Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠI HỌC
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

PHẠM THÀNH HƯNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ HUYỀN
HÀ NỘI – 2016


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn
lực và là thành phần quan trọng của môi trường sống có ý nghĩa kinh tế chính
trị, xã hội liên quan đến mọi người, mọi cơ quan, tổ chức, được nhà nước hết
sức quan tâm. Hiến pháp và Luật đất đai qua các thời kỳ đều khẳng định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân với rất nhiều quyền năng của người sử dụng đất.
Chính vì ý nghĩa quan trọng của đất đai, và các quyền của người sử dụng đất
pháp luật cho phép nên trong đời sống xã hội đã phát sinh nhiều loại tranh
chấp đất đai, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất. Các hình thức tranh
chấp đất đai phổ biến trong thực tế là: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất; tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất; tranh chấp ranh giới đất; tranh chấp ai là người có quyền
sử dụng đất; tranh chấp đất đai trong các vụ án ly hôn . . . Tranh chấp đất đai
tác động sâu rộng đến nhiều mặt đời sống xã hội với quy mô ngày một lớn và


mức độ ngày càng nghiêm trọng, khó kiểm soát.
Để giải quyết tranh chấp đất đai, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chế
độ chính sách pháp luật về đất đai theo hướngngày càng được bổ sung và hoàn
thiện tạo tiền đề pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp đất đai. Thực tế, trong
những năm qua, hệ thống cơ quan Tòa án có nhiều cố gắng trong việc giải quyết
hàng nghìn vụ án tranh chấp về đất đai góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp về tài sản của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Chất lượng giải quyết các vụ
án ngày càng được nâng cao, tỷ lệ án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của thẩm phán
có xu hướng giảm dần. Mặc dù đạt được một số thành tựu trong công tác giải
quyết các vụ án dân sự nói chung và trong công tác giải quyết các vụ án tranh
chấp quyền sử dụng đất nói riêng, nhưng hệ thống cơ quan Tòa án vẫn còn nhiều
hạn chế khi giải quyết các vụ án về tranh chấp đất đai, đó là: Tiến độ giải quyết
còn chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra, nhiều vụ án phải kéo dài không đúng thời hạn
pháp luật quy định; công tác định giá, thẩm định, xác minh thu thập chứng cứ còn

1


nhiều sai sót; việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn tại nhiều địa phương còn chưa
nhất quán, chưa có sự thống nhất về nhận thức trong hệ thống cơ quan Tòa án; Đa
số các vụ án sau khi xét xử sơ thẩm đều bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; một số vụ án phải xử đi, xử lại nhiều
lần, kéo dài, làm mất lòng tin của người dân đối với đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước … Có thể khẳng định rằng, giải quyết tranh chấp
đất đai hiện nay là loại án khó khăn, phức tạp nhất trong các tranh chấp về dân sự.
Vệc hướng dẫn giải thích cho đương sự thủ tục khởi kiện vụ án chuẩn chỉ theo
đúng quy định của BLTTDS làm cơ sở cho việc thụ lý giải quyết vụ án nhanh
gọn, rút ngắn thời gian giải quyết vụ án, giảm phiền hà cho các đương sự, giải
quyết được mâu thuẫn gữa các bên đương sự và tạo lòng tin với nhân dân.
Chính vì các lý do trên học viên chọn đề tài “ Khởi kiện và thụ lý vụ

án tranh chấp đất đai theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015” để thực hiện luận
văn thạc sỹ luật kinh tế nhằm mục đích nghiên cứu những quy định pháp luật
về tố tụng dân sự để giải quyết vụ án tranh chấp đất đai. Ngoài ra nghiên cứu
đề tài cũng nhằm làm rõ thực trạng giải quyết và những vướng mắc trong qúa
trình thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2016 liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai để rút ra bài học, đồng
thời kiến nghị cơ quan lập pháp có căn cứ hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng
dân sự phù hợp với thực tiễn đời sống.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tại Việt Nam đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về khởi kiện,
thụ lý vụ án giải quyết tranh chấp đất đai dưới mức độ cử nhân luật, thạc sỹ
luật học,tiến sỹ luật học, giáo trình giảng dạy môn pháp luật có liên quan, và
một số bài đăng trên tạp chí chuyên ngành. Ngoài ra nghiên cứu thủ tục khởi
kiện thụ lý vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án nói chung theo Bộ luật tố tụng
dân sự 2004, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989 có nhiều
luận văn cử nhân, cao học đã đề cập đến, nhưng nghiên cứu về khởi kiện và
thụ lý vụ án tranh chấp đất đai theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng như

2


Luật đất đai năm 2013 thì là hoàn toàn mới. Những công trình nghiên cứu và
giáo trình giảng dạy liên quan đề cập đến như:
Giáo trình luật tố tụng dân sự, Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công
An nhân dân, Hà Nội năm 2007
Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự. Trường đào tạo các
chức danh tư pháp Nhà xuất bản Công An nhân dân, Hà Nội năm 2004.
Sổ tay thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao năm 2009.
Tuy nhiên với những đề tài và các bài viết trên tác giả nghiên cứu tập
chung những vấn đề cơ bản chung nhất về giải quyết tranh chấp đất đai. Trong

khi đó vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án theo Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 chưa từng được nghiên cứu dưới luận văn thạc sỹ. Vì vậy học viên
chọn đề tài “ Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai theo Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015” là một đề tài chỉ nghiên cứu về tố tụng, qua đó thấy được
trình tự thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ tranh chấp đất đai tại Tòa án.
Vì vậy, khẳng định nghiên cứu đề tài này là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tập trung nghiên cứu thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ
án tranh chấp đất đai theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Qua đó chỉ ra được
việc khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án còn tồn tại, sai sót gì và
đồng thời đưa ra những bất cập thiếu sót của luật để đề xuất kiến nghị, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa
án đồng thời hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
tại Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có hai nhiệm vụ chủ yếu :

3


- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án tranh
chấp đất đai và thực tiễn giải quyết tại Tòa án hiện nay.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về khởi kiện, thụ lý vụ án tranh
chấp đất đai và bảo đảm thực hiện pháp luật về khởi kiện, thụ lý vụ án tranh
chấp đất đai tại Tòa án.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hiện

hành về khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án và một số vụ
án cụ thể có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung của luận văn không đi sâu nghiên cứu những quy định của
pháp luậtvề tranh chấp đất đai mà chỉ tập trung nghiên cứu về việc trình tự thủ
tục khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án cấp sơ thẩm. Qua
đó phân tích đánh giá đối chiếu với những quy định pháp luật có liên quan đến
giải quyết tranh chấp đất đai theo Bộ luật dân sự 2005, Luật đất đai năm 2013,
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và việc khởi kiện thụ lý vụ án tranh chấp đất
đai tại Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Luận văn không đề cập đến việc thụ lý vụ án tranh chấp đất đai theo trình
tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
Do BLTTDS năm 2015 mới có hiệu lực từ ngày 1/7/2016 nên Luận văn
tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án tranh
chấp đất đai tại Tòa án theo quy định của BLTTDS năm 2004 được sửa đổi bổ
sung năm 2011 (gọi tắt là BLTTDS năm 2011) để làm rõ những vướng mắc bất
cập của BLTTDS năm 2011 đã được BLTTDS năm 2015 khắc phục và đặt ra yêu
cầu tiếp tục hoàn thiện đối với BLTTDS năm 2015. Bên cạnh đó, Luận văn cũng
tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án tranh
chấp đất đai tại Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương trong giai đoạn từ 1/1/2005 đến
ngày 30/6/2016.

4


5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin là chủ nghĩa duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về cải cách tư pháp. Bên cạnh đó luận văn sử dụng phương pháp nghiên

cứu khoa học như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê được sử dụng cùng
được sử dụng có chọn lọc để bình luận trong quá trình nghiên cứu.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn có những điểm mới và đóng góp sau đây:
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn là công trình nghiên cứu đề cập
một cách tương đối hệ thống và toàn diện vấn đề: Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh
chấp đất đai tại Tòa án cấp sơ thẩm qua đó bổ sung thêm vào kho tàng lý luận
của pháp luật dân sự, tố tụng dân sự, Luật kinh tế. Góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam
Về thực tiễn: Qua nghiên cứu “ Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp
đất đai theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ” luận văn đã phân tích khái
quát tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng trong thời gian qua tại Tòa
án để rút ra những nhận xét, đánh giá và nguyên nhân cơ bản, từ đó kiến nghị
hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam 2015 và Luật đất đai 2013, đồng
thời đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.
Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo đem đến kiến thức bổ ích
cho các nhà làm luật, nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các
nghiên cứu sinh, các sinh viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành luật
dân sự,luật kinh tế tại các cơ sở đào tạo luật. Không những vậy từ những
nghiên cứu chuyên sâu của luận văn sẽ trang bị kiến thức cho người tiến hành
tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng vào thực tiễn giải quyết vụ
án dân sự một cách khách quan, có căn cứ đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn

5


Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương với nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về khởi kiện và thụ lý vụ án tranh

chấp đất đai trong tố tụng dân sự.
1.1.Khái niệm khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai trong tố tụng
dân sự.
1.2.Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật khởi kiện và thụ lý
vụ án tranh chấp đất đai trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai theo
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
2.1. Khởi kiện vụ án tranh chấp đất đai theo quy định Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015.
2.2.Thụ lý vụ án tranh chấp đất đai theo quy định Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015.
2.3. Trả lại đơn khởi kiện.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
3.1.Thực tiễn áp dụng pháp luật khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp
đất đai theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
3.2.Giải pháp hoàn thiện pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án tranh
chấp đất đai theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VÀ
THỤ LÝ VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.Khái niệm khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai
trong pháp luật Việt Nam.
1.1.1.Khái niệm vụ án tranh chấp đất đai.
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong đời sống xã hội,

cho đến nay tranh chấp đất đai luôn là một vấn đề mang tính thời sự và diễn
biến phức tạp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tranh chấp đất đai là một hiện
tượng tất yếu trong đời sống xã hội, xảy ra trong bất kỳ giai đoạn nào của hình
thái Nhà Nước. Ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay tranh chấp đất đai gây ra
những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm xói mòn
lòng tin của người dân đối với đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp: Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình sử
dụng đất đai.
Theo nghĩa rộng: Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất
đồng trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối
với đất đai, xuất phát trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Theo Giáo trình Luật Đất đai của trường Đại học Luật Hà Nội thì
“Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp Luật Đất
đai”. Tranh chấp đất đai bao gồm tranh chấp về chủ thể có quyền sử dụng đất,
tranh chấp về các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất.

7


Trong các quy định trong Luật Đất đai 1987 và Luật Đất đai 1993 đều
có dùng thuật ngữ “Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất” mà không có phần giải thích thuật ngữ. Khoản 7 Điều 25 BLTTDS năm
2004 quy định: Tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất
theo quy định của pháp luật về đất đai thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo quy định tại Điều 136 Luật Đất đai 2003 quy định tranh chấp đất
đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên

hoặc các bên đương sự không nhất trí thì thẩm quyền giải quyết được xác định
theo hướng: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất
thì do Toà án nhân dân giải quyết...”.[42,tr 77 ].
Nhưng đến Luật Đất đai 2003, tại khoản 26 Điều 4 và tại khoản 24
Điều 3 Luật Đất đai 2013 đều sử dụng thuật ngữ tranh chấp đất đai. Theo đó
khoản 24 Điều 3 quy định: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai”. [48,tr.11]
Theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai 2013 quy định tranh chấp đất
đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải
quyết như sau: “Tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật
này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải
quyết...”.[48,tr222]. Để phù hợp với Luật Đất đai năm 2013, khoản 9 Điều 26
BLTTDS năm 2015 quy định: Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật
về đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy có sự tương đồng giữa hai thuật
ngữ “Tranh chấp đất đai” và “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, nếu
hiểu theo cách nhìn của Giáo trình Luật Đất đai Trường Đại học Luật Hà Nội

8


thì tranh chấp đất đai là một thuật ngữ rộng hơn tranh chấp quyền sử dụng đất.
Nghiên cứu quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 cho thấy: “Đất đai,
tài nguyên nước… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Tiếp theo đó, Điều 54 Hiến pháp
2013 quy định: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công

nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất
được pháp luật bảo hộ” [ 49,tr.31]. Nếu hiểu khái niệm tranh chấp đất đai
theo nghĩa rộng thì đó là sự xung đột về thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ
thể trong việc sử dụng đất, bao gồm các tranh chấp ai là người được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; tranh chấp phát sinh khi
người sử dụng chuyển quyền sử dụng đất và tranh chấp khi người sử dụng
thực hiện các quyền và nghĩa vụ luật quy định đối với quyền sử dụng đất.
Điều 166 Luật Đất đai 2013 quy định về quyền chung của người sử
dụng đất như:
“1.Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất.
3. Hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ việc bảo vệ,
cải tạo đất nông nghiệp.
4. Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất
nông nghiệp.
5. Được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp về đất đai của mình.
6. Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật này.

9


7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng
đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất
đai.”[48,tr177-178]
Ngoài ra các quyền khác được quy định tại Điều 167 Luật Đất đai 2013
quy định người sử dụng đất có quyền: “Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp,

góp vốn quyền sử dụng đất; ”[48,tr.178].
Chỉ với hai điều nêu trên tác giả thấy rằng xung đột về quyền và lợi ích
của các chủ thể không chỉ nguyên vẹn là xung đột về việc ai là người được sử
dụng đất, mà còn bao gồm cả những xung đột phát sinh từ việc chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất,
thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất...v.v.
Như vậy, thuật ngữ “Tranh chấp đất đai” là một thuật ngữ có nội hàm
rất rộng bao gồm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất. Theo suy luận logic thì tranh chấp đất đai nếu hiểu theo nghĩa hẹp là tranh
chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất (thực chất là tranh chấp quyền
sử dụng đất như kiện đòi đất đang bị người khác chiếm giữ, tranh chấp mốc
giới, tranh chấp lối đi). Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tranh chấp đất
đai còn bao hàm cả các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, bao gồm:
- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng đất;
- Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”.
- Tranh chấp quyền sử dụng đất trong các vụ án hôn nhân gia đình.
Trong phạm vi của Luận văn này tranh chấp đất đai được đề cập theo
nghĩa rộng, bao gồm tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất và các tranh
chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất. Như vậy, qua các phân tích ở trên
có thể rút ra khái niệm về tranh chấp đất đai là các tranh chấp về quyền, nghĩa
vụ của người sử dụng đất theo quy định pháp luật, bao gồm tranh chấp về việc

10


ai là người có QSDĐ, tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại QSDĐ, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị QSDĐ; thừa
kế QSDĐ, tranh chấp quyền sử dụng đất trong các vụ án hôn nhân gia đình.

Thuật ngữ tranh chấp đất đai và thuật ngữ tranh chấp QSDĐ được sử
dụng từ năm 1987 đến nay, vì vậy việc mở rộng và sử dụng khái niệm tranh
chấp đất đai trong tình hình hiện nay là hoàn toàn hợp lý
Do đó, giải quyết tranh chấp đất đai là việc Tòa án có thẩm quyền áp
dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật dân sự, pháp luật đất
đai để giải quyết mâu thuẫn giữa các bên trong quan hệ đất đai theo trình tự,
thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Từ phân tích trên quan điểm của người viết đưa ra khái niệm vụ tranh
chấp đất đai như sau:
Khái niệm: Vụ án tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có đơn khởi kiện, tài
liệu, chứng cứ kèm theo nộp cho Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình hoặc của người khác và được Tòa án có thẩm quyền thụ
lý, giải quyết.
1.1.2.Khái niệm khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai trong tố
tụng dân sự
Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, cũng như
đứng trước yêu cầu cấp thiết hiện nay, việc làm rõ những vấn đề lý luận về
khởi kiện vụ án dân sự nói chung và khởi kiện vụ án tranh chấp đất đai nói
riêng sẽ góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp
luật trong hoạt động TTDS nói chung và bảo vệ quyền dân sự cơ bản của công
dân nói riêng trong việc tiếp cận với công lý.
1.1.2.1.Khái niệm khởi kiện vụ án tranh chấp đất đai trong tố tụng
dân sự.

11


Để tìm hiểu về khái niệm khởi kiện vụ án tranh chấp đất đai trong tố
tụng dân sự cần làm rõ khái niệm về khởi kiện vụ án dân sự.

Khởi kiện vụ án dân sự có thể hiểu dưới góc độ là một quyền tố tụng
hoặc một hành vi tố tụng. Nếu xét dưới góc độ là quyền thì quyền khởi kiện
của các chủ thể phải được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống cơ quan tư pháp,
trong đó có Tòa án. Tòa án phải tạo điều kiện và bảo đảm cho đương sự thực
hiện được quyền khởi kiện của mình. Nếu xét khởi kiện dưới góc độ là hành vi
tố tụng của chủ thể có quyền lợi hoặc chủ thể được pháp luật trao quyền khởi
kiện thì hành vi này cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện,
trình tự thủ tục, thời hạn và Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xem xét yêu cầu
các chủ thể phải thực hiện theo các quy định này.
Trong xã hội có Nhà nước thì quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân đã
được pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền do Nhà nước
quy định bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của mình. Cổ luật La Mã đã ghi nhận
quyền khởi kiện của công dân La Mã, theo đó, người có quyền lợi bị xâm
phạm có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình.
Người bị vi phạm có thực hiện quyền khởi kiện hay không, điều này pháp luật
không bắt buộc mà phụ thuộc vào ý chí của người đó. Trong xã hội ngày nay,
khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền con người.
Theo Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 thì “Mọi người đều
có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương
tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản
đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Ở Việt Nam, trong Giáo trình
Luật tố tụng dân của trường Đại học Luật Hà Nội 1994 rằng “Quyền khởi kiện
vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội
yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của tập thể
của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm”1. Tiếp
1

Phan Hữu Thư (1994), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Đại học Luật Hà Nội giữ bản quyền,


tr.109, 110.

12


theo đó, TS. Hoàng Ngọc Thỉnh cho rằng“Quyền khởi kiện vụ án dân sự là
quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể…Việc thực hiện quyền này của các
chủ thể được gọi là khởi kiện vụ án dân sự” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc
cá nhân, cơ quan, tố chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình hay của người khác” 2. Theo đó, khởi kiện vụ án dân sự là
hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự. TS. Phan Chí Hiếu cho rằng “quyền khởi kiện vụ án dân sự là
quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể
khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, tập thể hay của người khác
đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm”3.
Theo kết quả nghiên cứu trên thì bản chất của khởi kiện là thực hiện
quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi
phạm. Theo nghĩa hẹp khởi kiện là thực hiện quyền yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền lợi của nguyên đơn và theo nghĩa rộng thì khởi kiện là thực hiện quyền
yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, quyền phản tố (kiện ngược
lại) của bị đơn và thực hiện quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền yêu cầu của
mình trước khi nguyên đơn khởi kiện vụ án. Trên cơ sở quy định của Hiến
pháp, các văn bản khác đã cụ thể hoá và ghi nhận quyền khởi kiện của đương
sự. Cụ thể là quyền khởi kiện được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nội
dung và pháp luật tố tụng. Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm
2004 ra đời thì quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa rất rộng. Theo đó, quyền

khởi kiện được hiểu là khả năng Nhà nước cho phép công dân được yêu cầu
Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi cho rằng
quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc yêu cầu Tòa án công nhận một sự

2

TS. Nguyễn Công Bình (2014), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,

tr. 242.
3

PGS. TS. Phan Hữu Thư, TS. Lê Thu Hà (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội, tr. 305.

13


kiện pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động. Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về xác định thẩm quyền xét xử về
dân sự và thương sự của Toà án sơ cấp, Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp và tố tụng... thuật ngữ vụ kiện dân sự được sử dụng để
chỉ những tranh chấp dân sự có yêu cầu Toà án giải quyết. Đến năm 1959, khi
mà Hiến pháp 1959 ra đời, thuật ngữ vụ kiện trước đây được thay thế bằng
thuật ngữ vụ án, cụ thể theo Điều 1 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960
quy định “Toà án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân sự...”. Khái
niệm vụ án dân sự ở đây được dùng để chỉ những vụ kiện dân sự và cả những
việc dân sự đặc biệt – bao gồm cả những việc trong đó có tranh chấp hay
không có tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Theo ba
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989, Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
thì khi các đương sự có nhu cầu đưa các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động để
giải quyết theo thủ tục tố tụng thì tất cả các vụ việc, tranh chấp hay không
tranh chấp vẫn được gọi chung là vụ án.
Theo BLTTDS năm 2004, thì có hai loại thủ tục riêng biệt là thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự có tranh chấp và thủ tục giải quyết việc dân sự không
có tranh chấp. Theo đó, lần đầu tiên khái niệm vụ việc dân sự và việc dân sự
đã được BLTTDS ghi nhận chính thức. Khái niệm vụ việc dân sự đã thay thế
cho khái niệm vụ án dân sự trước đây, nếu các cá nhân, cơ quan tổ chức có
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ thì gọi là vụ án dân sự, nếu cơ quan cá nhân
tổ chức không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ nhưng có yêu cầu Toà án
công nhận cho mình quyền về dân sự thì là việc dân sự. Vụ án dân sự bao gồm
các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao
động. Theo BLTTDS năm 2004, BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì khởi kiện
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn trước đây. Theo đó, khởi kiện là thực hiện
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh
chấp trong vụ án dân sự. Còn yêu cầu là thực hiện quyền của chủ thể trong
việc yêu cầu Tòa án xem xét về việc công nhận hay không công nhận một sự
kiện pháp lý hoặc các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động không có tranh chấp.

14


Theo quy định tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì “Ở nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và
xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật” [ 49, tr.6]. Trong đó quyền dân sự có ý nghĩa rất quan
trọng. Khi quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm phạm hay tranh chấp thì họ có
quyền thực hiện những biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo vệ và một

trong những biện pháp đó chính là khởi kiện VADS.
Về nguyên tắc, chỉ có chủ thể có quyền lợi ích bị xâm phạm mới có
quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình như cá nhân,
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và các chủ thể khác của quan hệ pháp luật
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Bên cạnh đó,
pháp luật cũng quy định các trường hợp khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của
Nhà nước. Quyền khởi kiện vụ án theo quy định Điều 186 BLTTDS “Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có
thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”[
51,tr.145]. Điều 187 BLTTDS năm 2015 về quyền khởi kiện vụ án dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích
của Nhà nước đã kế thừa các quy định tại Điều 162 BLTTDS sửa đổi năm
2011 đồng thời có những sửa đổi bổ sung về quyền khởi kiện của tổ chức đại
diện tập thể lao động, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng.v.v...
Như vậy, khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc
các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo
vệ lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó đang bị
xâm phạm hay có tranh chấp với chủ thể khác. Khởi kiện vụ án dân sự là hành
vi tố tụng đầu tiên của chủ thể có quyền lợi hoặc người đại diện của họ làm
phát sinh các quan hệ pháp luật TTDS. Việc thực hiện quyền khởi kiện VADS

15


thể hiện bằng việc nguyên đơn nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án, là sự
kiện thực tế có ý nghĩa pháp lý làm phát sinh quá trình tố tụng dân sự. Theo

nghĩa hẹp thì khởi kiện vụ án dân sự là việc nguyên đơn (hoặc người đại diện
của họ) nộp đơn yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của mình và theo nghĩa rộng
thì khởi kiện vụ án dân sự còn bao hàm cả việc bị đơn (hoặc người đại diện
của họ) thực hiện quyền phản tố (kiện ngược lại), người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan (hoặc người đại diện của họ) thực hiện quyền yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền lợi của mình do họ đã không thực hiện quyền này trước khi nguyên đơn
khởi kiện vụ án. Trong phạm vi luận văn chúng tôi chỉ nghiên cứu về khởi
kiện của nguyên đơn.
Như đã phân tích ở trên, vụ án tranh chấp đất đai là một loại vụ án dân
sự được quy định tại khoản 9 Điều 26 BLTTDS năm 2015. Thông thường,
người khởi kiện vụ án tranh chấp đất đai là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình hoặc của người khác. Những chủ thể này có quyền nộp đơn khởi
kiện ra Tòa án có thẩm quyền theo quy định của BLTTDS để yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền cũng như nghĩa vụ của chủ sử dụng đất, người có quyền lợi liên
quan đến đất đai đó được quy định tại 170 Điều Luật đất đai năm 2013.
Vì vậy, khởi kiên vụ án tranh chấp đất đai là cơ quan, tổ chức, cá
nhân nộp đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền yêu cầu bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của mình hay của người khác về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất.

1.1.2.2.Khái niệm thụ lý vụ án tranh chấp đất đai trong tố tụng
dân sự
Theo từ điển tiếng Việt: “Thụ lý là tiếp nhận giải quyết vụ việc”. Theo
từ điển luật học: “Thụ lý vụ án là bắt đầu tiếp nhận một việc để xem xét và giải
quyết”. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự: thụ lý vụ án là việc Tòa án nhận đơn
yêu cầu của đương sự đề nghị xem xét, giải quyết một vụ việc để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức. Giáo trình

16



Luật tố tụng dân sự của trường Đại học luật Hà Nội năm 2005 đưa ra khái
niệm: Thụ lý vụ án là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện vào
sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết.
Thụ lý vụ án tranh chấp đất đai được tiến hành sau khi Thẩm phán
được phân công nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo
đơn khởi kiện do đương sự nộp cho Tòa án, đủ điều kiện thì cho nộp tạm ứng
án phí. Sau khi người khởi kiện nộp biên lai tạm ứng án phí thì sẽ vào sổ thụ
lý vụ án. Vì vậy, thụ lý vụ án tranh chấp đất đai là việc Tòa án vào sổ thụ lý
vụ án dân sự để giải quyết vụ án tranh chấp đất đai.
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền theo luật định giải quyết các tranh chấp về
dân sự, hôn nhân & gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Để giải quyết các
tranh chấp thì Tòa án phải thụ lý. Việc thụ lý của Tòa án có phát sinh hay không
hoàn toàn phụ thuộc vào việc khởi kiện vụ án dân sự của các đương sự có đúng các
quy định của pháp luật không, đối tượng tranh chấp được xác định trên cơ sở yêu cầu
của bên này đối với bên kia có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không.
Như vậy, thụ lý vụ án tranh chấp đất đai nói riêng hay thu lý vụ án dân
sự nói chung là sự kiện pháp lý làm phát sinh các hoạt động tố tụng tiếp theo
của Tòa án như thu thập chứng cứ, hòa giải, đưa vụ án ra xét xử sau khi đã thụ
lý vụ án. Thụ lý vụ án dân sự nói chung là một giai đoạn đầu tiên của tố tụng
dân sự tại Tòa án. Thụ lý vụ án dân sự thực chất là việc Tòa án chấp nhận đơn
khởi kiện xem xét giải quyết. Đây là một hành động cụ thể của Tòa án trong
việc giải quyết các tranh chấp. Việc Tòa án Thụ lý vụ án đã làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự. Thụ lý vụ án dân sự là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến hành các hoạt động
tố tụng, giải quyết vụ án, và là cơ sở để Tòa án tính thời hạn giải quyết vụ án
dân sự.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về khởi kiện
và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai trong tố tụng dân sự.


17


1.2.1. Giai đoạn 1953 - 1987
Cách mạng tháng Tám thành công, tiếp tục đẩy mạnh hoàn thành công
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, ngày
04-12-1953, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Khóa III) đã thông
qua Luật Cải cách ruộng đất năm 1953. Đây là văn bản luật có ý nghĩa hết sức
quan trọng nhằm “thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ,
thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân”. Luật Cải cách ruộng đất
năm 1953 quy định cụ thể về tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất và tài
sản của thực dân Pháp, địa chủ, ác bá cường hào; ruộng đất vắng chủ và ruộng
đất bỏ hoang; ruộng đất, tài sản của ngoại kiều, đồng thời, quy định về việc
phân chia ruộng đất cho nông dân, bần cố nông và trung nông không có ruộng
đất và thiếu ruộng đất.
Để có căn cứ, cơ sở pháp lý bảo vệ quyền sở hữu về ruộng đất cho nông
dân, Luật Cải cách ruộng đất năm 1953 đã quy định thành lập Toà án đặc biệt
ở những nơi phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất. Toà án đặc
biệt có nhiệm vụ xét xử bọn cường hào, gian ác và những kẻ chống lại hoặc
phá hoại cải cách ruộng đất, xét xử những vụ tranh chấp về ruộng đất hoặc tài
sản có liên quan đến ruộng đất. Điều 36 Luật Cải cách ruộng đất năm 1953
quy định: “Toà án nhân dân đặc biệt có nhiệm vụ xét xử những vụ tranh chấp
về ruộng đất và tài sản có liên quan đến ruộng đất”.
Mặc dù văn bản dưới Luật từ sau khi ban hành Luật Cải cách ruộng đất
năm 1953 đến trước năm 1980 tiếp tục xác định quyền sở hữu ruộng đất của
nông dân lao động. Tuy nhiên, các văn bản thời kỳ này không quy định cụ thể
về giải quyết tranh chấp đất đai, chỉ tập trung quy định chính sách quản lý
ruộng đất của Chính phủ. Việc giải quyết tranh chấp trong thời kỳ này được
Đảng, Nhà nước chỉ đạo trên cơ sở nâng cao giác ngộ chính trị, cách mạng,
tăng cường đoàn kết, tự thương lượng, nhân nhượng giúp đỡ lẫn nhau để giải

quyết các tranh chấp.

18


Đến năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 201QĐ/CP ngày 11 tháng 07 năm 1980 “Về thống nhất và tăng cường quản lý
ruộng đất trong cả nước”. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định cụ thể
các nội dung quản lý đất đai của Nhà nước, quyền và trách nhiệm của người
sử dụng đất; đăng ký, thống kê, thu hồi đất. Đây cũng là văn bản pháp lý đầu
tiên quy định và phân định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp ruộng đất của
cơ quan hành chính các cấp và thẩm quyền giải quyết tranh chấp ruộng đất của
Toà án nhân dân.
Tuy nhiên, ở thời điểm này, Nhà nước quy định người sử dụng đất
không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán nhượng đất dưới bất
kỳ hình thức nào nên các tranh chấp về quyền sử dụng đất không diễn ra gay
gắt, phức tạp.
1.2.2. Giai đoạn 1987 - 1993
Luật Đất đai năm 1987 thông qua ngày 19 tháng 12 năm 1987. Đây là
Luật Đất đai đầu tiên của nước ta, đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật
đất đai nói chung và phát luật về giải quyết tranh chấp đất nói riêng.
So với với Luật Cải cách ruộng đất năm 1953 và các văn bản pháp luật
trước đó, Luật Đất đai năm 1987 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta
quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”.
Chế định giải quyết tranh chấp đất đai đã có nhiều điểm khác so với các văn
bản pháp luật ở thời kỳ trước. Cụ thể, theo Luật Đất đai năm 1987 thì thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc về các cơ quan hành chính các cấp,
Toà án nhân dân không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Trường
hợp xảy ra tranh chấp về nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm, khi giải
quyết các tranh chấp này thì Tòa án giải quyết đồng thời cả quyền sử dụng đất.
Sau Luật Đất đai năm 1987, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân

sự được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 07/12/1989. Đây là văn
bản pháp lý đầu tiên quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự của Nhà nước ta. Tuy nhiên, pháp luật về đất đai thời điểm này

19


chỉ quy định cho người sử dụng đất được quyền chuyển nhượng, bán nhà ở,
vật kiến trúc khác, cây lâu năm mà người sử dụng đất có được một cách hợp
pháp trên đất được giao, nghiêm cấm việc mua bán đất. Do đó, việc giải quyết
các tranh chấp đất đai theo trình tự tố tụng dân sự tại hệ thống cơ quan Tòa án
còn rất hạn chế.
1.2. 3. Giai đoạn 1993 - 2004
Thực hiện Hiến pháp 1992, ngày 14 tháng 07 năm 1993, Quốc hội
(khóa IX) thông qua Luật Đất đai năm 1993. Cùng với việc tiếp tục khẳng
định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”, khoản 2
Điều 3 Luật Đất đai năm 1993 lần đầu tiên quy định “Hộ gia đình, cá nhân
được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa
kế, thế chấp quyền sử dụng đất” [37,tr.7].Theo đó, quy định giải quyết tranh
chấp đất đai đã có nhiều thay đổi so với pháp luật thời kỳ trước. Trong giai
đoạn này, các văn bản hướng dẫn giải quyết tranh chấp đất đai được cụ thể hóa
hơn, như: Thông tư số 02/TTLT ngày 28-07-1997 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính đã ban hành hướng
dẫn giải quyết tranh chấp đất đai; Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 03-012002 thay thế Thông tư số 02/TTLT tiếp tục mở rộng thẩm quyền giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất tại cơ quan Tòa án.
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, trước sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế thị trường, các tranh chấp, khiếu kiện đất đai ngày càng tiếp tục gia
tăng. Các vụ việc khiếu kiện, tố cáo liên quan đến đất đai, hàng năm có 10
vạn vụ việc khiếu kiện liên quan đến đất đai. Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi
bổ sung năm 1998 và năm 2001 đã bộc lộ rõ những hạn chế sau đây:

Chưa xác định rõ nội dung cốt lõi của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
do Nhà nước thống nhất quản lý. Luật Đất đai quy định tương đối tập trung
vào biện pháp quản lý hành chính và vẫn còn mang nặng tính bao cấp, trong
khi các mối quan hệ về kinh tế được đề cập, điều chỉnh còn ít. Trong thực tế,
vấn đề đòi lại nhà, đất vẫn tiếp tục xảy ra và còn nhiều ý kiến khác nhau trong

20


xử lý. Hệ thống các văn bản về đất đai ban hành nhiều nhưng thiếu đồng bộ…
rất phức tạp, chồng chéo, không đủ độ minh bạch, quá nhiều văn bản nhưng
vẫn thiếu sự hướng dẫn, tạo ra sự rối ren ngay trong chính hệ thống văn bản
pháp luật”. Nhiều nội dung về đất đai mới dừng ở mức độ quy định nguyên
tắc, quan điểm mà thiếu các văn bản quy định cụ thể nên hiểu pháp luật và
thực thi pháp luật còn khác nhau giữa các ngành, các cấp. “Công tác thanh tra
và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,
tranh chấp đất đai ở các địa phương chưa đáp ứng yêu cầu.
Các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của Luật
Đất đai năm 1993 và các quy định về thẩm quyền xét xử đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính về giải quyết tranh chấp đất đai theo quy
định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 được
sửa đổi, bổ sung năm 1998 đã dẫn đến không ít xung đột. Nhất là đối với
những tranh chấp về quyền sử dụng đất được cơ quan hành chính nhà nước
giải quyết bằng một quyết định hành chính. Sau đó, không đồng ý với quyết
định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan hành chính, một trong các bên
đương sự đã khởi kiện ra Toà án theo thủ tục tố tụng hành chính thì phần lớn
các cơ quan hành chính đều cho rằng Toà án thụ lý giải quyết bằng vụ án hành
chính là không đúng thẩm quyền với các lý do: Đất tranh chấp không có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; Luật Đất đai không quy định; Pháp luật thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 được sửa đổi, bổ sung năm 1998 là

văn bản dưới luật…thì Toà án không có thẩm quyền thụ lý giải quyết, làm cho
Toà án gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các vụ án hành chính mà
đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính về giải quyết tranh chấp đất đai.
Đồng thời, chế định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
được quy định trong Luật Đất đai năm 1993 tuy đã có bước thay đổi đáng kể
so với Luật Đất đai năm 1987 nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Số vụ việc tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan

21


hành chính các cấp ngày càng gia tăng và hiệu quả giải quyết không dứt điểm,
khiếu nại, bức xúc kéo dài.
1.2.2. Giai đoạn 2004 đến nay
Sau khi Luật đất đai năm 2003 được ban hành tiếp tục thể hiện đường
lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách đất đai. Theo đó, quyền sử
dụng đất của cá nhân tiếp tục được mở rộng, tạo tiền đề cho việc giải quyết
các tranh chấp quyền sử dụng đất tại cơ quan Tòa án. Đặc biệt quan trọng là sự
ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sau đó là Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của BLTTDS năm 2011, BLTTDS 2015 đã thay thế Pháp lệnh về
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989; BLTTDS năm 2015 bao gồm 42
chương, 517 điều đã quy định khá chi tiết và cụ thể về trình tự, thủ tục giải
quyết các vụ án tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng.
Cùng với sự ra đời của BLTTDS 2015, Hội đồng thẩm phán TANDTC đang
nghiên cứu dự thảo Nghị quyết về thi hành một số điều của BLTTDS 2015
quy định hướng dẫn thi hành chi tiết, cụ thể các quy định của BLTTDS tạo ra
hành lang pháp lý tương đối ổn định, chi tiết, thể chế hóa trình tự, thủ tục giải
quyết các vụ án tranh chấp đất đai, chấm dứt hoàn toàn những quy định chồng
chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản tố tụng dân sự.
Bên cạnh việc ban hành BLTTDS tạo điều kiện cho việc giải quyết các

tranh chấp đất đai, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm 2013. So với
Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 có 14 chương với 212 điều,
tăng 7 chương và 66 điều, đã khắc phục, giải quyết được những tồn tại, hạn
chế phát sinh trong quá trình thi hành Luật Đất đai năm 2003. Luật Đất đai
năm 2013 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và
đang đi vào cuộc sống của Luật Đất đai năm 2003, đồng thời sửa đổi, bổ sung
một số quy định định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập trong giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Đặc biệt là mở rộng thẩm quyền của Toà
án theo sự lựa chọn của đương sự trong trường hợp người sử dụng đất không

22


có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ khác theo quy định
của pháp luật.
Như vậy, việc nghiên cứu lược sử quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là một quá trình vận động
không ngừng. Qua mỗi giai đoạn, pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai ngày
càng được bổ sung, hoàn thiện, phù hợp hơn, từ chỗ chỉ có những quy định
riêng rẽ, tản mạn, mâu thuẫn và chồng chéo thì đến nay, trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất đã được quy định thống nhất, luật hóa
thành các đạo luật do Quốc hội ban hành và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đây là hành lang pháp lý quan trọng để cơ quan Tòa án giải quyết các tranh
chấp đất đai như hiện nay.
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc cơ quan Tòa án có thẩm
quyền áp dụng các quy định của pháp luật dân sự, pháp luật đất đai để giải
quyết mâu thuẫn giữa các bên trong quan hệ đất đai theo trình tự, thủ tục do
pháp luật tố tụng dân sự quy định. Ngoài những đặc điểm giống như các loại
tranh chấp dân sự khác, tranh chấp đất đai còn có những đặc điểm riêng. Đặc
trưng của loại tranh chấp này là quyền quản lý, sử dụng, định đoạt đối với loại

tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp. Bên cạnh
đó, sự đan xen các quan hệ pháp luật khác nhau cũng là đặc trưng của tranh
chấp đất đai. Từ đó kéo theo sự đa dạng, phức tạp của các văn bản pháp luật
điều chỉnh đối với loại tranh chấp này.
Cũng như các tranh chấp dân sự khác, tranh chấp đất đai cũng được giải
quyết trên cơ sở trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTDS quy định. Tuy nhiên, để
hình thành hệ thống quy phạm pháp luật tố tụng dân sự là cả một quá trình lịch
sử, diễn ra trong một khoảng thời gian dài, từ chỗ các quy định còn tản mạn,
chồng chéo, thiếu tập trung cho đến khi hình thành được hành lang pháp lý
tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh như hiện nay. Vậy nhưng, tranh chấp đất đai
là một loại tranh chấp đặc thù nên việc xây dựng một trình tự, thủ tục riêng để
giải quyết tranh chấp này là thật sự cần thiết. Quy định của pháp luật hiện

23


hành về thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai sẽ được làm rõ tại chương 2 của
luận văn.
Nói tóm lại khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp đất đai trong tố tụng
dân sự là quyền của công dân khi phát sinh tranh chấp mà không thể hòa giải
được và trách nhiệm của của Nhà Nước đối với công dân của mà ở đây là Nhà
Nước giao cho Toà án nhân danh Nhà Nước có chức năng nhiệm vụ giải quyết
tranh chấp theo quy định pháp luật.

24


×