Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 86 trang )

HÀ VĂN HẢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TẠI VIỆT NAM

2014 - 2016
HÀ VĂN HẢI
HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC
KHOÁNG SẢN TẠI VIỆT NAM

HÀ VĂN HẢI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS, TS: VŨ THỊ DUYÊN THỦY



HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn “Pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai
thác khoáng sản tại Việt Nam” xin cam đoan:
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
- Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS - TS.
Vũ Thị Duyên Thủy.
- Những thông tin, số liệu được trích dẫn trong luận văn đầy đủ, trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong
các luận văn khác.
Tác giả luận văn

Hà Văn Hải


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS-TS. Vũ Thị Duyên Thủy người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy, cô Khoa đào tạo sau đại học Viện Đại học Mở Hà Nội, cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều
kiện, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều
nên luận văn còn thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của thầy, cô và
các bạn học viên./.
Hà nội, ngày 10 tháng 10 năm 2016
Học viên


Hà Văn Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài ................................................................ 3
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Kết cấu ....................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KHOÁNG SẢN VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN .................................................................. 6
1.1. Khái quát về bảo vệ môi trườngtrong hoạt động khai thác khoáng sản .... 6
1.1.1. Khái niệm khoáng sản và hoạt động khai thác khoáng sản ................... 6
1.1.2. Khái niệm bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản ... 9
1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản ................................................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm, nội dung pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản ................................................................................... 11
1.2.2. Các yêu cầu đối với pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai
thác khoáng sản ........................................................................................... 15
1.2.3. Những yếu tố tác động đến pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản ........................................................................... 16
TIỂU KẾTCHƯƠNG 1 ................................................................................ 21



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TẠI VIỆT NAM ............. 22
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản .................................................................... 22
2.1.1. Nội dung các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường
trong hoạt động khai thác khoáng sản .......................................................... 22
2.1.2. Đánh giá thực trạng và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về
đánh giá tác động môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản .......... 25
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về ký quỹ phục hồi môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản .................................................................... 26
2.2.1. Nội dung các quy định pháp luật về ký quỹ phục hồi môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản ................................................................... 26
2.2.2. Đánh giá thực trạng và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về ký
quỹ phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản .................. 28
2.3. Thực trạng các quy định pháp luật về giấy phép khai thác khoáng sản ...... 30
2.3.1. Nội dung các quy định pháp luật về giấy phép khai thác khoáng sản . 30
2.3.2. Đánh giá thực trạng và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về
giấy phép khai thác khoáng sản.................................................................... 37
2.4. Thực trạng các quy định pháp luật về quản lý chất thải trong hoạt động
khai thác khoáng sản .................................................................................... 40
2.4.1. Nội dung các quy định pháp luật về quản lý chất thải trong hoạt động
khai thác khoáng sản .................................................................................... 40
2.4.2. Đánh giá thực trạng và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về
quản lý chất thảitrong hoạt động khai thác khoáng sản ............................... 44
2.5. Thực trạng các quy định pháp luật về cải tạo, phục hồi môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản .................................................................... 47



2.5.1. Nội dung các quy định pháp luật về cải tạo, phục hồi môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản ................................................................... 47
2.5.2. Đánh giá thực trạng và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về
quản lý chất thải trong hoạt động khai thác khoáng sản............................... 51
2.6. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật môi trường
trong hoạt động khai thác khoáng sản........................................................... 52
2.6.1. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong hoạt động
khai thác khoáng sản .................................................................................... 52
2.6.2. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự trong hoạt động
khai thác khoáng sản .................................................................................... 54
2.6.3. Các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong hoạt động khai
thác khoáng sản ........................................................................................... 55
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 57
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬTVỀ BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG
SẢN TẠI VIỆT NAM................................................................................. 58
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản ở Việt Nam ................................................................. 58
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản phải bảo đảm phát triển bền vững ............................................. 58
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng
sản phải đảm bảo tính cụ thể và tính khả thi ..................................................... 60
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng
sản phải đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật môi trường ...................... 61
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai
thác khoáng sản.............................................................................................. 61


3.2.1. Các giải pháp pháp lý......................................................................... 61

3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động khai thác khoáng sản ................................................... 65
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 72
KẾT LUẬN.................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 74


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam có vị trí địa chất, địa lý độc đáo, là nơi giao cắt của hai vành đai
sinh khoáng lớn Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, là nước nhiệt đới gió mùa phát
triển mạnh các quá trình phong hoá thuận lợi cho sự hình thành khoáng sản. Qua 65
năm nghiên cứu điều tra cơ bản và tìm kiếm khoáng sản của các nhà địa chất Việt
Nam cùng với các kết qủa nghiên cứu của các nhà địa chất Pháp từ trước cách mạng
tháng 8 đến nay chúng ta đã phát hiện trên đất nước ta có hàng nghìn điểm mỏ và tụ
khoáng của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau từ các khoáng sản năng lượng, kim
loại đến khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng. Trong đó có nhiều khoáng
sản có trữ lượng lớn như: dầu khí, than, chì, kẽm, thiếc, sắt, vonfaram, đồng,
antimon, bauxit, titan, vàng, đất hiếm, đá vôi, cát thuỷ tinh, đá xây dựng, cát, sỏi...
và khoảng 400 nguồn nước khoáng, nước nóng thiên nhiên [17]. Đây là một lợi thế
mà thiên nhiên ban tặng cho quốc gia chúng ta. Tận dụng lợi thế này, thời gian qua
hoạt động khoáng sản ở nước ta được các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân quan
tâm đầu tư công nghệ để thăm dò, khai thác, chế biến, tận thu triệt để các loại
khoáng sản, đóng góp tích cực cho quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Việt
Nam là nước có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng về chủng loại.
Trong những năm vừa qua, ngành công nghiệp khai khoáng đã đóng vai trò quan
trọng và tích cực trong sự nghiệp phát triển công nghiệp Việt Nam và trong nền

kinh tế đất nước. Số liệu điều tra cho thấy, Việt Nam đã thăm dò và phát hiện mới
trên 5.000 điểm khoáng và mỏ, đánh giá được một số loại khoáng sản có trữ lượng
tài nguyên dự báo lớn như dầu khí với trữ lượng 1,2 - 1,7 tỷ m3, 240 tỷ tấn than,
600 triệu tấn khoáng vật nặng titan, và các loại khoáng sản khác như boxit, apatit,
đất hiếm, các khoáng sản làm vật liệu xây dựng [20].
Tuy nhiên, HĐKTKS đã và đang gây nhiều tác động xấu đến môi trường
xung quanh. Biểu hiện rõ nét nhất là việc sử dụng thiếu hiệu quả các nguồn khoáng


2

sản tự nhiên; tác động đến cảnh quan và hình thái môi trường; tích tụ hoặc phát tán
chất thải; làm ảnh hưởng đến sử dụng nước, ô nhiễm nước, tiềm ẩn nguy cơ về dòng
thải axit mỏ... HĐKTKS có thể làm mất đi vĩnh viễn nguồn tài nguyên không tái
tạo,làm ô nhiễm nguồn nước, không khí, làm suy thoái, cạn kiệt nhanh chóng các
nguồn tài nguyên sinh học đi kèm như: rừng, nguồn nước, đất đai và đa dạng sinh
học… Những hoạt động này đang phá vỡ cân bằng điều kiện sinh thái được hình
thành từ hàng chục triệu năm, gây ô nhiễm nặng nề đối với môi trường, trở thành
vấn đề cấp bách mang tính chính trị và xã hội của cộng đồng một cách sâu sắc.
Nhận thức rõ điều đó, trong những năm qua, pháp luật về BVMT trong
HĐKTKS tại Việt Nam đã được quan tâm xây dựng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
công tác BVMT trong lĩnh vực này. Tuy vậy, vẫn còn một số quy phạm pháp luật chưa
thống nhất, rõ ràng, hợp lý; vẫn còn nhiều bất cập trong công tác đảm bảo thực thi pháp
luật nên chưa đáp ứng được những yêu cầu từ thực tiễn BVMT trong hoạt động khoáng
sản ở nước ta. Do đó, hoàn thiện pháp luật là một trong những yêu cầu bức thiết, để
nâng cao hiệu quả công tác BVMT trong HĐKTKS ở nước ta trong thời gian tới.
Vì lý do đó, tác giả chọn “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản tại Việt Nam“làm đề tài luận văn thạc sĩ nhằm đáp ứng những
đòi hỏi cấp bách mới trên phương diện lý luận và thực tiễn về pháp luật BVMT trong
HĐKTKS Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
BVMT trong hoạt động khoáng sản có một vai trò rất quan trọng trong việc
giữ gìn môi trường sống của con người, giảm thiểu những tác động xấu đến môi
trường nhằm hướng đến việc phát triển bền vững. Chính vì vậy, có nhiều cuốn sách,
đề tài nghiên cứu, bài viết về vấn đề này với nhiều hướng tiếp cận đã được công bố.
Tại Việt nam, đến nay, đã có một số bài viết của các nhà khoa học liên quan đến pháp
luật về BVMT trong hoạt động khoáng sản như: GS.TS Lê Văn Khoa - Ths Phan
Đình Nhã, thực trạng khai thác, chế biến và sử dụng Titan tại Việt Nam, Tạp chí khoa
học công nghệ và môi trường tháng 6/2012; TS Nguyễn Văn Thuấn (2013), đánh giá


3

tình hình thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25-04-2011 của Bộ Chính trị khóa
XI về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo
vệ tài nguyên môi trường- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc giasự thật, Hà Nội; Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), quản lý nhà nước đối với tài nguyên
và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội và nhân văn, Nxb Khoa
học và xã hội, Hà Nội; Trần Văn Chử (2006), tài nguyên và môi trường và phát triển
bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ths Nguyễn Quang Hùng
(2012), tình hình ban hành chính sách pháp luật, pháp luật về quản lý, khai thác
khoáng sản gắn với BVMT, Vụ Khoa học công nghệ và môi trường- Văn phòng
Quốc hội, Hà Nội; Ths Trần Thanh Thủy – Ths Nguyễn Việt Dũng (2010), khai thác
khoáng sản và giảm nghèo: mối quan hệ trái chiều và một số vấn đề chính sách, Bản
tin chính sách quý II/2010, Trung tâm con người và thiên nhiên, Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình khoa học, các đề tài, các bài viết trên đã nghiên cứu
trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau pháp luật về BVMT trong khai thác khoáng
sản. Tuy nhiên, những công trình khoa học đó đề cập đến phạm vi nghiên cứu rộng bao
gồm việc đánh giá hiện trạng môi trường, BVMT trong hoạt động khoáng sảnhoặc chỉ
nghiên cứu đến một lĩnh vực, trên một địa bàn cụ thể, thời gian nghiên cứu cách đây đã

lâu. Vì vậy, đề tài “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng
sản tại Việt Nam” là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống các quy
phạm pháp luật cũng như thực tiễn thực thi pháp luật trong lĩnh vực này tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về
BVMT trong HĐKTKS, thực tiễn thi hành các quy định pháp luật này tại Việt Nam
để từ đó phân tích, đánh giá, tổng hợp nhằm tìm ra các giải pháp hoàn thiện các quy
định pháp luật về BVMT trong HĐKTKS.


4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm, nội dung, yêu cầu của pháp luật về BVMT trong
HĐKTKS;
- Phân tích các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng và thực thi pháp luật về
BVMT trong HĐKTKS;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BVMT trong hoạt động khoáng
sản ở Việt Nam để chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế
và luận giải nguyên nhân của chúng;
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BVMT
trong hoạt động khoáng sản tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Lý luận về BVMT, về HĐKTKS và pháp luật BVMT trong HĐKTKS.
- Thực tiễn thực thi pháp luật về BVMT trong hoạt động khoáng sản qua
kết quả nghiên cứu khảo sát thực tiễn, các báo cáo tổng kết, sơ kết của các bộ,
ngành có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn của pháp luật về BVMT trong HĐKTKS, những kết quả đạt được, hạn
chế, nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa
Mác-Lê nin; quan điểm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước về quản lý HĐKTKS.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả lựa chọn các phương pháp nghiên
cứu như: phân tích, thống kê, đối chiếu, lịch sử, chứng minh, tổng hợp, quy nạp.


5

Trong đó các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh và chứng minh được xác
định là những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương, mục của luận văn
để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
- Phương pháp thống kê và phân tích số liệu thứ cấp được sử dụng ở cả ba
chương để tập hợp, xử lý các tài liệu, số liệu... phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh các luận điểm tại
chương 1, các nhận định về thực trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp
luật trong hoạt động khoáng sảnở Việt Nam tại chương 2 và các yêu cầu, đề xuất
phương án xây dựng, hoàn thiện pháp luật tại chương 3 của luận văn.
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp được sử dụng chủ yếu trong việc đưa ra
những kết luận của từng chương và kết luận chung của luận văn.
6. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng
sản và pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai

thác khoáng sản tại Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trườngtrong
hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam.


6

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN
1.1. Khái quát về bảo vệ môi trườngtrong hoạt động khai thác khoáng sản
1.1.1. Khái niệm khoáng sản và hoạt động khai thác khoáng sản
* Khái niệm khoáng sản
Theo nghĩa chung nhất, khoáng sản là tài nguyên tích tụ vật chất dưới dạng hợp
chất hoặc đơn chất trong vỏ trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy
ra các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày.Tài nguyên
khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ khoáng sản. Tài nguyên khoáng
sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của loài người và khai thác sử
dụng tài nguyên khoáng sản có tác động mạnh mẽ đến môi trường sống. Một mặt, tài
nguyên khoáng sản là nguồn vật chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải của
con người. Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên khoáng sản thường tạo ra các loại ô
nhiễm như bụi, kim loại nặng, các hoá chất độc và hơi khí độc (SO2, CO, CH4 v.v...).
Theo Từ điển Bách Khoa toàn thư Việt Nam thì: “Khoáng sản là những thành
tạo khoáng vật của lớp vỏ trái đất, mà thành phần hóa học và các tính chất vật lý
của chúng cho phép sử dụng chúng có hiệu quả và lợi ích trong lĩnh vực sản xuất ra
của cải vật chất của nền kinh tế quốc dân. Dựa trên trạng thái vật lý phân ra:
khoáng sản rắn, lỏng (dầu mỏ, nước khoáng) và khí (khí đốt, khí trơ). Dựa vào
thành phần hóa học và công dụng phân ra: khoáng sản kim loại, phi kim (không
kim loại) và nhiên liệu”[34, tr.516].

Dưới góc độ pháp lý khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ
tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả
khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ (Khoản 1, Điều 2, Luật khoáng sản 2010)


7

Như vậy, khoáng sản là những khoáng vật, khoáng chất được tạo thành
trong vỏ trái đất tồn tại dưới dạng rắn, lỏng, khí và được sử dụng trong công
nghiệp, trong cuộc sống hàng ngày của con người. Còn tài nguyên khoáng sản là
sự tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất trong vỏ trái đất, mà ở điều
kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra các nguyên tố có ích hoặc sử dụng
trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày.
Khái niệm khoáng sản rất rộng bao gồm những dạng vật chất có ý nghĩa lớn
đối với cuộc sống hàng ngày của con người, là nguồn nguyên liệu và năng lượng cơ
bản cho sản xuất và đời sống.Tài nguyên khoáng sản được phân loại theo nhiều
cách: Theo dạng tồn tại: Rắn, khí (khí đốt, Acgon, He), lỏng (Hg, dầu, nước
khoáng); Theo nguồn gốc: Nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh (sinh ra
trên bề mặt trái đất); Theo thành phần hoá học: Khoáng sản kim loại (kim loại đen,
kim loại màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng, đá quý, vật
liệu xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá cháy).
Theo chức năng sử dụng, khoáng sản được phân ra làm 3 nhóm lớn:
- Khoáng sản kim loại gồm: Nhóm khoáng sản sắt và hợp kim sắt (sắt,
mangan, crom, vanadi, niken, molipden, vonfram, coban); nhóm kim loại cơ bản
(thiếc, đồng, chì, kẽm, antimoan); nhóm kim loại nhẹ (nhôm, titan, berylly); nhóm
kim loại quý hiếm (vàng, bạc, bạch kim); nhóm kim loại phóng xạ (uran, thori);
nhóm kim loại hiếm và đất hiếm;
- Khoáng sản phi kim loại: nhóm khoáng sản hóa chất và phân bón: apatit,
photphorit, barit, fluorit, muối mỏ, thạch cao (pirit, prontin,...) spectin; nhóm
nguyên liệu sứ gốm, thủy tinh chịu lửa, bảo ôn: sét- caolin, magnezit, fenspat,

diatomit... Nhóm nguyên liệu kỷ thuật: kim cương, grafit, thạch anh, mica, tan,
atbet, zeolit. Vật liệu xây dựng: đá macma và biến chất, đá vôi, đá hoa, cát sỏi;
- Khoáng sản cháy: than (than đá, than nâu, than bùn); dầu khí (dầu mỏ, khí
đốt, đá dầu)[34].


8

Khoáng sản rất cần cho cuộc sống của con người. Từ thời cổ đại, con người đã
biết sử dụng đá - một loại khoáng sản để làm công cụ lao động và xây dựng những
kim tự tháp. Thế kỷ thứ IV, thứ III trước Công nguyên, con người phát hiện và sử
dụng kim loại nguyên chất trong thiên nhiên: đồng, vàng. Dần dần, con người đã
phát hiện và sử dụng quặng sắt cùng với những kim loại khác để phục vụ cho cuộc
sống của mình. Ngày nay, khoáng sản được sử dụng rất nhiều trong cuộc sống con
người: từ nguyên liệu, nhiên liệu sử dụng trong ngành công nghiệp cho đến trồng
trọt, xây dựng, chế tạo các sản phẩm phục vụ cuộc sống…Vì thế, các HĐKTKS
được thực hiện ngày một nhiều trong xã hội hiện đại.
* Khái niệm HĐKTKS.
Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây
dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan.
Đây là việc lấy khoáng sản ra khỏi mỏ đáp ứng các nhu cầu của con người.
Hoạt động khoáng sản có ảnh hưởng lớn tới môi trường và sức khỏe con
người. Quá trình khai thác khoáng sản phát sinh những tác động bất lợi tới môi
trường đất, nước và không khí như: làm biến đổi địa hình khu vực, gây trượt lỡ đất;
gây xói mòn, bồi lấp dòng chảy; thu hẹp diện tích và làm suy thoái chất lượng đất
canh tác, đất rừng hoặc thậm chí cả đất ở; làm suy giảm nguồn nước mặt, nước
ngầm và thay đổi chế độ thủy văn, thay đổi chất lượng nước; gia tăng các sự cố môi
trường như: sạt lở, sập hầm lò... Trên thực tế, ngay cả khi đã ngừng khai thác
khoáng sản, đóng cửa mỏ thì các tác động bất lợi tới môi trường vẫn tiếp diễn trong
thời gian dài. Tác động dễ thấy nhất là tình trạng đất hoang hóa, bạc màu không

trồng cây được, làm mất môi trường sinh sống của các loài động vật hoang dã, suy
giảm hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Tại Việt Nam, HĐKTKS thường được tiến hành với công nghệ, trang thiết bị
kỹ thuật, phương tiện thăm dò, khai thác, chế biến còn lạc hậu, hoạt động khai thác,
chế biến khoáng sản của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp chưa khai thác triệt
để được quặng nghèo, các thành phần có ích đi kèm trong quặng; tài nguyên khoáng


9

sản chưa được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả. Tình trạng "dễ làm-khó bỏ"
khai thác không theo quy hoạch, không theo thiết kế vẫn còn diễn ra, nhất là đối với
các mỏ khoáng sản kim loại, làm tỷ lệ khoáng sản thu hồi thấp, tác động tiêu cực tới
môi trường sinh thái. Điều này dẫn tới việc tài nguyên khoáng sản nhanh chóng cạn
kiệt, tổn thất tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác và chế biến còn ở mức
cao, chưa kiểm soát được (quặng thiếc, quặng chì - kẽm, quặng crômit, mangan
v.v...), chưa chú ý đến sự đồng bộ về thiết bị và công nghệ BVMT. Hầu hết các mỏ
thiết kế và xây dựng từ những thập niên 60-70 với quy mô về sản lượng quặng và
khối lượng đất đá thải ít hơn nhiều so với hiện nay. Sau quá trình khai thác 30-40
năm, các bãi thải được quy hoạch với quy mô nhỏ, chưa tính đến các biến cố và quá
tải. Một lượng chất thải rất lớn bao gồm chất thải rắn, nước thải và bùn thải hàng
năm, không được quản lý và xử lý gây ô nhiễm môi trường[17].
Thực hiện chủ trương hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô, quặng tinh, tăng
cường chế biến sâu, thời gian gần đây đã có một số doanh nghiệp quan tâm đầu tư
cho hoạt động chế biến, nhất là chế biến sâu. Tuy nhiên, số lượng các dự án chế biến
sâu khoáng sản chưa nhiều, trình độ công nghệ chế biến chưa cao; tỷ lệ thu hồi
khoáng sản thấp, chưa có công nghệ thu hồi triệt để khoáng sản đi kèm với khoáng
sản chính; chưa thực sự quan tâm đến lựa chọn công nghệ thân thiện với môi trường
khi chế biến khoáng sản.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản

Khoản 3, Điều 3 Luật BVMT 2014 giải thích: Hoạt động BVMT là hoạt động
giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm; suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.
Từ khái niệm đó, có thể hiểu BVMT trong HĐKTKS như sau: BVMTtrong
HĐKTKS là hoạt động giữ gìn phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi
trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải


10

thiện môi trường do HĐKTKS gây ra. Các yêu cầu đặt ra đối với BVMT trong
HĐKTKS là:
- BVMT trong HĐKTKS phải được thực hiện trên cơ sở kết hợp thực hiện
nhiều biện pháp khác nhau: HĐKTKS diễn ra trên diện rộng, địa hình nhiều nơi đồi
núi, triền dốc hiểm trở, công nghệ phức tạp gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác
quản lý việc tuân thủ pháp luật môi trường. Vì vậy, trong HĐKTKS để đạt được
hiệu quả BVMT, đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau trong đó không
thể thiếu biện pháp pháp lý. Điều này đặt ra cho nhà nước phải xây dựng được hệ
thống pháp luật BVMT phù hợp làm cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp khác.
- BVMT trong HĐKTKS cần phải được tiến hành triệt để ở các địa phương
nơi có khoáng sản bởi HĐKTKS diễn ra rộng khắp không bó hẹp ở một địa bàn nào
và do vậy vấn đề BVMT cũng được đặt ra cho tất cả các cấp chính quyền nơi có
khoáng sản. Để công tác BVMT trong HĐKTKS được thực hiện triệt để và thực sự
đem lại hiệu quả thì các cơ quan, đơn vị, cá nhân phải phối hợp đồng bộ với nhau
trong quản lý.
- BVMT trong HĐKTKS cần có sự phối hợp của nhiều chủ thể. Để BVMT
trong HĐKTKS được thực hiện tốt đòi hỏi trang thiết bị phải hiện đại, trình độ chuyên
môn của cán bộ quản lý cao, chi phí lớn cho việc ứng phó, khắc phục sự cố, phục hồi
môi trường… với những yêu cầu đòi hỏi cao như vậy, để BVMT trong HĐKTKS có

hiệu quả cần có sự chung tay của toàn xã hội: từ phía nhà nước, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức cá nhân, các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản và cộng đồng dân
cư. Bên cạnh đó, BVMT trong HĐKTKS cần tiến hành một cách toàn diện, không chỉ
hạn chế, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy thoái sự cố môi trường mà còn phải hướng
tới việc sử dụng khoáng sản sao cho tiết kiệm và hiệu quả nhằm bảo vệ nguồn tài
nguyên này.
- BVMT trong HĐKTKScần được thực hiện trên cơ sở phát huy vai trò của
các chủ thể có liên quan. BVMT trong HĐKTKS phụ thuộc rất nhiều vào ý thức của
các chủ thể HĐKTKS và những người có nghĩa vụ liên quan. Bởi để đánh giá được


11

tình trạng môi trường và mức độ vi phạm pháp luật BVMT cần có nhiều thời gian
và chi phí lớn, chưa nói đến công tác phục hồi môi trường bị ô nhiễm suy thoái. Do
đó cần phải nâng cao nhận thức của các chủ thể HĐKTKS và người dân về BVMT;
gắn trách nhiệm của họ đi cùng quyền lợi từ môi trường trong lành sẽ là cách thức
tốt để BVMT trong HĐKTKS có hiệu quả cao.
1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản
1.2.1. Khái niệm, nội dung pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ
xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực
hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp
luật tương ứng. Lịch sử xã hội loài người đã có các kiểu pháp luật chủ nô, pháp luật
phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật hoàn toàn
không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự nhiên phi giai cấp của
con người như học thuyết pháp luật tự nhiên quan niệm. Pháp luật, như Mác – Ăng

ghen phân tích, chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà
nước; bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp
luật cũng mang tính xã hội, bởi vì ở mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm
những yêu cầu chung của xã hội về văn hóa, phúc lợi, môi trường sống… Về mặt
này, pháp luật xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội.
Pháp luật còn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội.
Nó do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội,
nhất là các quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đối với phát triển
kinh tế - xã hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó[39].


12

Để BVMT trong quá trình con người tiến hành các HĐKTKS, Nhà nước
ban hành và áp dụng hệ thống các quy phạm pháp luật riêng. Đó là pháp luật
BVMT trong HĐKTKS. Đây là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình con người tiến hành các HĐKTKS,
nhằm giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố
môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường do
HĐKTKS gây ra; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên khoáng sản.
Nội dung điều chỉnh của pháp luật bảo vệ môi trường trong HĐKTKS bao
gồm:
Thứ nhất, Các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong
HĐKTKS:
Đây là hoạt động nhằm đưa ra các dự báo, đánh giá mức độ tác động đến môi
trường nếu như dự án khai thác khoáng sản được triển khai, đánh giá sức chịu tải
của môi trường do KĐKTKS gây ra để có hướng giải quyết. Đưa ra các giải pháp để
xử lý các chất thải phát sinh trong KĐKTKS, phương án để phòng ngừa sự cố môi
trường, cải tạo, phục hồi môi trường. Đánh giá tác động môi trường được xem là

một giải pháp không thể thiếu cho việc phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường
trong quá trình tiến hành các KĐKTKS. Theo đó, trách nhiệm lập báo cáo đánh giá
tác động môi trường được quy định cho chủ dự án. Báo cáo này sẽ được thẩm định
bởi Hội đồng thẩm định và là căn cứ quan trọng để phê duyệt dự án.
Việc thẩm định, phê duyệt, xác nhận hoàn thành các đề án, báo cáo, thiết kế
trên giúp nhà nước nắm bắt một cách đầy đủ và toàn diện về KĐKTKS, xác định
loại khoáng sản được khai thác, ranh giới, diện tích khai thác và các loại thiết bị,
công nghệ cũng như các biện pháp mà chủ thể HĐKTKS áp dụng để BVMT.
Thứ hai, các quy định pháp luật về ký quỹ phục hồi môi trường trong
HĐKTKS:
Nhằm đảm bảo cho việc phục hồi môi trường sau hoạt động khoáng sản, pháp
luật cần cụ thể hóa nội dung này vào các quy định pháp luật để điều chỉnh hành vi


13

của các chủ thể tham gia hoạt động khoáng sản. Để được tiến hành hoạt động khoáng
sản các chủ thể phải nộp một khoản tiền tương ứng vào quỹ bảo vệ môi trường theo
đề án cải tạo, phục hồi môi trường được phê duyệt, số tiền này được sử dụng cho các
hoạt động cải tạo phục hồi môi trường như: xử lý các hóa chất độc hại, chất thải rắn,
chất thải nguy hại, hoàn nguyên các mỏ, xử lý các bãi thải..., trong trường hợp địa
phương nơi có hoạt động khoáng sản chưa có quỹ BVMT thì tổ chức, cá nhân phải ký
quỹ tại quỹ BVMT Việt nam. Quỹ bảo vệ môi trường là một tổ chức tài chính trực
thuộc Bộ tài nguyên và môi trường, có tư cách pháp nhân do nhà nước lập ra để quản
lý, điều hành mọi hoạt động có liên quan đến công tác bảo vệ môi trường trên phạm
vi toàn quốc
Thứ ba, các quy định pháp luật về giấy phép khai thác khoáng sản:
Để quản lý nguồn tài nguyên khoáng sản được tốt, tránh thất thoát và lãng phí
thì cần có công cụ để quản lý đó là bằng các văn bản hành chính được cơ quan nhà
nước chứng nhận. Trên cơ sở quy hoạch khoáng sản được phê duyệt, các tổ chức, cá

nhân muốn khai thác chúng thì cần đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
phép. Giấy phép khai thác khoáng sản như là một chứng thư xác lập quyền và nghĩa
vụ của chủ thể trong một thời gian nhất định được nêu trong giấy phép.
Hoạt động cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản là những biện
pháp mang tính pháp lý để nhà nước có thể theo dõi, quản lý, kiểm soát chặt chẽ toàn
bộ quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản. Hoạt động này một mặt sẽ
góp phần hạn chế việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng sản một cách
bừa bãi, lãng phí đồng thời kiểm soát được những tác động xấu đến môi trường từ các
hoạt động khoáng sản. Mặt khác, hoạt động này nhằm bảo vệ các quyền lợi hợp pháp
cho những người tiến hành khai thác khoáng sản. Giấy phép khai thác khoáng sản là
những chứng thư pháp lý xác định những quyền và nghĩa vụ của người hoạt động
khoáng sản. Những quyền và nghĩa vụ này không chỉ nhằm bảo vệ tài nguyên khoáng
sản với tư cách là tư liệu sản xuất mà còn với tư cách là một thành phần của môi


14

trường quan trọng, góp phần duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và đất
nước.
Thứ tư, Các quy định pháp luật về quản lý chất thải, cải tạo, phục hồi môi
trường khi khai thác khoáng sản:
Trong quá trình HĐKTKS các tổ chức, cá nhân làm phát sinh nhiều yếu tố
gây tác động tiêu cực đến môi trường như: nước thải, chất thải rắn, khí thải độc, bụi,
tiếng ồn, dầu mỡ, các phụ tùng, vật tư hư hỏng của các phương tiện cơ giới trong
quá trình khai thác khoáng sản. Chính vì vậy, việc quản lý các loại chất này được
đặt ra là một yêu cầu bức thiết nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực gây ra cho
con người và môi trường trong quá trình tiến hành các HĐKTKS.
Điều chỉnh vấn đề này, pháp luật môi trường Việt Nam và pháp luật môi
trường của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định trách nhiệm cụ thể của các
tổ chức, cá nhân trong việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm thiểu chất thải;

thu gom và xử lý chất thải đảm bảo an toàn cho môi trường và sức khỏe con người.
Sau khi tiến hành HĐKTKS, các tổ chức, cá nhân phải tiến hành hoàn
nguyên, cải tạo, phục hồi môi trường là hoạt động đưa môi trường, hệ sinh thái (đất,
nước, không khí, cảnh quan thiên nhiên, thảm thực vật,...) tại khu vực HĐKTKS và
các khu vực bị ảnh hưởng do HĐKTKS về trạng thái môi trường gần với trạng thái
môi trường ban đầu hoặc đạt được các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn, môi trường
và phục vụ các mục đích có lợi cho con người như: tiến hành san lấp trả lại nguyên
trạng mặt bằng khu vực HĐKTKS, dùng công nghệ để xử lý các hóa chất phát tán
ra xung quanh, áp dụng công nghệ phù hợp để xử lý chất thải tại bãi thải, trồng cây
xanh.
Thứ năm, Các quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động khai thác khoáng sản:
Cùng với các quy định cụ thể về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với
bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản, các quy định pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật cũng là một nội dung không thể thiếu của pháp luật trong lĩnh vực


15

này. Các quy định này quy định cụ thể các dạng trách nhiệm pháp lý được áp dụng
đối với tổ chức, cá nhân vi phạm; các hành vi vi phạm cũng như thẩm quyền xử lý
vi phạm áp dụng cho từng trường hợp cụ thể, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm.
1.2.2. Các yêu cầu đối với pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản
Pháp luật về BVMT trong HĐKTKSphải thỏa mãn những yêu cầu sau:
Một là, pháp luật BVMT trong HĐKTKS phải tạo điều kiện thuận lợi cho
việc huy động tối đa các nguồn lực kỹ thuật và tài chính cho công tác BVMT
trong HĐKTKS. Để thực hiện tốt yêu cầu này, các quy định pháp luật BVMT
trong HĐKTKS cần tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho các chủ thể đầu tư
tiền vốn và ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Bên cạnh đó, các quy định khuyến khích thực hiện những hoạt động trên cũng
cần được ban hành. Quy định về hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với các cơ sở
xử lý chất thải; quy định về chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp sử
dụng công nghệ thân thiện với môi trường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường… là
cần thiết để tạo động lực kích thích kinh tế với các tổ chức, cá nhân, thúc đẩy họ
tích cực thực hiện các hoạt động có lợi cho môi trường, qua đó giảm bớt nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường do HĐKTKS gây ra.
Hai là, pháp luật BVMT trong HĐKTKS phải dựa trên các yêu cầu nghiêm
ngặt và thoả mãn những đòi hỏi khắt khe của công tác BVMT. Yêu cầu này đòi hỏi
các quy phạm pháp luật BVMT phải điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nảy sinh
trong quá trình làm phát sinh, thu gom, vận chuyển hay xử lý chất thải trong
HĐKTKS trên cơ sở phù hợp với các đặc tính kỹ thuật riêng của từng giai đoạn
quản lý. Nói cách khác, yêu cầu này đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ giữa các quy phạm
pháp luật BVMT với các quy phạm kỹ thuật trong BVMT. Ngoài ra, để đảm bảo
việc thực hiện tốt các yêu cầu nghiêm ngặt và đòi hỏi khắt khe của BVMT trong
HĐKTKS, những chế tài nghiêm khắc, đủ sức răn đe, trừng phạt người vi phạm
cũng là yêu cầu quan trọng đặt ra cho pháp luật BVMT. Cùng là hành vi xả nước


16

thải trái phép vào nguồn nước, song hành vi xả nước thải có chứa thành phần nguy
hại như: thủy ngân, chất phóng xạ rõ ràng cần phải được xử lý “mạnh tay” hơn so
với hành vi xả nước thải không chứa thành phần nguy hại vì mức độ hậu quả của
hai hành vi này hoàn toàn khác nhau.
Ba là, pháp luật BVMT trong HĐKTKS phải là công cụ định hướng chuyên
môn cho các hoạt động BVMT. Thoả mãn yêu cầu này, những quy tắc xử sự được
đưa ra trong các quy phạm pháp luật BVMT phải thật sự hợp lý, khoa học và dễ
hiểu. Chúng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong quan hệ pháp
luật BVMT thực hiện tốt yêu cầu BVMT mà còn đảm bảo hiệu quả điều chỉnh của

chính các quy phạm pháp luật ấy. Các quy phạm hướng dẫn kỹ thuật cũng cần được
quan tâm xây dựng để đáp ứng yêu cầu này. Những hướng dẫn này là sự bổ trợ cần
thiết mang tính chất định hướng chuyên môn cho các tổ chức, cá nhân cũng như các
cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ BVMT.
Bốn là, pháp luật BVMT trong HĐKTKS phải đảm bảo vai trò quản lý
thường xuyên của Nhà nước. Với những đòi hỏi cao về kỹ thuật và chi phí cho
công tác BVMT trong HĐKTKS, khó có thể trông chờ vào ý thức tự giác của các tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện những yêu cầu an toàn cho môi trường và sức
khoẻ cộng đồng. Vì thế, pháp luật BVMT phải luôn đảm bảo sự quản lý thường
xuyên của Nhà nước đối với các hoạt động này. Để đáp ứng được yêu cầu đó, quy
định chi tiết, thống nhất và khoa học về thiết chế thực thi pháp luật BVMT là không
thể thiếu. Các hoạt động thực thi pháp luật BVMT, hoạt động giám sát thực thi pháp
luật BVMT và cưỡng chế thực thi pháp luật của hệ thống cơ quan nhà nước trong
lĩnh vực này cần được điều chỉnh chi tiết bằng các quy phạm pháp luật BVMT trong
HĐKTKS.
1.2.3. Những yếu tố tác động đến pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản
Pháp luật về bảo vệ môi trường trong HĐKTKS là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều yếu tố khác nhau trong kiến trúc


17

thượng tầng cũng như cơ sở hạ tầng của xã hội. Về cơ bản, quá trình xây dựng và
thực thi pháp luật về BVMT trong HĐKTKS chịu sự tác động của những yếu tố
sau:
- Một là, đường lối, chính sách của Đảng về BVMT trong HĐKTKS
Đường lối, chính sách của Đảng là hệ thống các quan điểm, tư tưởng mang tính
chất định hướng cho những nội dung, mặt hoạt động nhất định, gắn liền với quyền lực
chính trị, với Đảng cầm quyền. Trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về BVMT

trong HĐKTKS, đường lối, chính sách của Đảng có vai trò hết sức quan trọng.
Để đưa nền kinh tế của đất nước phát triển và giữ vững ổn định trật tự xã hội,
Đảng đưa ra đường lối, chính sách để chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế trong từng giai
đoạn cụ thể. Trong những nội dung chỉ đạo, điều hành của Đảng có định hướng xây
dựng pháp luật, định hướng phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, định hướng
BVMT. Trên cơ sở nội dung của các đường lối, chính sách đó, nhà nước ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách thành các
quy định mang tính chất bắt buộc, điều chỉnh những quan hệ liên quan đến BVMT phát
sinh trong quá trình HĐKTKS. Vì vậy, có thể khẳng định rằng đường lối, chính sách về
BVMT trong HĐKTKS là một trong những cơ sở để xây dựng và quyết định nội dung
cơ bản của pháp luật về BVMT trong HĐKTKS.
Không chỉ có vai trò đối với hoạt động xây dựng pháp luật; đường lối, chính
sách của Đảng còn có vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật về BVMT
trong HĐKTKS. Các chính sách tuyên truyền, giáo dục pháp luật; các quan điểm
chỉ đạo, quyết liệt trong xử lý vi phạm pháp luật về BVMT trong HĐKTKS đem lại
những đóng góp tích cực cho công tác thực thi pháp luật về BVMT trong HĐKTKS.
- Hai là, tình hình phát triển kinh tế- xã hội
Nhu cầu sử dụng khoáng sản để phục vụ sản xuất, cuộc sống hàng ngày của con
người thúc đẩy các chủ thể tiến hành HĐKTKS. Trong quá trình HĐKTKS phát sinh
nhiều quan hệ xã hội, trong đó có các quan hệ xã hội liên quan đến môi trường như:
chuyển mục đích sử dụng đất, xây dựng mỏ, khai đào, sử dụng nguồn nước, xả thải,


×