bản của
các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
ký kết và thực hiện HĐMBHH trong thương mại.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐMBHH trong thương mại thời kỳ này nhìn
chung đã có nhiều thay đổi tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thiếu xót, đó là sự
chống chéo, tính không đồng bộ, thiếu minh bạch của hệ thống pháp luật và việc
chậm chễ trong quá trình tiếp nhận các quy định của pháp luật thế giới.
• Giai đoạn từ 2005 đến nay
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu khách quan của quá trình phát
triển. Trước yêu cầu đó, pháp luật Việt Nam đã bộc lộ nhiều thiếu xót, bất cập,
không đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Vì vậy, nhà nước ta đã xây dựng và ban
hành một loạt các văn bản pháp luật mới để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong
thời kỳ hội nhập. Năm 2005 là năm nhiều văn bản pháp luật được ban hành, trong
đó có BLDS 2005 và LTM 2005 - hai văn bản pháp luật chính điều chỉnh
HĐMBHH.
Không chỉ dừng lại ở việc kế thừa các quy định hợp lý của BLDS 1995 và
LTM 1997, BLDS 2005 cũng như LTM 2005 còn góp phần khắc phục sự chồng
chéo trong các quy định điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng nói chung, HĐMBHH trong
thương mại nói riêng. Cụ thể, khái niệm hợp đồng kinh tế đã bị xóa bỏ, pháp luật
chỉ còn ghi nhận khái niệm hợp đồng thương mại. LTM 2005 chỉ quy định các vấn
đề liên quan đến hoạt động thương mại, không nhắc lại các vấn đề mà BLDS 2005

16


đã quy định. Bên cạnh đó, các quy định của LTM và BLDS cũng tỏ ra phù hợp với

pháp luật và thông lệ quốc tế. Ngoài ra, các quy định về hợp đồng được tiếp cận
theo hướng mở rộng tối đa quyền tự định đoạt của các chủ thể, phù hợp với đòi hỏi
của nền kinh tế thị trường.
Thông qua lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về HĐMBHH của
Việt Nam và thực tiễn quan hệ kinh tế, thương mại trong và ngoài nước, ta thấy:
- Thứ nhất, HĐMBHH là một tồn tại tất yếu
HĐMBHH là sự thể hiện ra bên ngoài nhu cầu cải thiện cuộc sống, nhu cầu
phát triển của con người. HĐMBHH đã đưa mọi người đến thống nhất với nhau
trong sự mua bán hàng hóa, theo những đòi hỏi của bản năng và điều kiện sống. Ở
đó, các bên đều đáp ứng được cho nhau các nghĩa vụ và đạt được quyền lợi của
mình. Giống như quy luật cung – cầu trong kinh tế học, dòng chảy của chuỗi các
HĐMBHH là bất tận. Từ nhu cầu của mình, con người cần hàng hóa và sự phát
triển của hàng hóa lại kích thích nhu cầu của con người.
- Thứ hai, HĐMBHH và hội nhập kinh tế
Bằng ngôn ngữ, HĐMBHH là phương tiện để các giao dịch mua bán hàng
hóa được thực hiện. Các giao dịch này diễn ra giữa hai hay nhiều người, trong
phạm vi một quốc gia hoặc vượt ra ngoài biên giới quốc gia… Hàng nghìn năm
trước đây, HĐMBHH đã theo những dòng chảy thương mại từ các châu lục Á, Âu,
Phi gặp nhau và làm nên sự phồn thịnh của một số quốc gia, sự giàu có của nhiều
thương nhân ở Trung Quốc, Ba Tư, La Mã và Carthage. Ngày nay, hội nhập kinh
tế diễn ra mạnh mẽ hơn rất nhiều, người ta gọi nó dưới cái tên “xu hướng toàn cầu
hóa”. HĐMBHH ngày càng phát triển và không chỉ là HĐMBHH giữa các thương
nhân, chủ thể HĐMBHH ngày nay còn được hiểu rộng ra là những quốc gia, khi
mà đối tượng của hợp đồng là những hàng hóa chiến lược như dầu lửa, lương thực.
Chính phủ nhiều nước thường đi tiền trạm cho những cuộc thương lượng các
HĐMBHH loại này. Sau khi đạt được một thỏa thuận khung về điều kiện mua,
bán, tiêu chuẩn chất lượng… việc mua, bán được Chính phủ phân bố cho các

17



thương nhân thực hiện. Sự cố gắng để đạt được thỏa thuận đã đưa các thương
nhân, các quốc gia đền gần nhau hơn, hình thành những nhóm, liên minh kinh tế
có chung quyền lợi.
- Thứ ba, HĐMBHH trong sự phát triển của pháp luật về hợp đồng
Pháp luật về hợp đồng từ khi ra đời đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa không tưởng – nghĩa là lợi ích của cá nhân luôn được đề
cao hơn lợi ích của tập thể và các bên được cho là hoàn toàn tự do, độc lập và bình
đẳng trong việc ký kết hợp đồng. Ở Pháp trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, người ta quan niệm rằng cá nhân có quyền tự do giao kết hợp đồng, ý
chí của họ không phụ thuộc vào những quy phạm pháp luật (Theo Dennis
Mazeaud, Giáo sư luật Dân sự Pháp trường Đại học Paris XII). Ý chí của cá nhân
còn thể hiện bằng quyền tự do ký kết hợp đồng và quyền tự do lựa chọn bên cùng
tham gia ký kết. Hợp đồng khi đã được ký kết thì không thể bị thay đổi ngoài ý chí
của các bên ký kết, đặc biệt là Thẩm phán cũng không được can thiệp kể cả căn cứ
vào lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Đó thực sự là sự đẩy cao chủ nghĩa cá nhân và
chủ nghĩa không tưởng [28, tr.18].
Tuy nhiên, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa không tưởng chỉ thể hiện mong
ước của con người thời đó. Trên thực tế, các bên đối tác của hợp đồng thường
không ngang bằng nhau, luôn luôn là một bên mạnh – một bên yếu về kinh tế, vậy
nên không có tự do ký kết hợp đồng. Bên mạnh hơn hoàn toàn có thể lấn át bên kia
dựa vào quyền tự do lựa chọn đối tác. Hợp đồng thường do một bên thảo ra chứ
không phải dựa trên ý chí chung của các bên. Ví dụ như các hợp đồng gia nhập rất
phổ biến trong mua bán hàng hóa – dịch vụ ngày nay. Chính vì vậy, các nhà lập
pháp qua thực tiễn đã dùng những đạo luật của mình can thiệp vào giai đoạn hình
thành hợp đồng để bảo vệ bên yếu thế hơn và đảm bảo nguyên tắc cân đối. Dần
dần ý tưởng về lợi ích cá nhân trong buổi sơ khai của pháp luật hợp đồng đã được
thay thế bằng lợi ích tập thể. Sự thắng thế của lợi ích công cộng, lơi ích tập thể là
sự đòi hỏi tất yếu của đời sống kinh tế. Nó không cho phép bất kỳ một sự che giấu


18


×