Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 85 trang )

NGÔ THỊ KIM CÚC

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2014 - 2016

NGÔ THỊ KIM CÚC

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

NGÔ THỊ KIM CÚC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. NGUYỄN THỊ YẾN

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa sau Đại Học - Đại học mở Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật kinh tế xem xét để tôi có
thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ngô Thị Kim Cúc


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo Viện Đại Học Mở Hà
Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa Sau đại học đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá
trình tôi học tập, nghiên cứu chương trình Thạc sĩ khoá III tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Tiến sĩ Nguyễn Thị
Yến, người đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên, cổ vũ,
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.

Xin chân thành cảm ơn!


Tác giả

Ngô Thị Kim Cúc


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
NQTM

: Nhượng quyền thương mại

LTM

: Luật thương mại



: Nghị định

TT

: Nhãn hiệu hàng hóa

SHCN

: Sở hữu công nghiệp

TP

: Thành phố


HĐ NQTM

: Hợp đồng nhượng quyền hương mại


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

3

LỜI CÁM ƠN

4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

5

MỤC LỤC

6

PHẦN MỞ ĐẦU

8

Chương 1: Khái quát chung về nhượng quyền thương mại, hợp đồng 12
nhượng quyền thương mại và pháp luật về hợp đồng nhượng quyền
thương mại

1. 1 Khái quát chung về nhượng quyền thương mại

12

1.1.1 Lịch sử hình thành nhượng quyền thương mại

12

1.1.2 Khái niệm nhượng quyền thương mại

1

1.1.3 Các đặc điểm cơ bản của hoạt động nhượng quyền thương mại

16

1.1.4 Các hình thức nhượng quyền thương mại

20

1.1.5 Vai trò nhượng quyền thương mại

22

1.2. Khái quát về hợp đồng nhượng quyền thương mại

23

1.2.1 Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại


23

1.2.2 Đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại

28

1.3 Khái quát pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại

33

1.3.1 Khái niệm pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại

33

1.3.2 Nội dung pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại

33


Kết luận chương 1

36

Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền 37
thương mại ở Việt Nam
2.1 Thực trạng pháp luật điều chỉnh HĐNQTM ở Việt Nam

37

2.1.1 Quy định pháp luật về chủ thể hợp đồng nhượng quyền thương mại


39

2.1.2 Quy định pháp luật về đối tượng của hợp đồng thương mại

45

2 .1.3 Quy định pháp luật về hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại

47

2..1.4 Quy định pháp háp luật về nội dung hợp đồng nhượng quyền thương 55
mại
Kết luận chương 2

64

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhượng quyền 65
thương mại ở Việt Nam
3.1 Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật Hợp đồng nhượng quyền thương 65
mại
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng 66
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
3.2.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi của pháp luật hợp đồng 66
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
3.2.2 Một số kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật hợp đồng 68
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
Kết luận Chương 3.

81


KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
NQTM có lịch sử lâu đời và không nhừng khẳng định vị trí vai trò của mình ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Nó được chứng minh là một trong những mô hình kinh doanh thành
công nhất trong vòng 100 năm qua kể từ sau thế chiến thứ 2. Nhưng tại Việt Nam đây
còn là một lĩnh vực còn rất mới mẻ và gần đây hoạt động kinh doanh thương mại đang có
xu hướng phát triển nhanh, hàng loạt các loạt các doanh nghiệp Việt Nam có tên tuổi đã
tiến hành nhượng quyền thương mại trong nước và ngoài nước. Những cái tên như Cà Phê
Trung Nguyên, Phở 24, AQ silk, Kinh Đô bakery, Thời trang Foci...đã trở lên quen thuộc
với nhiều người tiêu dùng. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định lại là một trong bốn thị
trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới Do vậy Việt Nam là mảnh đất hứa để đẩy mạnh phát
triển hoạt động nhượng quyền thương mại.
Khi kinh doanh NQTM bên nhận quyền sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro trong kinh
doanh. Bên nhận quyền sẽ nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng quyền không chỉ trước
trước mà cả sau khi cửa hàng nhượng quyền được khai trương về các vấn đề như quảng
cáo, tiếp thị, đào tạo nhân viên. Mặt khác các thương hiệu được chuyển nhượng thường đã
được bảo hộ sẵn, như vậy bên nhận quyền không phải mất phí bảo hộ (một khoản phí
không nhỏ) như các thương nhân kinh doanh độc lập khác và cũng không lo bị khiếu kiện
liên quan đến vấn đề bảo hộ. Không chỉ vậy, bên nhận quyền còn được học hỏi kinh
nghiệm quản lý, được tiếp nhận các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến từ bên nhượng

quyền. So với các thương nhân kinh doanh độc lập thì đây là những nguồn lợi rất lớn của
thương nhân kinh doanh NQTM.
Luật Thương mại Việt Nam có hiệu lực từ tháng 01/2006 đã giúp thiết lập một
khung pháp lý rõ ràng hơn cho việc quản lý các hoạt động nhượng quyền. Sự phát triển
nhanh chóng các công trình xây dựng phục vụ ngành bán lẻ tại các thành phố lớn cùng với
sự kiện ngành bán lẻ Việt Nam đang được thế giới đánh giá cao về tính hấp dẫn và tiềm
năng phát triển đứng hàng thứ 4 trên thế giới. Việt Nam có đầy đủ những điều kiện cần
thiết để thu hút phát triển mô hình nhượng quyền thương mại (franchise): nền kinh tế phát
triển cao và ổn định hơn 7%/năm, nền chính trị ổn định, cung cấp thị trường tiêu thụ “trẻ”
hơn 84 triệu dân với mức thu nhập bình quân đầu người đang gia tăng nhanh, xuất hiện


tầng lợp tiêu dùng trẻ có thu nhập khá-cao và cộng đồng người nước ngoài đang sinh sống
và làm việc tại Việt Nam.
Quan hệ nhượng quyền thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực như: quyền sở hữu
trí tuệ, cạnh tranh, bản thân quyền thương mại lại được hình thành từ một gói các quyền
liên quan đến nhiều đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, vì vậy việc kiểm soát sở hữu đối
với loại tài sản này không dễ dàng. Do bên nhận quyền cũng độc lập về hoạt động kinh
doanh, thường không phải là công ty con hoặc công ty bị chi phối bởi bên nhượng quyền
nên có xu hướng muốn được thực hiện các hoạt động thương mại một cách độc lập, không
muốn chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền. Trong khi đó, bên nhượng quyền thông
qua thỏa thuận với bên nhận quyền trên cơ sở HĐNQTM luôn bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ của mình và thực hiện việc giám sát chặt chẽ đối với toàn hệ thống nhượng quyền mà
cụ thể là các bên nhận quyền. Chính vì vậy, mối quan hệ tưởng chừng như được kết nối
bởi sự hợp tác giữa các bên nhượng quyền và nhận quyền lại là mối quan hệ chứa đựng
những khả năng phát sinh tranh chấp. Thêm vào đó, thực tiễn của hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam cho thấy, có nhiều tác động tiêu cực, bắt nguồn
từ việc thực hiện nhượng quyền thương mại, tới các bên chủ thể của quan hệ nhượng
quyền thương mại, người tiêu dùng và nền kinh tế nói chung.
Trên thực tế, nhiều thương nhân khi muốn chọn lựa một mô hình kinh doanh phù hợp,

đã nhầm lẫn nhượng quyền thương mại với các hình thức kinh doanh khác có một số đặc
điểm tương đồng. Để khắc phục những hạn chế , cần có sự đánh giá một cách toàn diện cả
về lý luận và thực tiễn thực trạng pháp luật quảng cáo để đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài: “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật
Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học
2. Tổng quan nghiên cứu
Nhượng quyền thương mại là một chế định pháp lý được quy định trong Luật thương
mại Việt Nam 2005. Luận văn này đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề pháp lý có liên quan
tới hợp đồng nhượng quyền thương mại đề cập tới vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
của Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam thông qua việc tìm
hiểu, đánh giá nội dung Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Quốc hội khóa XIII thông
qua thực tiễn trong công tác quản lý và xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, các quy định liên


quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại và thực tế việc thực hiện hợp đồng thương
mại từ nước ngoài vào Việt Nam và hợp đồng nhượng quyền thương mại ở trong nước.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt
Nam, lý luận và thực tiễn” là tạo ra một công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn cấp
thạc sĩ, có tính hệ thống về những cơ sở pháp lý của việc Nhà nước về hợp đồng nhượng
quyền thương mại. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nhằm đáp ứng
có hiệu quả các yêu cầu do thực tiễn cuộc sống đặt ra, trong quá trình thực thi pháp luật về
hợp đồng nhượng quyền thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm: Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách
và pháp luật của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại và hợp
đồng nhượng quyền thương mại.
Luận văn đã phân tích vấn đề pháp lý về NQTM và Hợp đồng NQTM và PL về HĐ
NQTM đến phân tích thực trạng pháp luật vể HĐ NQTM từ đó chỉ ra những bất cập
vướng mắc và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện.

Đi sâu hơn nữa đối tượng nghiên cứu của luận văn là khía cạnh pháp lý của các điều
khoản và nội dung ,hình thức đối tượng, chủ thể trong hợp đồng nhượng quyền thương
mại dưới góc độ các quy định của pháp luật bao gồm:
5.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này lấy phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Để nghiên cứu có hiệu quả những vấn đề do đề tài đặt ra, luận án sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đây là phương pháp chủ
đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình nghiên cứu của luận án, để đưa ra những nhận định, kết
luận khoa học đảm bảo tính khách quan, chân thực. Từ phương pháp chung đó, luận án
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong quá trình nghiên cứu các nội dung chi
tiết của luận án. Tùy thuộc vào nội dung đối tượng nghiên cứu của từng chương, mục
trong luận án mà tác giả vận dụng các phương pháp khác nhau cho phù hợp.
Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương


pháp phân tích tổng hợp , phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp liệt kê ,… các
phương pháp này được sử dụng đan xen nhau để xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý
luận thực tiễn của Hợp đồng Nhượng Quyền Thương Mại nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật về hợp đồng NQTM của pháp luật Việt Nam
Luận văn bao gồm phần mở đầu và 3 chương với các phần chính sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại và hợp đồng
nhượng quyền thương mại
Chương 2: Thực trạng hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam và kinh
nghiệm quóc tế
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhượng quyền thương mại ở Việt
Nam



CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG
MẠI , HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI

1.1. Những vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại
1.1.1. Lịch sử hình thành nhượng quyền thương mại
Franchise (nhượng quyền thương mại) có nguồn gốc từ tiếng Pháp, có nghĩa là đặc
quyền, ưu đãi là một hình thức nhân rộng thương hiệu, nhân rộng mô hình kinh doanh đã
được du nhập và đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, đặc biệt sau khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO).
Hầu hết các tài liệu đều cho rằng nhượng quyền thương mại tuy có nguồn gốc sơ
khai tại Châu Âu sau đó lan rộng và được chính thức thừa nhận khởi nguồn, phát triển là
tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19 nhưng thực tế đã hình thành trước đó tại Trung Quốc với
hình thức có 2 – 3 điểm bán lẻ cùng hình thức tại một số địa điểm khác nhau cùng kinh
doanh1
Năm 1840, các nhà sản xuất bia của Đức cho phép một vài quán bia quyền bán sản
phẩm của họ. Năm 1851, lần đầu tiên trên thế giới nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ
ký cho thực hiện hợp đồng nhượng quyền kinh doanh. Singer đã ký hợp đồng nhượng
quyền và trở thành người tiên phong trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền. Năm
1880, bắt đầu xuất hiện hình thức nhượng quyền bán sản phẩm cho các đại lý độc quyền
trong lĩnh vực xe hơi, dầu lửa, gas. Trong thời gian này, phạm vi hoạt động nhượng quyền
chỉ là chuyển quyền phân phối và bán sản phẩm của các nhà sản xuất.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hình thức nhượng quyền thương hiệu chỉ thực sự bắt
đầu lớn mạnh và phát triển mạnh mẽ khi hàng loạt thương hiệu trong các ngành dịch vụ,
bán lẻ, chuỗi khách sạn, nhà hàng thức ăn nhanh ra đời, mà sự đồng nhất về cơ sở hạ tầng,
thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ thống kinh doanh
theo phương thức này…Từ những năm 60, franchise trở thành phương thức kinh doanh


1

“Nhượng quyền thương mại: Lịch sử, hiện tại và tương lai” Nguyễn Khánh Trung


thịnh hành, thành công không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở những nước phát triển khác như
Anh, Pháp... Đặc biệt trong những năm của thập niên 90 hoạt động nhượng quyền thương
mại thật sự bùng nổ trên thế giới bởi sự thành công của các thương hiệu nổi tiếng, trong
đó không thể không kể đến những thương hiệu đã gắn liền với văn hóa nước Mỹ như
McDonald’s, Jiffy Lube, Jani King, Holiday Inn, Dairy Queen, Quality Inn, Burger King,
Subway, Midas Muffler, Dunkin’s Donuts…
Tại Việt Nam, nhượng quyền thương mại vẫn còn khá mới mẻ tại mặc dù đã được
luật hóa vào năm 2006 với sự ra đời của Luật Thương Mại 2005. Thực ra, hình thức kinh
doanh nhượng quyền này đã có mặt tại Việt Nam từ trước năm 1975 thông qua một số hệ
thống nhượng quyền các trạm xăng dầu (gas station) của Mỹ như Mobil, Exxon (Esso),
Shell. Hoạt động nhượng quyền được manh nha xuất hiện trở lại vào giữa thập niên 90 với
sự gia nhập của một số thương hiệu nước ngoài, trong đó không thể không kể đến thương
hiệu nhượng quyền đầu tiên của Việt Nam là Trung Nguyên với sự xuất hiện đồng loạt hệ
thống các quán cà phê trên khắp mọi miền đất nước.
Theo đánh giá của hội đồng nhượng quyền quốc tế (WFC) hiện nay ở Việt Nam có
trên 70 hệ thống nhượng quyền hoạt động do các doanh nghiệp trong và ngoài nước tiến
hành với các tên tuổi đã trở nên quen thuộc như Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô Bakery,
Kentucky Fried Chicken (KFC), Gloria Jeans (Úc gốc Mỹ)... Mặc dù được xem là một
hình thức kinh doanh còn khá xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam nhưng sức hút đối với
hình thức kinh doanh này rất lớn bởi những lợi nhuận mà nó mang lại đã làm cho hoạt
động nhượng quyền thương hiệu ngày càng phát triển mạnh mẽ với tốc độ khá chóng mặt,
khoảng 15% đến 20%/năm theo ước tính của một số chuyên gia. Do đó, nhượng quyền
thương mại được dự báo sẽ phát triển vượt bậc trong thời gian sắp tới tại Việt Nam
Ở Việt Nam, pháp luật về HĐNQTM là một phần của pháp luật về nhượng quyền
thương mại và là nội dung quan trọng của pháp luật thương mại trong bối cảnh hội nhập

kinh tế sâu và rộng như ngày nay. Vấn đề này đang được nhiều nhà khoa học thuộc các
lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên cứu. Với từng phạm vi và mức độ khác nhau, có một
số công trình đã được công bố, đề cập đến một vài khía cạnh kinh tế, pháp lý của hoạt
động nhượng quyền thương mại và những ảnh hưởng của hoạt động thương mại này tới
đời sống xã hội.


1.1.2 Khái kiệm về nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại hay còn gọi là Franchise có nguồn gốc từ tiếng Pháp là
“franc” có nghĩa là “free” (tự do). Theo cách định nghĩa về Franchise trong từ điển Anh Việt của Viện ngôn ngữ học thì Franchise là cho phép ai đó chính thức đi bán hàng hóa
hay dịch vụ của một công ty ở một khu vực cụ thể nào đó. Còn theo định nghĩa của từ
điển Webster thì Franchise là một đặc quyền được trao cho một người hay một nhóm
người để phân phối hay bán sản phẩm của chủ thương hiệu. Cả hai định nghĩa này đều
hình dung Franchise như là một phương thức tiếp thị, phân phối sản phẩm hay dịch vụ
nào đó giữa hai bên đối tác với nhau: một bên được gọi là franchisor (bên nhượng quyền
hay chủ thương hiệu), bên còn lại được gọi là franchisee (bên nhận quyền hay mua
franchise). Hai bên đối tác này sẽ ký một hợp đồng, gọi là hợp đồng franchise.
Tuy có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay trên thế giới vẫn chưa có khái niệm
thống nhất về NQTM. Mỗi quốc gia đưa ra khái niệm khác nhau phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội và quan điểm lập pháp của nước mình. Định nghĩa của Uỷ ban thương mại
Liên minh Hoa Kỳ nhấn mạnh tới việc ên giao quyền kinh doanh hỗ trợ và kiểm soát bên
nhận trong hoạt động kinh doanh, theo đó hoạt động nhượng quyền thương mại
được hiểu như sau: “NQTM là thoả thuận, theo đó bên nhượng quyền có trách nhiệm hỗ
trợ đáng kể cho bên nhận quyền trong việc điều hành doanh nghiệp và kiểm soát chặt
chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của bên nhận quyền. Đồng thời bên
nhượng quyền phải lisence nhãn hiệu cho bên nhận quyền để phân phối sản phẩm hoặc
dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hoá của bên nhượng và yêu cầu bên nhận thanh toán một
khoản phí tối thiểu"
Theo hiệp hội NQTM quốc tế (IFA) thì: "NQTM là mối quan hệ theo hợp
đồng giữa bên giao và bên nhận, theo đó bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm

liên tục tới doanh nghiệp của bên nhận trên các khía cạnh như bí quyết kinh doanh, đào
tạo nhân viên. Bên nhận quyền hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hoá, phương thức, phương
pháp kinh doanh do bên giao sở hữu hoặc kiểm soát và bên nhận quyền đang và sẽ tiến
hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng nguồn lực của mình." Theo định nghĩa
này vai trò của bên nhận quyền kinh doanh trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh
nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh hơn so với trách nhiệm của bên giao quyền.


Liên minh Châu Âu định nghĩa: "NQTM là tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp
và sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bí quyết hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm
hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng". Như vậy có thể hiểu cách tiếp cận
của Liên minh Châu Âu là việc nhấn mạnh quyền của bên nhận quyền khi sử dụng tập
hợp các quyền sở hữu trí tuệ.
Ở Việt nam từ khi hoạt động nhượng quyền thương mại xuất hiện tại Việt Nam và
cho đến trước khi có Luật Thương mại 2005 thì hầu như không có một văn bản cụ thể nào
định nghĩa thế nào là nhượng quyền thương mại . Theo Nghị định 11/2005/NĐ-CP ngày
2-2-2005 (thay thế Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/1998) quy định chi tiết về
chuyển giao công nghệ có nêu:“Cấp phép đặc quyền kinh doanh, theo đó bên nhận sử
dụng tên thương mại, nhãn hiệuhàng hóa và bí quyết của bên giao để tiến hành các hoạt
động kinh doanh trong lĩnh ực thương mại”. Đây là nội dung chuyển giao công nghệ được
các chuyên gia kinh tế đánh giá trùng hợp với nội dung khái niệm franchise.
Khi Luật Thương mại 2005 đã lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam đưa
ra định nghĩa về nhượng quyền thương mại như sau: “Nhượng quyền thương mại là hoạt
động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự
mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
- Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức
kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa,
tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc
điều hành công việc kinh doanh.” ( Điều 284, Luật Thương mại 2005)
Định nghĩa trên đã nêu lên những nét chính, đặc trưng của nhượng quyền thương
mại. Tuy nhiên, định nghĩa đã bỏ qua một yếu tố chính của nhượng quyền là phí nhượng
quyền. Do hai bên tham gia quan hệ nhượng quyền là hai bên độc lập không có quan
hệvề vốn với nhau và hoạt động nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại
do các thương nhân thực hiện nên việc quy định về phí là cần thiết. Ngoài ra, việc quy
định cụ thể các đối tượng mà việc kinh doanh gắn với như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương
mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo là


không cần thiết vì trên thực tế việc kinh doanh có thể chỉ gắn liền với một trong hoặc một
vài các đối tượng trên và ngược lại cũng có thể gắn với các đối tượng khác ngoài các đối
tượng trên. Theo quan điểm của tác giả thì nhượng quyền thương mại ở Việt Nam nên
được định nghĩa như sau:
“Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại theo đó thông qua một hợp
đồng bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền độc lập tiến hành việc mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ theo một phương thức kinh doanh và gắn liền với các đối tượng
sở hữu trí tuệ do bên nhượng quyền sở hữu hoặc kiểm soát, bên nhượng quyền sẽ tiến
hành việc hỗ trợ và kiểm soát thường xuyên đối với việc kinh doanh của bên nhận quyền,
đổi lại, bên nhận quyền sẽ trả cho bên nhượng quyền một khoản phí”.
Như vậy qua việc xem xét qua các định nghĩa của Việt Nam cũng như của các
nước trên thế giới ta đưa ra một kết luận chung về nhượng quyền thương mại :
• Bên nhận quyền phân phối sản phẩm, cung ứng dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hoá,
các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và theo quy trình kỹ thuật do bên nhượng quyền xây
dựng và sở hữu
• Bên nhận quyền phải trả một khoản phí và chấp nhận các điều kiện do bên hượng
quyền quy định (các quy định về tiêu chuẩn hàng hoá, giá sản phẩm, cách bài trí cửa
hàng, cung cách phục vụ của nhân viên
1.1.3 Đặc điểm của Nhượng quyền thương mại

Hoạt động nhượng quyền thương mại là hoạt động kinh doanh phổ biến trên thế
giới. Tùy thuộc vào tập quán kinh doanh của từng quốc gia, từng khu vực cụ thể mà
nhượng quyền thương mại có những nét riêng biệt. Thế nhưng, khi xem xét một cách tổng
thể thì nhượng quyền thương mại phải có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất : Đối tượng của nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại” Việc
xác định đây là một hoạt động thương mại có ý nghĩa trong việc xác định pháp luật áp
dụng và xác định cơ quan tài phán trong trường hợp có tranh chấp. Theo NĐ số
35/2006/ND-CP thì “quyền thương mại” được hiểu bao gồm một, một số hoặc toàn bộ
các quyền sau đây:
- Quyền được Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự mình
tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do


Bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của Bên nhượng quyền;
- Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền sơ cấp quyền thương
mại chung. Bên nhận quyền sơ cấp là thương nhân nhận quyền thương mại từ Bên
nhượng quyền ban đầu;
- Quyền được Bên nhượng quyền thứ cấp (là thương nhân có quyền cấp lại
quyền thương mại mà mình đã nhận từ Bên nhượng quyền ban đầu cho Bên nhận quyền
thứ cấp) cấp lại cho Bên nhận quyền thứ cấp (là thương nhân nhận lại quyền
thương mại) theo HĐNQTM chung.
- Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền quyền thương mại theo
hợp đồng phát triển quyền thương mại.
Hiểu một cách khái quát thì “quyền thương mại” là quyền tiến hành kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định cùng với đó là việc sử
dụng các nhãn mác, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng
cáo ... của bên nhượng quyền.
Thứ 2: chủ thể tham gia hoạt động NQTM gồm bên nhượng quyền và bên nhận
quyền là các pháp nhân độc lập và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về mặt pháp lý

cũng như tài chính. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt quan hệ NQTM với quan
hệ chi nhánh. [3] Bên nhận quyền mặc dù kinh doanh dưới thương hiệu của bên nhượng
quyền nhưng lại hoàn toàn chủ động trong việc kinh doanh của mình, việc có lãi hay chịu
lỗ không liên quan trực tiếp đến bên nhượng quyền. Mặt khác các chủ thể hoạt động
NQTM đều là những doanh nghiệp hoàn toàn độc lập về mặt trách nhiệm đối với
khách hàng và đối với đối tác khác trong kinh doanh, vì vậy nó sẽ có địa vị pháp lý độc
lập khi kinh doanh NQTM
Thứ 3: là mối quan hệ hỗ trợ mật thiết giữ a bên nhượng quyền và bên nhận
quyền.
Khác với các loại hình kinh doanh thương mại khác, các bên trong quan hệ nhượng
quyền luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Và điều này làm nên nét đặc trưng cơ bản
nhất của hoạt động nhượng quyền khi so sánh với các loại hình thương mại khác. Nếu


không có mối liên hệ này thì đã thiếu đi một điều kiện tiên quyết để xác định hoạt động
đấy có phải là nhượng quyền thương mại hay không
Các bên nhận quyền phải tuân thủ trung thành mô hình NQTM, phải khai thác bí
quyết một cách nhất quán trong mạng lưới NQTM. Bên nhận quyền dùng nhãn hiệu hàng
hoá, bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền để sản xuất, phân phối hàng hoá và
cung ứng dịch vụ, đồng thời còn nhận được sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật, đào tạo của bên
nhượng quyền trong quá trình kinh doanh theo hợp đồng NQTM. Chính vì vậy, bên
nhượng quyền luôn có quyền kiểm soát đối với hoạt động kinh doanh của bên nhận
quyền để đảm bảo tính đồng bộ cho toàn hệ thống nhượng quyền. Ngược lại, bên nhận
quyền khi tham gia vào mạnh lưới kinh doanh nhượng quyền sẽ phải trả cho bên nhượng
quyền các khoản tiền cho việc sử dụng đối tượng NQTM để kinh doanh cũng như các
khoản tiền cho các công việc đào tạo, hỗ trợ mà mình nhận được. Đây vừa là nhiệm vụ
vừa là lợi ích của chính bên nhận quyền.
Như vậy đây chính là một đặc điểm giúp chúng ta tìm thấy sự khác biệt của
nhượng quyền thương mại với các hoạt động thương mại khác. Trong nhượng quyền
thương mại luôn tồn tại mối quan hệ hỗ trợ mật thiết g iữa bên nhượng quyền và bên nhận

quyền, nếu không có điều đó, thì đã thiếu đi một điều kiện tiên quyết để xác định hoạt
động đấy có phải là nhượng quyền thương mại hay không.
Thứ 4: Luôn có sự kiểm soát của bên nhượng quyền đối với việc điều hành công
việc của bên nhận quyền.
Do mục đích của hoạt động nhượng quyền thương hiệu là nhân rộng mô hình kinh
doanh, giúp tạo nên một hệ thống nhượng quyền ngày càng lớn mạnh song song với việc
gia tăng uy tín thương hiệu. Chính vì vậy, việc kiểm soát hoạt động kinh doanh của bên
nhượng quyền đối với bên nhận quyền không những là việc làm cần thiết mà còn là công
việc rất quan trọng đối với các bên trong quan hệ nhượng quyền nhằm thiết lập một sự
đồng bộ thống nhất trong chuỗi các cửa hàng nhượng quyền hoạt động dưới cùng một
thương hiệu. Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, giữa bên nhượng quyền và bên
nhận quyền luôn tồn tại mối quan hệ hỗ trợ mật thiết được hình thành ngay sau khi các
bên ký kết HĐNQTM. Sau thời điểm ký kết hợp đồng, Bên nhượng quyền phải tiến hành
cung cấp tài liệu, đào tạo nhân viên đồng thời cùng với sự lớn mạnh và phát triển theo
thời gian của hệ thống, bên nhượng quyền cũng phải thường xuyên hỗ trợ về mặt kỹ thuật


cho bên nhận quyền nhưng điều đó không có nghĩa là bên nhượng quyền sẽ kinh doanh
thay cho bên nhận quyền mà bên nhận quyền phải tự mình tiến hành các hoạt động kinh
doanh dưới tên gọi, bí quyết của bên nhượng quyền.. Sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối
với bên nhận quyền như đã nói ở trên sẽ trở nên vô nghĩa và thiếu đi tính thực tế nếu như
bên nhượng quyền không thực hiện hoặc không có quyền kiểm soát hoạt động điều hành
kinh doanh của bên nhận quyền. Đây không phải là nghĩa vụ mà còn là quyền đối với bên
nhượng quyền, thực hiện vì chính lợi ích của bên nhượng quyền. Quyền năng này của bên
nhượng quyền đã thực sự tạo nên chất kết dính quan trọng trong việc xây dựng tính thống
nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại
Thứ 5: Tính đồng bộ hệ thống của quan hệ nhượng quyền thương mại
Mục đích chính của bên nhượng quyền, khi chấp nhận nhượng lại “quyền thương
mại” của mình cho người khác, sau đó tiếp tục cũng kinh doanh với “quyền thương mại”
ấy là để mở rộng hệ thống sản xuất, phân phối hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ của mình.

Sự giống nhau trong chất lượng và hình thức của hàng hoá, dịch vụ, cách thức phục
vụcủa nhân viên khi cung ứng các sản phẩm trên thị trường tạo nên tính hệ thống của
quan hệ nhượng quyền thương mại. Bằng cách này hay cách khác, những đặc trưng cơ
bản nhất của hàng hoá, dịch vụ và cách thức cung ứng của bên nhượng quyền phải được
bên nhận quyền lặp lại. Mọi sự phát triển và sáng tạo không xuất phát từ ý chí
của bên nhượng quyền hoặc không có sự cho phép hoặc thỏa thuận trước với bên
nhượng quyền sẽ phá hỏng tính hệ thống của mạng lưới cung cấp dịch vụ, hàng hóa sản
phẩm được tạo ra từ quan hệ nhượng quyền thương mại.
NQTM là hoạt động kinh doanh theo mô hình mạng lưới thống nhất. Điều này thể
hiện ở chỗ: thống nhất về hành động của bên nhượng quyền và các bên nhận quyền
nhằm duy trì hình ảnh đặc trưng và duy trì dịch vụ đặc trưng, thứ hai là thống nhất về lợi
ích của bên nhượng quyền và của bên nhận quyền. Các bên tham gia vào hệ thống NQTM
phải có cùng mục đích chung là bảo vệ hình ảnh, uy tín cho th ương hiệu nên cần tuân thủ
mô hình kinh doanh một cách chặt chẽ, trung thành để tránh hậu quả đáng tiếc cho bên
nhượng quyền cũng như bên nhận quyền khác
Hoạt động của hệ thống NQTM thường dẫn tới hệ quả phân chia thị trường và có
thể gây hạn chế cạnh tranh. Hợp đồng NQTM có thể quy định vấn đề "phân chia thị
trường", bao gồm phân chia lãnh thổ (phân chia khu vực kinh doanh) và phân chia khách


hàng. Điều này rất có thể bị điều chỉnh bằng luật chống độc quyền. Mỗi một bên nhận
quyền đều phải tuân thủ sự phân chia thị trường theo quyết định của bên nhượng quyền.
Với những đặc trưng như trên, NQTM chỉ thích hợp với loại hàng hoá, dịch vụ theo quy
trình công nghiệp có quy mô lớn. NQTM không thích hợp với hoạt động nhỏ lẻ, sự khéo
tay, những sản phẩm đặc biệt như các ngành nghề thủ công truyền thống…
Trên đây chủ là một số đặc điểm cơ bản của nhượng quyền thương mại, tuỳ theo
từng hình thức nhượng quyền cụ thể mà qua hệ nhượng quyềnthương mại còn có
thể có đặc điểm khác
1.1.4 Các hình thức nhượng quyền thương mại
Căn cứ vào mục đích của việc kinh doanh nhượng quyền ta có thể phân nhượng

quyền thương mại thành
- Nhượng quyền bán sản phẩm – nhượng quyền phân phối (product franchise)..
Đây là loại hình NQTM đơn giản nhất, mà mối quan hệ giữa hai bên chủ thể (bên giao
và bên nhận quyền) thực chất là quan hệ giữa nhà cung cấp và nhà phân phối. Theo đó
bên nhận quyền chỉ được thực hiện phân phối các sản phẩm cho bên giao quyền sản xuất,
cung cấp dưới thương hiệu của bên giao quyền mà không nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ
nào từ phía nhượng như các hình thức nhượng quyền kinh doanh khác. Có chăng chỉ là
việc bên nhận quyền được sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ thuộc sở hữu của bên nhượng
quyền như tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, biển hiệu cửa hàng để kinh doanh.
Chính vì vậy, bên nhận quyền cũng tự do hơn trong việc kinh doanh của mình, ít chịu sự
kiểm tra, giám sát của bên nhượng quyền trong quá trình kinh doanh. Hình thức nhượng
quyền này được áp dụng rộng rãi vào thời kỳ trước chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay vẫn
còn phổ biến ở các nước phương tây trong các lĩnh vực như kinh doanh trong các
trạm xăng, dầu, đại lý bán ô tô.
-

Nhượng quyền gia công (process franchise).- nhượng quyền sản xuất: Đây là

loại hình NQTM theo đó bên nhận được sử dụng các nguyên liệu đặc thù và có thể là bí
quyết kinh doanh để thực hiện việc sản xuất và phân phối sản phẩm dưới tên thương
mại và nhãn hiệu của bên giao. Bên giao quyền chỉ cung cấp các nguyên liệu đặc thù, các
bí quyết kỹ thuật và cấp lisence quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ cho bên nhận
để tiến hành kinh doanh


-

Nhượng quyền phương thức kinh doanh (business format franchise). đây là

hình thức nhượng quyền phổ biến nhất hiện nay, nó là hình thức kinh doanh hội tụ tất cả

các đặc trưng của phương thức NQTM. Nhượng quyền kinh doanh không đơn thuần là
việc bên giao quyền cho phép bên nhận quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại và bí
quyết kinh doanh của mình để sản xuất và kinh doanh mà nó còn gồm cả việc
chuyển giao kỹ thuật kinh doanh và công thức điều hành quản lý. Bên nhận quyền được
phép sử dụng tất cả các quyền đối với đối tượng kinh doanh của bên nhượng quyền, đó
là các quyền đối với đối tượng kinh doanh của bên giao quyền, đó là các quyền đối với
nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh để kinh doanh. Trong hình
thức này, bên nhượng quyền không thực hiện việc sản xuất và cung cấp sản phẩm
cho bên nhận quyền mà thay vào đó là chuyển giao bí quyết kỹ thuật, các trang
thiết bị, nguyên liệu đặc thù cho bên nhận quyền để sản xuất, kinh doanh dưới thương
hiệu của bên nhượng quyền. Không những vậy, bên nhận quyền còn nhận được sự trợ
giúp, hỗ trợ của bên nhượng quyền trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Đổi lại
bên nhận quyền phải trả cho bên nhượng quyền khoản phí nhượng quyền và các khoản lợi
tức được tính hàng năm trong quá trình hợp đồng NQTM có hiệu lực. Mặt khác bên
nhận quyền còn phải tuân thủ tuỵêt đối các quy định kỹ thuật, chuẩn mực dobên nhượng
quyền đặt ra. Hình thức nhượng quyền kinh doanh được áp dụng nhiều trong các lĩnh vực
khách sạn, nhà hàng, ăn uống
Đây là ba hình thức nhượng quyền cơ bản nhất, từ đây có thể phát triển thành
nhiều hình thức nhượng quyền khác. Phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mình mà các
bên chọn ra hình thức nhượng quyền thương mại phù hợp để kinh doanh
Ngoài ra Căn cứ vào đối tượng được cơ sở kinh doanh nhượng quyền cung cấp:
- Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực dịch vụ
- Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hóa
Và căn cứ vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại,
có thể chia nhượng quyền thương mại thành các loại:
- Nhượng quyền thương mại chung (Master Franchise)
- Nhượng quyền thương mại thứ cấp (gián tiếp) (Sub-Franchising)


1.2.5 Vai trò nhượng quyền thương mại

Việt Nam trong những năm gần đây có những điều kiện rất thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh thương mại nói chung và nhượng quyền thương mại nói riêng. Với
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%, một quốc gia có dân số trên 82 triệu người,
tình hình kinh tế ổn định, nhà nước khuyến khích đầu tư, sức mua của thị trường được
đánh giá là rất cao trên thế giới. Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của WTO, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh cả trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ như vậy, rõ ràng việc quyết định lựa chọn
hình thức kinh doanh nào đảm bảo cho nhà đầu tư có được hiệu quả tốt nhất về sử dụng
vốn, phát triển nhanh thị trường, mở rộng nhanh thị phần và kiểm soát được hệ thống
nhằm tạo được tiếng nói đối với thị trường này là điều rất được quan tâm.
Nhiều tập đoàn lớn của thế giới đã “đổ bộ” vào thị trường Việt Nam tìm cơ hội
phát triển thương hiệu: KFC, Lotteria, Jollibee… Và gần đây nhất, thương hiệu cà phê nổi
tiếng của Úc đã tiến vào thị trường Việt Nam thông qua hợp đồng franchise với công ty
Viet Lifestyle. Gloria Jean là tập đoàn toàn cầu có trụ sở ở Australia. Đây là tập đoàn có
hệ thống franchise lớn nhất thế giới với khoảng 800 điểm nhận franchise ở trên 30 quốc
gia như Nhật, Philippines, Malaysia, Singapore... Ông Billy Sin, Giám đốc kinh doanh
vùng châu Á, Tập đoàn Gloria Jean cho biết "Trước khi vào Việt Nam, chúng tôi đã
nghiên cứu kỹ về thị trường Việt Nam. Chúng tôi biết rõ cà phê là thế mạnh xuất khẩu
của Việt Nam
Tuy nhiên, rất may là điều đó không ảnh hưởng nhiều đến sản phẩm cà phê của
chúng tôi”. Ở những lĩnh vực khác, nhiều thương hiệu nổi tiếng cũng bắt đầu
bước vào thị trường có sức mua thuộc hạng "top ten" thế giới này. Có thể kể đến
những tên tuổi mới như: Coffee Bean & Tea Leaf, Bread Talk hay Pizza Hut…Một bức
tranh rất nhộn nhịp của nền kinh tế Việt Nam thời hội nhập kinh tế quốc tế là như thế.
Với những lợi ích mà nhượng quyền thương mại mang đến có thể khẳng định chắc chắn
rằng nhượng quyền thương mại có vai trò và ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế trong bối
cảnh hội nhập quốc tế.


1.2 Hợp đồng nhượng quyền thương maị

1.2.1 Khái niệm hợp HĐNQTM
Theo Hiệp ước EEC, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một thoả thuận
trong đó, một bên là bên nhượng quyền cấp phép cho một bên khác là bên nhận quyền khả
năng được khai thác một “quyền thương mại” nhằm mục đích xúc tiến thương mại đối với
một loại sản phẩm hoặc dịch vụ đặc thù để đổi lại một cách trực tiếp hay gián tiếp một
khoản tiền nhất định. Hợp đồng này phải quy định những nghĩa vụ tối thiểu của các bên,
liên quan đến: việc sử dụng tên thông thường hoặc dấu hiệu của cửa hàng hoặc một cách
thức chung; việc trao đổi công nghệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền; việc tiếp
tục thực hiện của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong việc trợ giúp, hỗ trợ
thương mại cũng như kỹ thuật trong suốt thời gian hợp đồng nhượng quyền thương mại
còn hiệu lực”
Theo Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh quốc tế (The Internationak Franchise
Association) thì hợp đồng nhượng quyền thương mại được hiểu là: "Mối quan hệ theo
hợp đồng giữa bên giao và bên nhận quyền, theo đó bên giao quyền đề xuất hoặc phải
duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của bên nhận trên các khía cạnh như: bí
quyết kinh doanh, đào tạo nhân viên; bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hoá,
phương thức, phương pháp kinh doanh do bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và bên nhận
đang hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực
của mình".
Theo Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US Federal Trade commission FTC) : “Khái niệm một hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng theo đó bên
giao:
(i) hỗ trợ đáng kể cho bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát
chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của bên nhận
(ii) li-xăng nhãn hiệu cho bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn
hiệu hàng hoá của bên giao và
iii) yêu cầu bên nhận thanh toán cho bên giao một khoản phí tối thiểu”
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là
liên minh Châu Âu EU), theo đó khái niệm nhượng quyền thương mại là một "Tập hợp



những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ có liên quan tới nhãn hiệu hàng hoá,
tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí
quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ
tới người sử dụng cuối cùng". Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển
nhượng quyền kinh doanh được nêu ở khái niệm
Như vậy, theo quan điểm của một số nước trên thế giới, hợp đồng nhượng quyền
thương mại là một tập hợp các thoả thuận của các bên chủ thể, trong đó các bên phải đề
cập đến ít nhất một số vấn đề chủ yếu liên quan đến:
- Thứ nhất, sự chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ
từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu lợi nhuận;
- Thứ hai, sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá
trình thực hiện hợp đồng;
- Thứ ba, nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận
quyền đối với bên nhượng quyền.
Như vậy, hợp đồng nhượng quyền thương mại là một tập hợp các thoả thuận của
các bên chủ thể, trong đó các bên phải đề cập đến ít nhất một số vấn đề chủ yếu liên quan
đến: thứ nhất, sự chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ từ
bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu lợi nhuận; thứ hai, sự hỗ trợ
của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng;
thứ ba, nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận quyền đối
với bên nhượng quyền. Với khái niệm này, hợp đồng nhượng quyền thương mại đã thể
hiện được đúng bản chất pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại , giúp cho công
chúng có thể dễ dàng phân biệt được loại hợp đồng thương mại đặc biệt này với một số
loại hợp đồng khác có cùng một hoặc một số tính chất nhất định.
Lần đầu tiên hợp đồng nhượng quyền thương mại được biết đến với tên gọi là “Hợp
đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh” tại Mục 4.4.1 của Thông tư 1245/1999/TT - BKHC
NMT do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành ngày 12/07/1999 (hướngdẫn
thi hành Nghị định 45/1998/NĐ - CP ngày 01/07/1998 về chuyển giao công nghệ).Toàn
văn như sau:



“Việc phân cấp phê duyệt Hợp đồng quy định tại Điều 32 Nghị định 45/1998 được
hiểu như sau:
a. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phê duyệt:
Các hợp đồng với nội dung cấp li xăng, sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, kèm theo các bí
quyết sản xuất, kinh doanh được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam có giá trị thanh
toán cho một Hợp đồng trên 30.000 USD (hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh tiếng Anh gọi là franchise)"
Có thể thấy, khái niệm về hợp đồng nhượng quyền kinh doanh được mô tả ở trên
không thể hiện được rõ bản chất của nó mà chỉ nhằm tháo gỡ tạm thời các vấn đề nảy sinh
trong quá trình thực hiện Nghị định 45/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ.
Tháng 02/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ - CP về chuyển giao
công nghệ, trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh doanh cũng được xem là
chuyển giao công nghệ, do đó chịu sự điều chỉnh của Nghị định này. Tiếp đến, tại Điều
755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định rằng hành vi cấp phép đặc quyền kinh doanh
là một trong các đối tượng chuyển giao công nghệ.
Như vậy có thể thấy là trước khi Luật Thương mại 2005 ra đời thì hoạt động
nhượng quyền thương mại cũng như hợp đồng nhượng quyền có quá nhiều văn bản pháp
luật khác nhau cùng điều chỉnh và vì thế nó sẽ dẫn đến nhiều bất cập đáng kể trong việc
áp dụng hoạt động kinh doanh đặc biệt này
Tuy không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng nhượng quyền thương mại nói
chung, nhưng Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ lại nêu định
nghĩa về các dạng đặc biệt của hợp đồng nhượng quyền thương mại như: “hợp đồng phát
triển quyền thương mại” (Khoản 8 Điều 3) hoặc “hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ
cấp” (Khoản 10 Điều 3). Đây là các dạng biến thể của hợp đồng nhượng quyền thương
mại , thể hiện sự đa dạng về hình thức và phương thức nhượng quyền thương mại nên
việc đưa ra định nghĩa cụ thể về những loại hợp đồng này trong luật là rất đúng đắnpháp
luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại mà chỉ quy định về
hình thức của loại hợp đồng này tại Điều 285 Luật Thương mại năm 2005.
Hiện nay, ở Việt Nam, có một thực tế là, Luật chuyển giao công nghệ năm 2006,
tại Điều 12 điểm b nhìn nhận hợp đồng nhượng quyền thương mại là một hình thức của



×