Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hoà giải từ thực tiễn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG
HÒA GIẢI TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG.

MẠC THỊ THỦY

HÀ NỘI – 2016

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG
HÒA GIẢI TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG.

MẠC THỊ THỦY
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT

HÀ NỘI – 2016



ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên thực hiện luận văn

Mạc Thị Thủy

iii


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo – PGS,TS Nguyễn Như
Phát- người đã trực tiếp chỉ bảo, tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực
hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Quý thầy giáo, cô giáo của Viện đại học
Mở Hà Nội những người đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ, truyền đạt kiến thức cho
em trong suốt thời gian qua.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã quan tâm, động
viên, cổ vũ và sát cánh, cùng giúp đỡ tôi trong thời gian em hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện nhưng bài viết không tránh khỏi những thiếu sót
do kiến thức và kỹ năng của bản thân còn hạn chế, tôi kính mong đươc thầy cô góp
ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày .....tháng .....năm 2016
Tác giả luận văn

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TCTM: Tranh chấp thương mại
WTO: Tổ chức thương mại quốc tế
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
VIAC: Trung tâm trọng tài quốc tế
TTDS: Tố tụng dân sự
GRDP: Tổng sản phẩm trên địa bàn
TAND: Tòa án nhân dân
GQTC: Giải quyết tranh chấp

v


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... v
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................. 3
4. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài .................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ............................................................................ 4
6. Những đóng góp mới của Luận văn ..................................................................... 4
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 5
CHƯƠNG 1.KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ HÒA GIẢI
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI ............................................................................. 6
1.1.

Khái quát về tranh chấp thương mại ............................................................. 6

1.1.1.

Khái niệm tranh chấp thương mại .............................................................. 6

1.1.2.

Đặc điểm của tranh chấp thương mại ....................................................... 10

1.1.3.

Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại .................................. 12

1.2 Khái quát chung về hòa giải tranh chấp thương mại ......................................... 14
1.2.1 Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại ......................... 14
1.2.2 Yêu cầu đối với hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại ................. 18
1.3 Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại ........................ 21
1.3.1 Hòa giải là thủ tục trong giải quyết các tranh chấp thương mại ................... 21
1.3.2 Hòa giải được tiến hành ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng .......... 22
1.3.3. Hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự .................. 22

1.4 Các hình thức hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế theo quy
định của pháp luật Việt Nam ................................................................................. 23
1.4.1 Hòa giải ngoài tố tụng .................................................................................. 23

vi


1.4.2 Hòa giải trong tố tụng ................................................................................... 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 28
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG .............. 29
2.1. Thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp thương mại ................................. 29
2.1.1. Hòa giải trong tố tụng đối với việc giải quyết tranh chấp thương mại.......... 29
2.1.2. Hòa giải ngoài tố tụng ................................................................................. 35
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật hòa giải tranh chấp thương mại ở tỉnh Hải Dương
.............................................................................................................................. 36
2.2.1 Kết quả hòa giải các tranh chấp thương mại tại Hải Dương ......................... 37
2.2.2. Những hạn chế về áp dụng pháp luật trong hòa giải tranh chấp thương tại
tỉnh Hải Dương ..................................................................................................... 42
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 48
CHƯƠNG 3.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI TẠI TỈNH HẢI DƯƠN…………………………………………..49
3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật hòa giải tranh
chấp thương mại ở tỉnh Hải Dương........................................................................ 49
3.1.1 Những thuận lợi. ........................................................................................... 49
3.1.2 Những khó khăn. ........................................................................................... 51
3.2 Các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hòa giải tranh chấp
thương mại tỉnh Hải Dương. .................................................................................. 52
3.2.1 Hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành ......................................... 52
3.2.2 Hoàn thiện các biện pháp tổ chức thực thi hòa giải tranh chấp thương mại. . 58

3.2.3 Các giải pháp cho địa phương. ..................................................................... 62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 66
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 68

vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với xu thế hội nhập và phát triển, hoạt động kinh doanh thương
mại (bao gồm cả đầu tư thương mại dịch vụ, thương mại hàng hóa) ngày càng phát
triển đa dạng và phong phú. Khi các quan hệ thương mại phát triển thì rủi ro có thể
xảy ra, đó là những xung đột, bất đồng về tranh chấp thương mại ngày càng phức
tạp. Do vậy, đòi hỏi phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả hơn. Việc
giải quyết tốt các tranh chấp thương mại không chỉ có tác dụng trong việc bảo vệ,
khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tranh chấp mà còn tăng tính ổn
định của nền kinh tế, nhất là trong điều kiện có sự cạnh tranh toàn cầu về thương
mại. Đây cũng là một điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở bất kỳ quốc
gia nào, nhất là đối với Việt Nam – quốc gia đang trong quá trình hội nhập quốc tế
và phát triển kinh tế thị trường.
Đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước cũng như để phù hợp
hơn với pháp luật và thực tiễn quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương
mại, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo ra những hành lang
pháp lý thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại như: Bộ luật tố
tụng dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011; Luật trọng tài thương mại 2010, Luật
đầu tư 2014, Luật thương mại 2005… Bên cạnh việc ban hành pháp luật, Nhà nước
cũng ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến việc giải quyết tranh chấp thương
mại như Công ước New York (1958) về chấp nhận các Luật mẫu hoặc tập quán
quốc tế như Luật mẫu về trọng tài của ULCITRAl, các hợp đồng mẫu của FIDIC,

INCOTERM…Việc ký kết các điều ước quốc tế, chấp nhận các luật mẫu quốc tế
tạo điều kiện thuận lợi giúp cho việc giải quyết các tranh chấp trong hoạt động
thương mại nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, để giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại, các bên tranh chấp có thể lựa chọn thương lượng, hòa giải,

1


trọng tài hoặc tòa án. Trong số các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại,
hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên thế giới.
Ở Việt Nam, phương thức này cũng được ghi nhận và được các chủ thể tham
gia tranh chấp lựa chọn khi họ gặp vướng mắc, bất đồng trong hoạt động thương
mại. Tuy vậy, các vấn đề liên quan đến phương thức này như nguyên tắc, thủ tục
giải quyết, hiệu lực, giá trị pháp lý của văn bản hòa giải, hòa giải viên…chưa được
pháp luật quy định cụ thể và đầy đủ. Trong khi, mặc dù có nhiều ưu thế như thủ tục
nhanh gọn, ít tốn kém, đảm bảo tính bí mật kinh doanh, hòa giải vẫn gặp không ít
nghi ngại từ các chủ thể tranh chấp thương mại. Để hòa giải trở thành phương thức
được ưa chuộng hơn trong việc giải quyết tranh chấp thương mại thì việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho vấn đề này được coi
là cần thiết khi hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại.
Xuất phát từ những phân tích trên đây, với vị trí công tác liên quan đến việc
giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp thương mại tại địa phương nói riêng,
tác giả chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại∗ bằng hòa giải từ thực tiễn
tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói, bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại như
thương lượng, trọng tài, tòa án thì giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương
thức hòa giải cho tới nay chưa được nghiên cứu nhiều. Tuy vậy, với những ưu điểm
nhất định và xuất phát từ nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại trên thực tế, các

công trình khoa học liên quan được mà người viết đã sưu tầm được đó là: Luận án
tiến sĩ của tác giả Đào Văn Hội “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị
trường”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Luận văn của tác giả Nguyễn Hoài
Sơn về “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức thương lượng, hòa

Khái niệm chính thức của pháp luật là "tranh chấp kinh doanh, thương mại". Tuy nhiên, Tên đề tài ghi là
"tranh chấp thương mại". Vì vậy, khái niệm "tranh chấp thương mại" được nói đến trong Luận văn này được
hiểu là tranh chấp kinh doanh, thương mại theo khái niệm được ghi nhận trong pháp luật hiện hành.



2


giải – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại học Luật Hà Nội, 2004; Luận văn
“Pháp luật điều chỉnh hoạt động hòa giải tư pháp trong giải quyết tranh chấp thương
mại tại Việt Nam” của tác giả Vũ Hương Giang, Đại học Luật Hà Nội,
2015…Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu như: “Giải quyết
tranh chấp kinh tế theo phương thức thương lượng, hòa giải của TS Trần Ngọc
Dũng, tạp chí Luật học 1/2004; Bài viết: “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh
tế tại Việt Nam” của TS Dương Thanh Mai, Tạp chí Khoa học pháp lý số 5/2012;
bài viết: “Pháp luật và thực tiễn của Australia về hòa giải – một số kiến nghị áp
dụng cho Việt Nam của tác giả Đặng Hoàng Oanh (nguồn: Công thông tin Bộ Tư
pháp), “Thương lượng, hoà giải - lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp kinh
doanh” của PGS.TS Trần Đình Hảo; “Thực trạng về hoà giải tranh chấp thương mại
quốc tế ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hoàng Nhật Thi đăng trên Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 3/2010; “Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay” của TS Phạm Hữu Nghị... …
Các công trình nghiên cứu tập trung nêu ưu điểm, đặc thù, điều kiện đảm bảo
của hòa giải tranh chấp thương mại. Tuy vậy, việc nghiên cứu đầy đủ và toàn diện

về hòa giải như là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại từ thực tiễn
tại tỉnh Hải Dương thì chưa hề được nghiên cứu trong khuôn khổ của một luận văn
thạc sĩ luật học.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn không đề cập đến những vấn đề khác nhau của các phương thức
giải quyết tranh chấp mà chỉ tập trung vào hòa giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại trên phương diện lý luận và thực tiễn tại tỉnh Hải Dương. Do đó, luận
văn chỉ đưa thêm nội dung về các phương thức giải quyết tranh chấp khác để so
sánh và làm nổi bật sự ưu việt của phương thức hòa giải trong hệ thống các biện
pháp giải quyết tranh chấp thương mại. Bên cạnh đó, Luận văn cũng nghiên cứu
luật thực định của Việt Nam về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc, thủ tục và hiệu lực
của biên bản hòa giải từ đó đề xuất những ý kiến nhằm hoàn thiện phương thức này.

3


Do tác giả công tác tại Tòa án nên mặc dù tên đề tài là “Giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” nhưng tác giả chủ yếu
nghiên cứu về hòa giải tại Tòa án là một thủ tục bắt buộc.
4. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài
Mục đích của Đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về tranh chấp thương
mại và hòa giải tranh chấp thương mại; xác định được vị trí, vai trò của hòa giải
trong giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay; đánh giá một cách toàn diện,
khách quan thực trạng pháp luật và nguyên tắc áp dụng pháp luật trong hòa giải
tranh chấp thương mại; phân tích làm rõ những vướng mắc của pháp luật hiện hành
về hòa giải giải quyết tranh chấp thương mại thông qua thực tiễn qua đó đưa ra một
số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hòa giải tranh chấp thương mại tại Hải Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu cụ thể dựa trên phương
pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê nin để làm rõ nội dung của đề tài. Phương

pháp chứng minh, phân tích, khái quát được sử dụng làm rõ các khái niệm, thuật
ngữ, luận cứ cũng như quy định của pháp luậ về tranh chấp thương mại và hòa giải.
Phương pháp đối chiếu được áp dụng trong việc làm nổi bật những điểm khác biệt
của phương thức này so với các phương thức khác. Ngoài ra, phương pháp phân
tích được sử dụng để đánh giá vai trò của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải từ dó đề xuất nhưng biện pháp hoàn thiện pháp luật về
hòa giải tranh chấp thương mại.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Đề tài đạt được một số kết quả và có thể coi là đóng góp mới sau đây:
-

Luận văn phân tích một số vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và hòa
giải tranh chấp thương mại

-

Luận văn phân tích thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành và thực
tiễn hòa giải tranh chấp thương mại tại tại tỉnh Hải Dương

4


- Luận văn đề xuất một số các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác hòa
giải tranh chấp thương mại ở Tỉnh Hải Dương.
7. Kết cấu của luận văn
Với yêu cầu, mục đích trên đây, ngoài phần mục lục, mở đầu và kết luận, luận
văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Khái quát về tranh chấp thương mại và hòa giải tranh chấp thương
mại
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp thương mại và thực tiễn

áp dụng tại tỉnh Hải Dương
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hòa giải tranh chấp thương mại ở tỉnh
Hải Dương

5


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ
HÒA GIẢI TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái quát về tranh chấp thương mại

1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành dòng chảy chủ đạo như
hiện nay, tranh chấp thương mại (TCTM) thực tế khó tránh khỏi trong các quan hệ
kinh tế. Việt Nam đang ở trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là một trong
những nước có tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm tương đối cao so với thế giới nên
cũng tiềm ẩn nhiều TCTM .
Quan hệ thương mại vốn dĩ rất phức tạp và dễ nảy sinh tranh chấp. Các
thương nhân khi tham gia quan hệ thương mại nếu không tìm thấy những lợi ích sẽ
xuất hiện những bất đồng về quyền và nghĩa vụ. Chúng ta đang tiến hành phát triển
kinh tế đối ngoại theo hướng tham gia ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế,
tham gia khối thương mại dịch vụ tự do AFTA và Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO và ký kết Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP) áp dụng
các chuẩn mực thương mại quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu để xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
thương mại trọng nước và quốc tế là điều cần thiết.

Theo từ điển Tiếng Việt thì tranh chấp được hiểu là sự giành giật, giằng co
nhau cái không thuộc về bên nào. Khi nói về tranh chấp người ta thường nghĩ đến
những mâu thuẫn, bất đồng hoặc xung đột giữa các chủ thể trong mối quan hệ. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp nhưng suy cho cùng, mọi tranh chấp đều liên
quan đến lợi ích kinh tế. Tranh chấp là sự bất đồng, xung đột về quyền lợi, mâu
thuẫn về quan điểm của các thể nhân, pháp nhân với nhau trong cùng một lĩnh vực.

6


Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn
này có thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên
chúng được gọi theo ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lương giữa người lao
động và người sử dụng lao động được gọi là tranh chấp lao động. Tương tự như
vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai... đều là những tranh chấp có liên quan
đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó chúng có thể được gọi là tranh chấp kinh tế
theo nghĩa rộng. Một đặc trưng của các tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các
chủ thể tham gia vào quan hệ này không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Trước
khi sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” thì thuật ngữ “tranh chấp kinh tế”
được sử dụng khá rộng rãi trong khoa học pháp lý cũng như trong đời sống xã hội.
Bên cạnh thuật ngữ này chúng ta còn biết đến thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh”,
“tranh chấp hợp đồng kinh tế”…
Thuật ngữ tranh chấp kinh tế lại được hiểu ở mức độ khác nhau: Nếu xuất
phát từ luật nội dung thì tranh chấp kinh tế bao gồm các tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực kinh tế mà lĩnh vực kinh tế thì rất rộng, bao gồm tài chính ngân hàng, kinh
doanh, lao động… do vậy tranh chấp kinh tế hiểu theo nghĩa này là rất rộng. Trong
phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tập trung vào phân tích sự tương đồng và khác biệt
giữa phương thức hòa giải và thủ tục hòa giải các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại là

tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành
viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó
của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành viên khác áp dụng
một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi
phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu hoặc suy
giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên bất kể là
biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu kiện không có vi
phạm); hoặc khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt
mục tiêu hiệp định (khiếu kiện tình huống). Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành
7


một tranh chấp của WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO.
Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng giữa
các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các
Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho
Ban thư ký WTO. Như vậy, tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO có một số
đặc điểm sau: (i) tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO là tranh chấp
thương mại quốc tế liên quốc gia, liên Chính phủ; (ii) các bên tranh chấp là thành
viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, pháp nhân… không thể là một bên
của tranh chấp; (iii) khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO và (iv) tranh chấp
phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSM).
Luật Thương mại (1997) sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” tuy cụ
thể hơn khái niệm tranh chấp kinh tế nhưng chưa tương thích với quan niệm phổ
biến của các nước trên thế giới về TCTM. Điều 238 Luật Thương mại (1997) định
nghĩa: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Định nghĩa này đã
loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là TCTM mặc dù về bản chất hoàn toàn có
thể coi là TCTM trong nền kinh tế hiện đại. Điều này đã tạo ra sự không tương

thích giữa luật quốc gia với luật quốc tế.
Cũng như pháp luật quốc tế, hiện nay pháp luật Việt Nam quan niệm hoạt
động thương mại theo nghĩa rộng bao gồm nhiều hành vi thương mại. Luật trọng tài
Thương mại tuy không đưa ra định nghĩa về TCTM song với việc quy định về thẩm
quyền giải quyết tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại (2010): “1. Tranh chấp giữa
các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. 2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên
trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.3. Tranh chấp khác giữa các bên
mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài” đã tạo ra sự tương đồng
trong quan niệm về “thương mại” và TCTM với pháp luật và thông lệ quốc tế cụ
thể là khái niệm thương mại trong Luật mẫu của Liên hợp quốc về trọng tài, Hiệp
định Thương mại Việt – Mỹ và WTO.
8


Luật Thương mại (2005) đã mở rộng hơn về nội hàm khái niệm hoạt động
thương mại. Mọi hoạt động có mục đích “sinh lợi” đều là hoạt động thương mại.
Điều này được quy định rõ trong Điều 3 Luật Thương mại (2005) theo đó: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác” . Hướng tiếp cận này của Luật Thương mại (2005) tương đồng với
khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp (2005) và Luật Doanh nghiệp
(2014): “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Các khái niệm trên có nội hàm giống như khái niệm thương mại của WTO.
Điều này là phù hợp với luật pháp quốc tế, phù hợp với luật pháp trong nước vì thiết
chết giải quyết TCTM được hiểu là tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, hay
tranh chấp trong hoạt động thương mại theo như các khái niệm nêu trên và tương
xứng với thuật ngữ tranh chấp kinh tế được hiểu theo nghĩa luật tư. Theo Điều 30
Bộ luật Tố tụng dân sự (2015) đã liệt kê các TCTM thuộc thẩm quyền giải quyết

của Tòa án. Các tranh chấp này bao gồm phần lớn các tranh chấp thương mại được
hiểu theo tinh thần của Luật Thương mại (2005).
Qua sự phân tích trên, có thể thấy tranh chấp thương mại là sự bất đồng, mâu
thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt
động thương mại trên thị trường. Tranh chấp thương mại còn là sự bất đồng về một
hiện tượng pháp lý (bất đồng về quyền và nghĩa vụ) phát sinh trong đời sống kinh tế
giữa các chủ thể tiến hành hoạt động thương mại và thông thường gắn liền với các
yếu tố, lợi ích về tài sản hay có thể là “tranh chấp phát sinh giữa các bên trong một
giao dịch thương mại” (khoản 4 Điều 9, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ). Cội
nguồn của tranh chấp thương mại chính là quyền và lợi ích kinh tế của một trong
các bên bị xâm phạm và các chủ thể không tìm được sự giải quyết.

9


1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ các quan hệ thương mại
khi các bên có quan hệ bất đồng, mâu thuẫn với nhau. Đây là những quan hệ có tính
chất tài sản với mục đích kinh doanh và thu lợi nhuận. Chủ thể tham gia quan hệ
thương mại phải đáp ứng những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Từ khái
niệm và sự phân tích ở trên có thể thấy TCTM có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được
hiểu là trạng thái xung đột, đối xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh
chấp. Quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là
điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại, các bên
vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra. Do
đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.
Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp

thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu
thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ
cụ thể bao gồm:
- Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi;
thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các
giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
10


- Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động thương mại.
Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi
phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các
bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có
những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp.
Tranh chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh
giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài thương
nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất

định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể
của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên không có mục đích sinh lợi
chọn áp dụng luật thương mại. Khoa học pháp lý gọi giao dịch này là giao dịch hỗn
hợp (hành vi hỗn hợp). Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của
một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần
túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì
quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan
hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Một quy tắc được
pháp luật của Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này đó
là căn cứ vào bị đơn là thương nhân hay không phải là thương nhân. Nếu bị đơn là
thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi dân sự) có thể chọn Tòa Thương mại
hoặc Tòa Dân sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường hợp nguyên đơn chọn Tòa
Thương mại thì các quy định khắt khe hơn của luật thương mại được áp dụng để
giải quyết vụ tranh chấp. Ngược lại, bị đơn không phải là thương nhân thì nguyên

11


đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ có quyền kiện ra Tòa Dân sự và luật dân sự
được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp mà các quy định của luật thương mại
không thể áp dụng cho đối phương không phải là thương nhân1.
Tranh chấp thương mại rất đa dạng bắt nguồn từ những hành vi vi phạm hợp
đồng, vi phạm pháp luật, nhưng loại tranh chấp mang tính phổ biến vẫn là tranh
chấp về hợp đồng. Tuy vậy, không phải bất kỳ sự vi phạm hợp đồng nào cũng dẫn
đến TCTM. Có những trường hợp không có sự vi phạm nào cũng vẫn phát sinh
TCTM. Pháp luật Việt Nam quy định vấn đề giải quyết TCTM còn thiếu chặt chẽ.
Điển hình là các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng mới chỉ dừng lại ở
mức độ ghi nhận mà thiếu các quy định cần thiết để cho chúng vận hành và nâng
cao hiệu quả thực thi.
Mọi tranh chấp thương mại đều cần được giải quyết một cách triệt để, thích

hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về lợi ích giữa các bên, tạo lập lại
sự cân bằng về lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Tinh thần thương mại tạo
cho con người một ý thức về công bằng đúng mức, một mặt nó phản đối cướp bóc,
mặt khác nó phản đối đạo đức đơn thuần khiến người ta không muốn tranh chấp gay
gắt về mình mà sao nhãng những lợi ích của người khác.

1.1.3. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại
Giải quyết TCTM là hình thức, biện pháp thích hợp để hàn gắn những bất
đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, lập lại sự cân bằng về lợi ích mà các bên có thể
chấp nhận được trong quan hệ thương mại. Mục đích quan trọng mà việc giải quyết
tranh chấp thương mại đặt ra chính là đem lại “sự công bằng đúng mực,…khiến cho
người ta không muốn tranh chấp gay gắt về mình mà sao nhãng lợi ích của người
khác. Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các phương thức giải quyết TCTM thể

1

Francis Lemeunier, Nguyên lí thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1993.

12


hiện quyền lực nhà nước như trung gian (mediation), hòa giải (conciliation), thương
lượng (negotiation), trọng tài (arbitration)…dù cho phương thức nào được lựa chọn
thì nó cũng cần phải đạt được mục đích tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các bên,
loại bỏ được bất đồng.
Giải quyết TCTM phải đáp ứng được yêu cầu sau:
- Đảm bảo quyền tự do thỏa thuận và lựa chọn cơ chế giải quyết của các bên
chủ thể tranh chấp. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn cơ quan tài phán và hệ
thống pháp luật điều chỉnh trên cơ sở luật công pháp và tư pháp quốc tế.

- Nhanh chóng, kịp thời tạo điều kiện thuận lợi không làm ảnh hưởng tới các
hoạt động kinh doanh. Yêu cầu quan trọng nhất khi giải quyết các tranh chấp
thương mại, Tòa án cần nhanh chóng, kịp thời giải quyết vụ án, để đảm bảo khắc
phục kịp thời quyền lợi cho bên bị vi phạm không làm ảnh hưởng tới các hoạt động
kinh doanh. BLTTDS quy định cụ thể về thời hạn ở các giai đoạn tố tụng từ thời
hạn thụ lý, thu thập chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử, thời hạn ban hành quyết định,
bản án, thời hạn kháng cáo quyết định, thời hạn khiếu nại và yêu cầu giải quyết theo
trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Để thực hiện được nguyên tắc này, Tòa án phải
được tổ chức và hoạt động có hiệu quả, đặc biệt cần phải chú trọng đến trình độ của
thẩm phán.
- Khôi phục và duy trì quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa cá bên trong kinh
doanh. Xuất phát từ quan hệ kinh doanh, thương mại được thiết lập trên cơ sở tự
nguyện của các bên, nguyên tắc tự định đoạt, hòa giải trong giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại nên việc giải quyết loại tranh chấp này cần phải cho
các bên chủ thể nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong vụ án, qua đó để họ
tiếp tục và duy trì các quan hệ hợp tác, vì lợi ích của các bên và cộng đồng.
- Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường. Tòa án khi
thụ lý giải quyết các tranh chấp thương mại cần giữ gìn bí mật kinh doanh để tránh
gây ảnh hưởng đến hoạt động của các bên chủ thể.

13


- Tối đa hóa lợi ích kinh tế cho các bên chủ thể. Quá trình giải quyết các
tranh chấp kinh doanh thương mại, Tòa án cần vận dụng những phương thức thích
hợp để giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, hiệu quả cao nhất và hướng cho các
bên đương sự lựa chọn phương thức giải quyết có lợi nhất.

1.2 Khái quát chung về hòa giải tranh chấp thương mại
1.2.1 Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại

Hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại được tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, có 2 cách tiếp
cận chính đó là nghiên cứu hòa giải với tư cách là 1 phương thức giải quyết TCTM
và hòa giải với tư cách là 1 thủ tục trong quá trình giải quyết TCTM.

1.2.1.1 Khái niệm phương thức hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, các chủ thể kinh doanh thiết
lập các mối quan hệ thương mại với nhau. Tuy nhiên, không phải bất cứ mối quan
hệ thương mại nào cũng đều tốt đẹp, quyền, nghĩa vụ của các bên không phải lúc
nào cũng được thực hiện một cách nghiêm túc cho nên những TCTM là điều không
tránh khỏi. Do vậy các chủ thể kinh doanh luôn phải tìm cách giải quyết tranh chấp
để hoạt động thương mại được duy trì và phát triển. Khi xảy ra tranh chấp thương
mại, các chủ thể có nhiều sự lựa chọn giải quyết như tự thương lượng với nhau, nhờ
người trung gian đưa ra giải pháp, lựa chọn tổ chức trọng tài hoặc tòa án. Mỗi
phương thức có ưu điểm và nhược điểm riêng nhưng phương thức hòa giải được
khá nhiều chủ thể của TCTM lựa chọn.
Cơ sở lý luận cho việc hình thành phương thức hòa giải bắt nguồn từ quyền
tự do kinh doanh, tự do định đoạt của các chủ thể kinh doanh. Quan điểm của nhiều
nước trên thế giới cho rằng pháp luật dân sự cũng như luật thương mại thuộc lĩnh
vực “luật tư”. Điều đó có nghĩa là những ngành luật này điều chỉnh chủ yếu mối

14


quan hệ giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau theo phương thức bình đẳng, tự do,
tự chủ và thỏa thuận, do vậy, các chủ thể này dễ dàng thỏa thuận trên cơ sở tự
nguyện, mối quan hệ đã được xây dựng và duy trì nên dễ dàng chia sẻ lợi ích cũng
như thiệt hại. Trong nền kinh tế thị trường, việc xử lý các mối quan hệ giữa các nhà
kinh doanh trong việc giải quyết tranh chấp xảy ra không chỉ được thực hiện theo
các quy định của pháp luật mà còn cần dựa trên các thông lệ, quy tắc của đời sống

thương mại.
Theo từ điển Tiếng Việt (1992), hòa giải là “việc thuyết phục các bên tranh
chấp chấm dứt xung đột, hay xích mích một cách ổn thỏa”. Hòa giải chính là một
quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất “riêng” trong đó hòa giải viên là
người thứ ba trung lập giúp các bên tranh chấp đạt được một sự thỏa thuận giải
quyết một cách nhanh chóng. Hòa giải là một phương pháp truyền thống phổ biến
được các quốc gia công nhận và khuyến khích đặc biệt khu vực Châu Á.
Hiện nay, trong nhiều tài liệu thường đề cập đến hai loại hòa giải, đó là hòa
giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng. Hòa giải trong tố tụng được tiến hành
hòa giải tại tòa án và trọng tài khi các cơ quan này thụ lý giải quyết tranh chấp theo
yêu cầu của các bên. Hòa giải ngoài tố tụng là hòa giải thông qua trung gian hòa
giải được các bên tiến hành trước khi đưa vụ việc ra cơ quan tài phán hoặc tiến hành
sau khi phán quyết có hiệu lực. Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu “giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải là phương thức có sự tham gia của bên thứ ba
độc lập do hai bên tranh chấp thỏa thuận hay chỉ định làm vai trò hỗ trợ trung gian
cho các bên nhằm tìm kiếm giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung độc nhằm
chấm dứt tranh chấp”. Nói cách khác, trong việc hòa giải này Nhà nước không can
thiệp trực tiếp, cụ thể. Kết quả của việc hòa giải là một phương án giải quyết TCTM
mà các bên có thể chấp nhận được. Hòa giải các TCTM là giải pháp mang tính chất
tự nguyện tùy thuộc vào sự lựa chọn của các chủ thể kinh doanh nhằm giải quyết
tranh chấp một cách thân thiện, hòa bình. Để phương thức này đạt được hiệu quả thì
chủ thể quan trọng đó chính là hòa giải viên – chủ thể trung gian. Công việc của hòa
giải viên là nghiên cứu phân tích thông tin dữ liệu liên quan đến vụ tranh chấp, nhận
15


định, nêu ý kiến và bình luận dưới góc độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp lý các vấn
đề liên quan đến vụ tranh chấp để các bên tranh chấp cùng nhau tham khảo, xem
xét. Hòa giải viên cũng có thể nêu ra phương án giải quyết để các bên lựa chọn.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, hòa giải viên không được cưỡng ép các bên

lựa chọn phương án mà mình đưa ra mà phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên.
Đối với việc giải quyết TCTM bằng phương thức hòa giải có một số nội dung sau:
Thứ nhất, khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn người
trung gian hòa giải khi có tranh chấp xảy ra, được quy định trước trong hợp đồng.
Khi xảy ra tranh chấp các bên sẽ thực hiện theo sự thỏa thuận trước đó. Trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận, khi tranh chấp phát sinh các bên thỏa
thuận lựa chọn hòa giải viên.
Thứ hai, các bên trong quan hệ thương mại có thể thỏa thuận, xác định quy
trình tiến hành hòa giải. Trong trường hợp không xác định được, hòa giải viên có
thể lựa chọn quy trình phù hợp.
Thứ ba, các quan điểm, nhận xét của hòa giải viên chỉ mang tính chất khuyến
nghị đối với các bên, không có tính chất bắt buộc. Khi được các bên tranh chấp
chấp thuận những kiến nghị giải pháp đó sẽ có hiệu lực thi hành với tất cả các bên.
Thứ tư, khi các kiến nghị, giải pháp của hòa giải viên được chấp nhận thì cần
được các bên tuân thủ thi hành. Có thể coi thỏa thuận đạt được thông qua hòa giải
giống như một bản hợp đồng mới. Nếu bên nào không nghiêm chỉnh thực hiện thì
có thể bị bên còn lại kiện ra cơ quan tài phán/thi hành án để cưỡng chế thi hành.
Tuy nhiên, điều này cho đến nay vẫn không được các quy định pháp luật quy định
cụ thể.
Hình thức trung gian hòa giải thông thường thích hợp cho việc giải quyết
tranh chấp thương mại mà ở đó, ngoài yếu tố thiện chí của các bên còn phụ thuộc
vào hòa giải viên. Với kiến thức pháp lý và kỹ năng thương thuyết, chủ thể này sẽ
giúp các bên tranh chấp hiểu rõ được các quy định của pháp luật về hoạt động
thương mại, từ đó, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể tranh chấp.

16


1.2.1.2 Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Trên thực tế, không có một quy trình hòa giải mang tính thống nhất trên toàn

thế giới mà mỗi trung tâm hòa giải và mỗi hòa giải viên sẽ áp dụng những quy trình
riêng phù hợp với nội dung và tính chất của vụ tranh chấp. Nhìn chung, quy trình
hòa giải thường bắt đầu bằng việc hai bên tranh chấp cùng đề nghị hòa giải với hòa
giải viên hoặc một tổ chức hòa giải; một bên cũng có thể đơn phương liên hệ với
hòa giải viên hoặc với một tổ chức hòa giải để yêu cầu tiến hành hoà giải, khi đó
hòa giải viên hoặc tổ chức hòa giải sẽ liên hệ và thuyết phục phía bên kia tham gia
hòa giải. Việc hòa giải chỉ được thực hiện sau khi có sự đồng ý của cả hai bên tranh
chấp. Trong quá trình hòa giải, hòa giải viên sẽ áp dụng các kỹ năng giải quyết
tranh chấp của mình nhằm giúp các bên thảo luận và thương lượng với nhau để tìm
ra giải pháp cuối cùng cho vụ tranh chấp. Trong trường hợp các bên đạt được thỏa
thuận, hòa giải viên sẽ giúp các bên soạn thảo thỏa thuận hòa giải một cách chi tiết,
bản thỏa thuận này có giá trị pháp lý như một hợp đồng. Một trong các bên hoặc
bản thân hòa giải viên có quyền chấm dứt hòa giải vào bất cứ giai đoạn nào của quá
trình hòa giải khi thấy việc hòa giải sẽ không mang lại hiệu quả (ví dụ khi có bằng
chứng để cho rằng một trong các bên thiếu thiện chí…).
Bên cạnh đó, hòa giải trong tố tụng là một giai đoạn giải quyết tranh chấp
trong thủ tục tố tụng, được quy định bởi pháp luật Việt Nam. Tòa án sẽ phân công
một thẩm phán xét xử vụ án sẽ đóng vai trò là bên thứ ba độc lập để giúp các bên
tranh chấp tự thỏa thuận cách giải quyết vấn đề mà không cần phán quyết của tòa án
. Các thông tin thu được trong giai đoạn này sẽ được sử dụng để giúp hội đồng xét
xử đưa ra làm phán quyết. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn việc tham gia hòa
giải. Các thỏa thuận của các bên sẽ được ghi nhận trong biên bản hòa giải. Sau khi
thẩm phán ra quyết định công nhận các bên hòa giải thành thì các thỏa thuận sẽ có
giá trị thực hiện như một bản án hiệu lực.

17


1.2.2 Yêu cầu đối với hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại
- Giải quyết TCTM phải nhanh chóng, linh hoạt, không làm hạn chế, cản trở

hoạt động kinh doanh.
Đối với thương nhân, thời gian và cơ hội để sản xuất liên tục là điều kiện ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Vì thế, yếu tố nhanh chóng, tiết kiệm thời gian là yêu
cầu quan trọng đầu tiên được các bên tranh chấp đặt ra khi lựa chọn phương thức
giải quyết TCTM. Hòa giải có thể được tiến hành trong nhiều môi trường khác
nhau, thủ tục có thể được thỏa thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh hoạt
đem lại lợi thế là các bên được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù hợp với họ;
cho phép có những điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các bên tranh chấp đòi
hỏi phải vậy; tránh khả năng về việc có những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật quá phức
tạp. Ngược lại, phương thức tố tụng Tòa án có một cách thức tổ chức cứng nhắc
hơn, có những quy định và thủ tục cố hữu. Có một vài yếu tố mang tính kỹ thuật đòi
hỏi rất cao, buộc các bên phải nghiêm chỉnh chấp hành cả trong thời gian trước và
đang diễn ra quá trình xét xử.
Tuy nhiên cũng có những giới hạn đối với tính linh hoạt của hoạt động hòa
giải. Mặc dù nó không phải là một quá trình cứng nhắc, nhưng khi các hòa giải viên
hướng dẫn, các bên vẫn phải có sự thống nhất cao trong các giai đoạn khác nhau.
Các hòa giải viên phải thực hiện một cách có hệ thống qua từng giai đoạn của hoạt
động hòa giải theo trình tự cụ thể. Điều này giúp khai thác được từng điểm mạnh
trong toàn bộ quá trình hòa giải, vì mỗi một giai đoạn trong quá trình đó đều có cái
lý lẽ riêng của nó. Vì thế, mặc dù có sự linh hoạt, nhưng hòa giải mang tính tổ chức
hơn so với những cuộc đàm phán có tính chất tùy tiện. Một trong những đóng góp
của một hòa giải viên là có thể xác lập trật tự trong những cuộc đàm phán vô tổ
chức và thiếu thống nhất.
- Giải quyết TCTM nhằm khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm
giữa các bên trong kinh doanh.

18



×