Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 82 trang )

PHÙNG THỊ NGỌC ÁNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

PHÙNG THỊ NGỌC ÁNH
2014 - 2016
HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

PHÙNG THỊ NGỌC ÁNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN



ơ

HÀ NỘI – 2016


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài................................................... 5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn .................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 6
5. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ CẠNH
TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
VÀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ................................................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhượng quyền thương mại .. 7
1.1.1. Khái niệm hoạt động nhượng quyền thương mại ........................................ 7
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại .................................. 8
1.1.3. Hành vi hạn chế cạnh tranh và yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ........................................ 13
1.1.4. Các yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại ..................................................................................... 14
1.1.5. Nhận diện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng
quyền thương mại ................................................................................................. 17
1.2. Khái niệm và nội dung pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt
động nhượng quyền thương mại ........................................................................ 27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT



NAM...................................................................................................................... 35
2.1. Thực trạng pháp luật thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hoạt
động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam ................................................... 35
2.1.1. Thỏa thuận về giá bán hàng hóa, dịch vụ .................................................. 35
2.1.2. Thỏa thuận phân chia lãnh thổ nhượng quyền ............................................ 41
2.2. Thực trạng pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trong
hoạt động nhượng quyền thương mại ............................................................... 43
2.2.1. Hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền................ 43
2.2.2. Hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt
hại cho khách hàng ................................................................................................ 46
2.2.3. Hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng ................................................................... 49
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT
ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 54
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt
động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.................................... 54
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng
quyền trên cơ sở đảm bảo ghi nhận quy luật khách quan của cạnh tranh trong
quan hệ nhượng quyền thương mại ....................................................................... 54
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng
quyền trên cơ sở ghi nhận những ngoại lệ hợp lý của pháp luật cạnh tranh
theo hướng phù hợp với bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại ....... 55
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền
trên cơ sở đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật điều chỉnh trực tiếp


hoạt động nhượng quyền thương mại (Luật Thương mại) với pháp luật cạnh

tranh ....................................................................................................................... 58
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh
tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam ..................... 61
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 72


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với việc Việt Nam đã ký kết các hiệp định kinh tế khu vực và quốc tế trong
thời gian gần đây, hoạt động nhượng quyền thương mại trong thời gian tới chắc
chắn sẽ rất sôi động, khi nước ta đón nhận hàng loạt những thương hiệu mới đến
tìm kiếm cơ hội đầu tư. Theo đó, các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ có cơ hội
xâm nhập vào các thị trường nước ngoài để nhượng quyền các thương hiệu Việt.
Nhượng quyền thương hiệu đã được chứng minh là một trong những mô hình kinh
doanh thành công nhất trong vòng 100 năm qua, kể từ sau Thế chiến thứ II. Tại
những quốc gia phát triển như ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Australia, nhượng
quyền thương mại là mô hình chủ đạo để các doanh nghiệp vươn ra thị trường thế
giới.
Tại Việt Nam, hình thức kinh doanh nhượng quyền đã có mặt từ trước năm
1975 thông qua một số hệ thống nhượng quyền các trạm xăng dầu của Mỹ như:
Mobil, Exxon (Esso), Shell. Sau đó, nhượng quyền thương mại xuất hiện trở lại vào
giữa thập niên 90 của thế kỷ XX. Trước sự phát triển của loại hình kinh doanh này,
năm 2005, Luật Thương mại (Điều 284) cũng đã đề cập đến nhượng quyền thương
mại. Cùng với xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế nhanh chóng, Việt Nam trở thành
thị trường được chú ý đối với các thương hiệu lớn quốc tế và khu vực. Hàng trăm
thương hiệu lớn quốc tế và khu vực trong các lĩnh vực nhà hàng - ăn uống, giáo
dục, chăm sóc sức khỏe... đến từ Mỹ, Australia, Singapore, Tây Ban Nha đã không
bỏ qua cơ hội vàng để tìm kiếm đối tác nhượng quyền độc quyền tại Việt Nam,
như: McDonald’s, Starbucks, KFC, Pizza Hut, Lotteria, The Coffee Bean & Tea

Leaf, Cirkle K, Baskin Robbins, Buger King…
Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước cũng bắt đầu tìm cách nhượng
quyền thương hiệu để làm “đòn bẩy” phát triển thị trường, nâng cao giá trị thương
hiệu của mình. Trung Nguyên có thể coi là hình mẫu tiên phong tại Việt Nam áp
dụng hình thức kinh doanh này bằng cách phát triển hệ thống đại lý của mình theo
hình thức nhượng quyền. Đến nay, doanh nghiệp này không những đã mở rộng
chuỗi cửa hàng của mình trên khắp cả nước mà còn mở rộng sang một số nước,

1


như: Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Singapore…Tiếp theo là Phở 24 – một
trong những doanh nghiệp nhượng quyền thành công nhất tại Việt Nam. Bắt đầu
xuất hiện từ năm 2003, chưa đầy 03 năm, Phở 24 đã có trên 20 cửa hàng phở
nhượng quyền trong khắp cả nước, sau đó nhượng quyền sang Phillipine,
Indonesia, Philippines, Hàn Quốc, Australia... Ngoài ra, có thể kể đến Kinh Đô
bakery, thời trang Ninomax, Foci, giày dép T&T... Đặc biệt, T&T là một trong
những doanh nghiệp đầu tiên được Bộ Công Thương cấp phép nhượng quyền sang
Maysia và Australia.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính đến đầu năm 2016, Việt Nam đã
đón nhận 144 thương hiệu đến từ các quốc gia đăng ký nhượng quyền thương hiệu.
Trong khi đó, chỉ có 5 thương hiệu của Việt Nam đăng ký nhượng quyền thương
hiệu ra nước ngoài ở lĩnh vực cà phê, thời trang như: Trung Nguyên, T&T, Phở
24... Dự báo, thị trường nhượng quyền thương hiệu tại Việt Nam vẫn tiếp tục tăng
trưởng ở mức 25% cùng với sự gia nhập của các thương hiệu quốc tế lớn mạnh và
các thương hiệu đến từ khu vực ASEAN.
Nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh, theo đó bên nhượng
quyền cấp cho bên nhận quyền quyền độc quyền kinh doanh sản phẩm, dịch vụ của
mình trong một thời gian, dưới nhãn hiệu, kế hoạch kinh doanh của bên nhượng
quyền. Bên nhận quyền là bên sử dụng tên thương mại, bí quyết kinh doanh... của

bên nhượng quyền để tiến hành kinh doanh sản phẩm, dịch vụ theo phương thức của
bên nhượng quyền.
Khi thực hiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, bên nhượng
quyền phải chuyển giao toàn bộ quyền thương mại (bao gồm tất cả các yếu tố tạo
nên thương hiệu của bên nhượng quyền như nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết
kinh doanh…) cho bên nhận quyền sử dụng để tiến hành kinh doanh. Nghĩa vụ của
bên nhận quyền là phải kinh doanh theo một phương thức duy nhất, cung cấp sản
phẩm với chất lượng và dịch vụ đồng nhất với bên nhượng quyền, đảm bảo khách
hàng khi sử dụng sản phẩm sẽ không thể phân biệt được sự khác biệt với sản phẩm
của bên nhượng quyền và các cơ sở nhận quyền khác. Chính vì vậy, có thể nói khi
kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, bên cạnh lợi ích rất lớn từ việc thu

2


phí nhượng quyền và thương hiệu được đẩy nhanh do mạng lưới nhượng quyền
được mở rộng bởi sự đầu tư và tham gia của các bên nhận quyền , bên nhượng
quyền cũng phải đối mặt với rủi ro rất lớn là mất quyền thương mại và sụp đổ toàn
bộ hệ thống nhượng quyền nếu như không có một sự kiểm soát chặt chẽ.
Ngược lại, về phía bên nhận quyền, sau khi đã bỏ ra một chi phí rất lớn để có
thể nhận quyền kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại, bên nhận
quyền cũng mong muốn sẽ được đảm bảo một tỷ lệ thành công cao. Sự thành công
đó sẽ khó mà thực hiện dễ dàng khi mà việc kinh doanh phải được thực hiện theo
một phương thức duy nhất và đồng nhất về chất lượng thậm chí cả sự đồng nhất
về giá cả, trong khi bên nhận quyền không phải là người duy nhất được sử dụng
quyền thương mại để kinh doanh theo phương thức nhượng quyền. Do vậy, bên
nhận quyền rất có thể phải đối mặt với nguy cơ thất bại nếu như bên nhượng quyền
nhượng lại quyền thương mại cho quá nhiều bên nhận quyền trong một khu vực
địa lý, trong khi về bản chất, giữa các bên nhận quyền khó mà thực hiện việc cạnh
tranh theo cách hiểu thông thường, bởi lẽ họ phải đáp ứng việc kinh doanh chỉ theo

một phương thức và chất lượng đồng nhất với bên nhượng quyền.
Vì những lẽ trên, khi thiết lập quan hệ nhượng quyền thương mại, các bên
thường có xu hướng thực hiện những hành vi nhằm kiểm soát lẫn nhau do bản chất
vốn có của quan hệ nhượng quyền. Những hành vi này thường chứa đựng yếu tố
hạn chế cạnh tranh, như buộc bên nhận quyền phải mua hàng hóa/nguyên vật liệu
từ một nguồn nhất định hoặc thỏa thuận bên nhận quyền được phép kinh doanh độc
quyền trong một khu vực nhất định (độc quyền lãnh thổ), thỏa thuận cấm cạnh
tranh, thỏa thuận về giá bán hàng hóa/dịch vụ...
Dưới cách nhìn của pháp luật cạnh tranh hiện nay, những hành vi này sẽ bị
cấm khi hội tụ đủ một số điều kiện nhất định. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của một
hành vi thương mại, những thỏa thuận này lại không thể không tồn tại trong một
quan hệ nhượng quyền vốn có nhiều tiềm năng cũng như rủi ro phải đối mặt đối với
các bên.
Đặc thù này đòi hỏi pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động nhượng quyền
thương mại phải được đặt trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh. Bởi lẽ, nếu

3


áp dụng các quy tắc chung của pháp luật cạnh tranh để điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thì trong nhiều trường hợp sẽ không phù hợp với bản chất thương
mại của hoạt động nhượng quyền thương mại, không đảm bảo được lợi ích chính
đáng của các bên, từ đó số lượng thương vụ nhượng quyền sẽ ít và lợi ích của nền
kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Ngược lại, nếu pháp luật điều chỉnh hoạt động này
theo đúng bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại thì các chủ thể
tham gia quan hệ sẽ gặp khó khăn trong việc tuân thủ theo những quy định thông
thường của pháp luật cạnh tranh. Điều này sẽ tất yếu dẫn đến việc nhà nước (đặc
biệt là các cơ quan quản lý về cạnh tranh và thương mại) sẽ cảm thấy “bất lực”
trong việc điều hòa lợi ích cạnh tranh và lợi ích kinh tế mà hoạt động nhượng
quyền thương mại mang lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật hạn chế

cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại là cần thiết trong bối cảnh
nền kinh tế hiện nay, thông qua đó, đề xuất những giải pháp vừa để nâng cao thái
độ tuân thủ pháp luật cạnh tranh của các chủ thể tham gia quan hệ nhượng quyền
thương mại, vừa đảm bảo hoạt động nhượng quyền được phát triển và phát huy
được lợi thế theo đúng bản chất vốn có của nó.
Việc thực hiện Luật Cạnh tranh trong 10 năm qua đã tạo ra một khuôn khổ
pháp lý tương đối toàn diện để điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt
Nam, qua đó tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho các chủ
thể tham gia trên thị trường. Tuy nhiên, các quy định trong pháp luật cạnh tranh
hiện nay vẫn chưa tính đến những đặc thù trong quan hệ nhượng quyền thương
mại. Nhiều quy định còn mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu tính cụ thể hoặc không
phù hợp bản chất thương mại của hành vi cũng như thông lệ quốc tế trong việc
điều chỉnh hoạt động nhượng quyền. Đây cũng là một trong số những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật về
nhượng quyền thương mại nói riêng chưa thực sự đạt được hiệu quả cao trong
điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ thực tế nói trên, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, việc
nghiên cứu, đánh giá có hệ thống và toàn diện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động nhượng quyền thương mại là cần thiết.

4


Với cách tiếp cận như trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật hạn chế cạnh
tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu cho Luận văn của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật hạn chế cạnh tranh trong

hoạt động nhượng quyền thương mại, từ đó, đưa ra phương hướng và đề xuất giải
pháp hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về hành vi hạn chế cạnh
tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Thông qua đó, làm sáng tỏ cơ
sở phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền, lý giải
nguyên nhân của xu hướng thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền và nhận diện các hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại.
Thứ hai, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại như: khái niệm pháp luật
hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại; xác định nội dung
của pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
Thứ ba, phân tích thực trạng pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hạn
chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay,
đảm bảo vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với đặc thù của Việt
Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

5


- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động nhượng quyền thương mại.
- Nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa
các bên nhượng quyền và nhận quyền trong cùng một hệ thống nhượng quyền
thương mại trên thực tế, như: Hành vi thỏa thuận về giá bán hàng hóa, dịch vụ;

Hành vi thỏa thuận phân chia lãnh thổ nhượng quyền; Hành vi áp đặt giá bán bất
hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền; Hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn
định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho bên nhận quyền; Hành vi buộc bên
nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của
hợp đồng.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp mô tả, tổng hợp, thống kê được sử dụng để phác họa nội
dung của các quy định pháp luật của Việt Nam liên quan đến pháp luật hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
- Phương pháp so sánh đối chiếu và phân tích được sử dụng để chỉ ra những
điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc
gia khác trên thế giới về những vấn đề liên quan đến luận văn.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng để làm rõ nội dung của các
quy định pháp luật thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn và đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văn được cơ cấu thành ba chương với các nội dung cụ thể sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại và pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại;
Chương 2: Thực trạng pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam;

6


Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hạn
chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG
HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhượng quyền thương mại
1.1.1. Khái niệm hoạt động nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh hình thành từ khá lâu ở
các quốc gia phát triển và đã được minh chứng tính hiệu quả kinh tế. Nhượng
quyền thương mại tạo điều kiện nhanh nhất cho các doanh nghiệp nhân rộng thành
công, thâm nhập và bành trướng thương hiệu của mình ra thị trường thế giới, đồng
thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tận dụng lợi thế cạnh tranh để làm tiền đề
cho sự phát triển ổn định và lâu dài của mình thông qua hệ thống nhượng quyền.
Như vậy, nhượng quyền thương mại là một hình thức tiếp thị và phân phối hàng
hóa, dịch vụ rất hiệu quả, theo đó, bên nhận quyền được cấp quyền kinh doanh một
loại sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp với các tiêu chuẩn, hệ thống, phương thức đã
được bên nhượng quyền thiết lập với sự trợ giúp, huấn luyện và kiểm soát của bên
nhượng quyền. Đổi lại, bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền và phí bản
quyền cho bên nhượng quyền. Trong hoạt động này, bên nhượng quyền và bên
nhận quyền vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ trong suốt quá trình có hiệu
lực của hợp đồng. Việc hợp tác trong hệ thống được thiết lập nhằm mục đích
hướng người tiêu dùng nhận biết sản phẩm, dịch vụ của bên nhượng quyền và bên

7


nhận quyền như là một phần của hệ thống mà không giống như người bán lẻ độc
lập. Bằng cách này, bên nhượng quyền có thể mở rộng hệ thống phân phối sản
phẩm, sự phát triển thương hiệu của mình thông qua chủ thể đầu tư khác. Về phía

bên nhận quyền, thông qua việc kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền thương
mại sẽ hạn chế được rủi ro bởi có sự trợ giúp kỹ thuật và trợ giúp về cách thức
quản lý của bên nhượng quyền.
Nhượng quyền thương mại được ghi nhận tại Điều 284 Luật Thương mại
2005 như sau: Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên
nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Như vậy, qua khái niệm trên có thể khẳng định, một hoạt động được coi là
nhượng quyền thương mại khi có đầy đủ các yếu tố sau:
- Là hành vi của các chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp,
- Là hoạt động nhằm hướng tới việc chuyển giao quyền thương mại (quyền
kinh doanh theo một phương thức thống nhất của bên nhượng quyền),
- Hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền luôn phải đảm bảo
tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống.
Việc ghi nhận nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại độc
lập trong Luật Thương mại 2005 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc phát triển hoạt
động nhượng quyền thương mại vốn đã tồn tại trước đó ở Việt Nam. Đồng thời,
người tiêu dùng cũng có nhiều điều kiện tiếp cận các sản phẩm khác nhau từ khắp
nơi trên thế giới thông qua hệ thống nhượng quyền thương mại.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại

8



Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại độc lập với các đặc
điểm sau đây:
Một là, hoạt động nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại được
thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp (thương nhân).
Có tư cách thương nhân, đó là một trong những điều kiện tối thiểu để các bên
có thể tham gia quan hệ nhượng quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trong
đó:
- Bên nhượng quyền là bên đã xây dựng được một thương hiệu mạnh, đã
được kiểm nghiệm trên thị trường. Pháp luật các nước thường yêu cầu bên
nhượng quyền phải là thương nhân, đã có thời gian hoạt động trong lĩnh vực dự
định kinh doanh nhượng quyền trong một thời gian nhất định, thời gian cụ thể bao
nhiêu tùy theo điều kiện, mục tiêu cũng như chính sách của mỗi nước. Quy định
này được đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động nhượng quyền thương mại có khả năng
thành công cao, giảm thiểu rủi ro kinh doanh cho bên nhận quyền sau khi đã đầu
tư một số tiền khá lớn (phí nhượng quyền) để được bên nhượng quyền cấp quyền
thương mại. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 5, Nghị định 35/2006/NĐ-CP
quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, bên
nhượng quyền chỉ được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện
sau đây:
+ Thứ nhất, hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt
động được ít nhất 01 năm. Nếu thương nhân Việt Nam là Bên nhận quyền sơ cấp
từ bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo
phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến
hành cấp lại quyền thương mại;
+ Thứ hai, đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan
có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, hàng hoá, dịch vụ kinh doanh phải thuộc đối tượng được phép
kinh doanh nhượng quyền thương mại.
- Bên nhận quyền là bên sử dụng quyền thương mại của bên nhượng quyền
để kinh doanh và phải trả một khoản phí nhất định cho việc sử dụng quyền thương


9


mại này. Điều kiện đặt ra đối với bên nhận quyền đơn giản hơn rất nhiều so với
bên nhượng quyền. Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định bên nhận quyền
phải tồn tại dưới một tên thương mại riêng, có tư cách pháp lý độc lập. Theo quy
định tại Điều 6 Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về
hoạt động nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền phải là thương nhân và chỉ
được phép kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền thương mại khi có đăng ký
kinh doanh phù hợp với đối tượng của quyền thương mại được chuyển nhượng
theo hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Như vậy, chủ thể tham gia hợp đồng phải là thương nhân là một trong những
điều kiện tiên quyết để hợp đồng nhượng quyền thương mại có hiệu lực. Đây là
khác biệt cơ bản giữa hợp đồng nhượng quyền thương mại và các hợp đồng
thương mại thông thường khác. Đối với hợp đồng thương mại thông thường, chủ
thể thực hiện hợp đồng có thể là những tổ chức, cá nhân không phải là thương
nhân. Sự khác biệt này xuất phát từ bản chất đặc thù của hoạt động nhượng
quyền thương mại, do đây là một hoạt động rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro,
yêu cầu chủ thể thực hiện phải đáp ứng rất nhiều điều kiện cả về năng lực kinh
doanh lẫn năng lực tài chính. Bên cạnh đó, khi đã thực hiện việc chuyển giao
quyền thương mại, trước hết bên nhượng quyền phải là chủ thể đã và đang thực
hiện hoạt động kinh doanh; đối với bên nhận quyền, khi tiếp nhận quyền thương
mại cũng đồng nghĩa với việc thực hiện hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi
nhuận thông qua phương thức mà bên nhượng quyền đã chuyển giao. Chính vì
thế, hoạt động nhượng quyền thương mại cần phải được thực hiện bởi các thương
nhân - Những chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Hai là, đối tượng mà các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền chính là
“quyền thương mại”
Khoản 6 Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 quy định chi

tiết Luật Thương mại về nhượng quyền thương mại, “quyền thương mại” được
hiểu là một, một số hoặc toàn bộ các quyền sau đây: (i) Quyền được bên nhượng
quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh
doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền

10


quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (ii) Quyền được
bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung; (iii)
Quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên nhận quyền thứ cấp theo
hợp đồng nhượng quyền thương mại chung và (iv) Quyền được bên nhượng
quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền
thương mại
Như vậy, hiểu một cách cơ bản, ngoài các quyền phái sinh như quyền cấp lại
quyền thương mại cho chủ thể khác, thì quyền thương mại về bản chất là quyền
được “tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo một
hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên
nhượng quyền”
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, trong một số trường hợp, mà phổ biến là
trong phương thức nhượng quyền phân phối sản phẩm, đối tượng các bên hướng
tới trong quan hệ nhượng quyền thương mại bao gồm cả "hàng hóa" được cung
ứng bởi bên nhượng quyền.
Chẳng hạn, trong hệ thống nhượng quyền mỹ phẩm của hãng The Body
Shop, để có thể kinh doanh sản phẩm trên, bên nhận quyền phải cam kết kinh
doanh theo phương thức nhượng quyền (cách thức kinh doanh, cách bài trí, màu
sắc, trang thiết bị...) và mua sản phẩm do bên nhượng quyền cung ứng. Thông
thường, "hàng hóa" được nói đến ở đây là những sản phẩm tương đối đặc thù, do

bên nhượng quyền độc quyền cung ứng. Chính vì vậy, để được kinh doanh hàng
hóa đặc thù trên, bên nhận quyền buộc phải chấp nhận cách thức kinh doanh theo
phương thức nhượng quyền như một điều kiện bắt buộc. Trong trường hợp này,
sẽ tồn tại hai đối tượng mà các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền thương
mại, (i) quyền thương mại và (ii) hàng hóa được cung ứng bởi bên nhượng quyền.
Ba là, quan hệ nhượng quyền hướng tới thiết lập và ổn định trạng thái đồng
bộ của hệ thống nhượng quyền trong suốt quá trình kinh doanh

11


Do việc chuyển giao cách thức kinh doanh và cùng sử dụng các dấu hiệu nhận
biết thương nhân, nhượng quyền thương mại đã làm cho khách hàng nhận biết theo
hướng toàn bộ các cơ sở trong hệ thống nhượng quyền như cùng một chủ sở hữu duy
nhất, mặc dù về bản chất họ là các thương nhân độc lập nhau cả về mặt pháp lý và tài
chính. Chẳng hạn, trong hệ thống nhượng quyền cà phê Trung Nguyên, khi khách
hàng uống một ly cà phê Trung Nguyên ở Hà Nội hay sử dụng sản phẩm ở một cơ sở
tại Thành phố Hồ Chí Minh thì đều được phục vụ với cùng một cách thức, cùng chất
lượng sản phẩm như nhau, mặc dù hai cơ sở này hoàn toàn độc lập nhau về mặt tư
cách pháp lý, tài chính. Mặc dù vậy, ở khía cạnh là người tiêu dùng, khách hàng
thường nhận diện theo hướng tất cả các cơ sở trong hệ thống nhượng quyền đều cùng
một chủ sở hữu. Với dấu hiệu nhận biết như trên, nếu một bên nhận quyền cung cấp
sản phẩm không đảm bảo chất lượng, người tiêu dùng sẽ mất niềm tin vào toàn bộ hệ
thống nhượng quyền. Mặc dù sự đồng bộ trong quan hệ nhượng quyền chỉ là sự đồng
bộ tương đối, không phải là sự đồng bộ một cách tuyệt đối, mức độ đồng bộ sẽ phụ
thuộc vào chính sách của mỗi hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, dù mức độ đồng
bộ như thế nào thì với sự nhận biết của khách hàng như trên, việc thiết lập và vận
hành hệ thống nhượng quyền một cách đồng bộ là một trong những yếu tố đảm bảo
sự tồn tại và phát triển bền vững của hệ thống nhượng quyền. Để đảm bảo tính đồng
bộ của hệ thống nhượng quyền, bên nhượng quyền thường có những hoạt động nhằm

thường xuyên trợ giúp, hỗ trợ cho bên nhận quyền trong suốt quá trình kinh doanh
như trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo, huấn luyện kỹ năng kinh doanh cho bên nhận
quyền.
Bốn là, nhượng quyền thương mại là hoạt động thường chứa đựng các yếu tố
dẫn đến hành vi hạn chế cạnh tranh
Các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn hướng tới lợi
nhuận thông qua hoạt động cạnh tranh. Chính vì vậy, trong bất kỳ hoạt động
thương mại nào cũng luôn tiềm ẩn xu thế này và hoạt động nhượng quyền thương
mại cũng không phải là ngoại lệ. Điều này được thể hiện ở chỗ, các bên trong hệ
thống nhượng quyền là các chủ thể độc lập nhau về mặt tư cách pháp lý và tài
chính, trong khi họ lại cùng kinh doanh một loại sản phẩm theo một phương thức

12


như nhau, dẫn tới họ cùng tiếp cận chung một đối tượng khách hàng. Như một quy
luật, để thu hút khách hàng về phía mình, các bên trong hệ thống nhượng quyền
sẽ tìm mọi cách cạnh tranh với nhau trên mọi phương diện (như: giá cả, chất
lượng, phương thức cung ứng dịch vụ, chế độ chăm sóc khách hàng…), khi đó
tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền thương mại có khả năng bị phá vỡ.
Chính vì vậy, nếu giữa các bên không có ràng buộc nhằm cấm hoặc hạn chế cạnh
tranh trong hệ thống thì đương nhiên hành vi cạnh tranh giữa các bên trong hệ
thống nhượng quyền sẽ tất yếu phát sinh và tính đồng bộ của hệ thống nhượng
quyền theo đó cũng không giữ vững được. Do nhận thức được khả năng và nhu
cầu cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền là tất yếu, khách quan
nên khi thiết lập quan hệ nhượng quyền, các bên thường có những hành vi nhằm
hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống. Để viện dẫn cho tính hợp lý của
các hành vi hạn chế cạnh tranh này, các bên thường vin vào lý do nhằm đảm bảo
tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền để lẩn tránh sự kiểm soát của
pháp luật cạnh tranh. Với sự tồn tại của cạnh tranh và hành vi hạn chế cạnh tranh

giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền diễn ra một cách phổ biến và khách
quan như trên, đặt ra nhu cầu điều tiết hành vi cạnh tranh của pháp luật nhằm đảm
bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong quan hệ nhượng quyền
thương mại.
1.1.3. Hành vi hạn chế cạnh tranh và yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại
Căn cứ Khoản 3, Điều 3, Luật Cạnh tranh 2004, hành vi hạn chế cạnh tranh
là "Hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”. Dưới góc độ kinh
tế, cạnh tranh là yếu tố tất yếu trong nền kinh tế thị trường, thúc đẩy các thương
nhân phải tìm mọi cách giành giật thị trường thông qua việc nỗ lực cung cấp các
sản phẩm tốt với giá cả phải chăng, với các nỗ lực không ngừng như vậy, nhiều
sản phẩm mới ra đời với chi phí thấp và giá cả có lợi cho người tiêu dùng, phúc

13


lợi xã hội vì vậy cũng tăng cao và nền kinh tế nhờ vậy sẽ có động lực để phát
triển. Chính vì vậy, về lý thuyết, một nền kinh tế không có cạnh tranh sẽ là nền
kinh tế “chết”, không phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tồn tại của cạnh tranh
là khách quan, chỉ có điều ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ cạnh tranh và
mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh tới nền kinh tế là khác nhau. Nhận thức rõ vai
trò của cạnh tranh như vậy, Luật Cạnh tranh các nước đều tăng cường bảo vệ cạnh
tranh thông qua việc kiểm soát các hành vi có khả năng làm giảm, sai lệch
hoặc triệt tiêu năng lực cạnh tranh của các thương nhân (hành vi hạn chế cạnh
tranh). Các hành vi này được chia thành hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Bên cạnh đó,
những hành vi cạnh tranh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (hành vi cạnh tranh
không lành mạnh) cũng được pháp luật cạnh tranh Việt Nam ghi nhận như là
những yếu tố xâm phạm đến môi trường cạnh tranh cần kiểm soát.
Hiện nay có rất nhiều tiêu chí để phân loại hành vi hạn chế cạnh tranh, tuy
nhiên, cách phân loại phổ biến hiện nay là dựa vào thái độ của nhà nước đối với
hành vi hạn chế cạnh tranh mà chia hành vi hạn chế cạnh tranh thành hai loại sau
đây:
(1) Hành vi hạn chế cạnh tranh hợp pháp: Đây là hành vi cạnh tranh của các
chủ thể kinh doanh nhằm mở rộng thị trường mà không xâm hại hoặc ít xâm hại
đến khả năng cạnh tranh, khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh
khác. Với bản chất như vậy, hành vi cạnh tranh loại này luôn được pháp luật
khuyến khích và bảo vệ, cho phép.
(2) Hành vi hạn chế cạnh tranh không hợp pháp: Là hành vi cạnh tranh của
các chủ thể kinh doanh nhằm mở rộng thị trường mà hậu quả của hành vi là xâm
hại nghiêm trọng hoặc có khả năng xâm hại nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh,
khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh khác, thông qua đó sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.

14


Về cơ bản, tất cả hành vi cạnh tranh đều bị pháp luật kiểm soát thông qua việc
vạch ra ranh giới để xác định một hành vi cạnh tranh là hợp pháp hay bất hợp pháp.
Vượt ra khỏi ranh giới đó, pháp luật sẽ ngăn cấm và có biện pháp xử lý thích hợp.
1.1.4. Các yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại
- Một là: Nhu cầu tối đa hóa lợi nhuận và mở rộng thị trường của các thương
nhân trong hệ thống nhượng quyền
Để mở rộng thị trường, hai yếu tố cơ bản sẽ được sử dụng chủ yếu để chi phối
sự lựa chọn của khách hàng, đó là yếu tố về giá và chất lượng sản phẩm. Theo đó,

nếu một sản phẩm có chất lượng tốt với giá cả phải chăng sẽ dễ dàng được khách
hàng chấp nhận. Ở cấp độ đơn giản, việc tạo dựng năng lực thị trường có thể xuất
phát từ việc tác động vào từng yếu tố (chất lượng tăng hoặc giá giảm), ở cấp độ cao
hơn, các thương nhân có thể vừa tăng chất lượng (bằng cách tạo ra sự khác biệt, tạo
ra nhiều tính năng, công dụng của sản phẩm…) vừa giảm giá thành sản phẩm để
tăng tính hấp dẫn đối với khách hàng.
Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, các bên nhượng quyền và nhận
quyền đều là những thương nhân độc lập, lại cùng kinh doanh một loại sản phẩm
theo cùng một phương thức như nhau, chính vì vậy khi mà sản phẩm là giống
nhau, nhu cầu chiếm lĩnh thị trường về phía mình lớn thì khả năng thực hiện các
hành vi cạnh tranh để giành lợi thế cạnh tranh, thu hút khách hàng về phía mình là
điều luôn luôn tồn tại trong ý thức của các bên trong hệ thống nhượng quyền. Tuy
nhiên, do kinh doanh cùng một sản phẩm theo một phương thức như nhau, việc
sáng tạo trong quá trình kinh doanh theo phương thức nhượng quyền là điều
không thể tồn tại trong hoạt động nhượng quyền, chính vì vậy, các hành vi
hạn chế cạnh tranh dưới dạng phân chia thị trường tiêu thụ thường xuất hiện như
một nhu cầu tất yếu trong hoạt động nhượng quyền. Có thể khẳng định, hành vi
cạnh tranh là hành vi tồn tại tất yếu, khách quan trong bất kỳ một quan hệ thương
mại nào, trong đó, nhượng quyền thương mại không phải là một ngoại lệ.
- Hai là: Yêu cầu đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền

15


Có thể khẳng định, nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại
tương đối đặc thù so với các hoạt động thương mại thông thường khác. Tính đặc
thù thể hiện ở chỗ mặc dù các bên là các thương nhân độc lập với nhau về mặt tư
cách pháp lý và tài chính, sở hữu các cơ sở kinh doanh khác nhau nhưng lại kinh
doanh cùng một sản phẩm như nhau, với việc cùng sử dụng tất cả các dấu hiệu
nhận biết thương nhân (tên thương mại, nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, khẩu hiệu

kinh doanh…). Vì lẽ này mà trong con mắt khách hàng, tất cả các cơ sở nhượng
quyền đều có cùng chung một chủ sở hữu với chất lượng, chính sách bán hàng
như nhau. Do vậy, nếu một bên trong hệ thống nhượng quyền cung cấp sản phẩm
kém chất lượng (so với yêu cầu của bên nhượng quyền) sẽ làm cho khách hàng
đánh giá sản phẩm của toàn bộ hệ thống nhượng quyền đó không tốt, làm ảnh
hưởng đến quyết định tiếp tục sử dụng sản phẩm trong tương lai của khách hàng.
Trong quan hệ nhượng quyền bên nhượng quyền thường có những hành vi
nhằm kiểm soát chất lượng và giá cả của các bên nhận quyền trong hệ thống, bởi
đây là hai yếu tố chủ yếu có khả năng làm chệch hướng tính đồng bộ của hệ thống
nhượng quyền. Theo đó, bên nhượng quyền thường buộc bên nhận quyền phải
chấp nhận những điều khoản nhất định khi giao kết hợp đồng, như: giới hạn về
địa điểm kinh doanh, hạn chế về giá, buộc bên nhận quyền phải mua các nguyên
vật liệu đầu vào từ bên nhượng quyền hay bên thứ ba được chỉ định… Xét trên
bình diện pháp luật hạn chế cạnh tranh thì những điều khoản này chính là những
điều khoản hạn chế cạnh tranh.
Hành vi hạn chế cạnh tranh ở một mức độ nhất định sẽ có khả năng triệt tiêu
cạnh tranh, đi ngược lại với quy luật chung của thị trường. Tuy nhiên, trong quan
hệ nhượng quyền thương mại, nếu không thừa nhận hành vi hạn chế cạnh tranh ở
một số trường hợp nhất định sẽ làm cho các bên không dám “dấn thân” vào một
quan hệ mà sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống luôn luôn “rình rập” bởi hành vi tự do
cạnh tranh của các bên có khả năng làm lệch chuẩn tính “đồng bộ” của hệ thống
nhượng quyền. Chính vì vậy, sự tồn tại của hành vi hạn chế cạnh tranh trong một
số trường hợp nhất định sẽ giúp cho các bên trong quan hệ nhượng quyền yên tâm

16


kinh doanh, kể cả các bên đang dự định kinh doanh theo phương thức nhượng
quyền cũng sẽ tự tin lựa chọn một phương thức kinh doanh đầy tiềm năng này.
- Ba là: Bản chất kinh tế của mối quan hệ

Bên trong hệ thống nhượng quyền tồn tại nhiều mối quan hệ khác nhau.
Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, sự xuất hiện của cạnh tranh giữa các
bên trong hệ thống (giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền, giữa các bên
nhận quyền với nhau) là tất yếu, khách quan. Mặc dù, nhìn bề ngoài ở cấp độ hệ
thống nhượng quyền, khi mà các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại
cùng kinh doanh theo một phương thức duy nhất, sản phẩm, chất lượng đồng bộ
nhau, thậm chí giá cả tương đồng nhau thì họ không phải là đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên, ở khía cạnh bản chất, trong nội bộ hệ thống, họ là các thương nhân độc
lập về mặt tài chính và pháp lý, các bên trong hệ thống nhượng quyền đều mong
muốn tăng cường lợi nhuận, đặc biệt khi kinh doanh cùng một sản phẩm, họ lại
càng có cùng đối tượng khách hàng như nhau, nếu khách hàng sử dụng sản phẩm
của một bên thì các bên còn lại trong hệ thống sẽ không còn cơ hội cung ứng
được sản phẩm cho khách hàng đó nữa. Chính vì vậy, ở khía cạnh nhất định, họ đều
là đối thủ cạnh tranh của nhau. Bên cạnh đó, khi mà tính đồng bộ xuyên suốt trong
toàn bộ hệ thống nhượng quyền, thì nhu cầu tất yếu xuất hiện trong ý chí của các
bên là, không một hành vi cạnh tranh nào được cho phép trong quan hệ nhượng
quyền. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cạnh tranh về bản chất tồn tại trong nội tại
giữa các bên. Chính vì vậy, để đạt được tính đồng bộ của hệ thống, các bên trong
quan hệ nhượng quyền phải cùng nhau cam kết không cạnh tranh trong hệ thống
dưới dạng những thỏa thuận liên quan đến giá bán sản phẩm mà hệ thống nhượng
quyền cung ứng, thỏa thuận về nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho bên nhận
quyền , thỏa thuận độc quyền lãnh thổ…. Như vậy, trước khi đạt đến tính đồng
bộ, các bên đã phải có những thỏa thuận, ràng buộc mang tính chất hạn chế cạnh
tranh.
Có thể khẳng định, xu hướng hạn chế cạnh tranh là hiện tượng tồn tại trong
tất cả các hoạt động thương mại, kể cả quan hệ nhượng quyền và cần phải được
điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, với bản chất của quan hệ nhượng

17



quyền thương mại như đã phân tích trên, việc điều tiết của nhà nước cần phải có
những đặc thù nhất định.
1.1.5. Nhận diện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền
thương mại
Cạnh tranh là hành vi của các đối thủ cùng kinh doanh các sản phẩm có khả
năng thay thế được cho nhau và có cùng chung một nhóm đối tượng khách hàng
trong một khu vực địa lý nhất định. Trong một thị trường với số lượng khách hàng
ổn định (cầu) các nhà sản xuất, cung ứng (cung) luôn tìm cách thực hiện những
hành vi nhằm thu hút khách hàng về phía mình, thông qua đó, nâng cao thị phần
và khả năng ảnh hưởng tới thị trường. Để có thể thu được nhiều lợi nhuận, các đối
thủ cạnh tranh thường lựa chọn một trong hai cách:
- Cạnh tranh lành mạnh theo kiểu truyền thống (nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm giá thành…). Nhóm này được pháp luật khuyến khích và bảo hộ.
- Thực hiện những hành vi phản cạnh tranh (làm cho cạnh tranh không còn
tồn tại hoặc giảm bớt cạnh tranh), đẩy bất lợi về phía xã hội, người tiêu dùng và
tối đa hóa lợi nhuận về phía các nhà cung cấp bằng cách thỏa thuận không cạnh
tranh giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm làm cho người tiêu dùng không có cơ hội
lựa chọn, so sánh về giá, chất lượng hoặc ngăn cản, kìm hãm các đối thủ cạnh
tranh khác, ép buộc các chủ thể khác phải tham gia giao dịch…Nhóm này thường
có sự kiểm soát chặt chẽ, theo đó, những hành vi có dấu hiệu triệt tiêu, hạn chế,
bóp méo cạnh tranh nếu gây hoặc có khả năng gây ra ảnh hưởng tiêu cực nghiêm
trọng đến thị trường đều bị pháp luật ngăn cấm, trường hợp hành vi cạnh tranh đó
nếu có những lợi ích khác bù lại thì có thể được xem xét cho hưởng miễn trừ.
Để xác định khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng của nhóm hành vi thứ hai,
pháp luật Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới thường dựa vào một trong
hai yếu tố (thị phần/thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của chủ thể thực
hiện hành vi hoặc khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng của hành vi đến thị trường)
để quyết định cho phép hay ngăn cấm các hành vi phản cạnh tranh nêu trên. Ở
một chừng mực nhất định, nhóm hành vi thứ hai (mà cụ thể là hành vi hạn chế

cạnh tranh) cũng có những lợi ích nhất định cho nền kinh tế như giúp các chủ thể

18


kinh doanh có quy mô và thị phần nhỏ có thể phối hợp với nhau để nâng cao năng
lực cạnh tranh trên thị trường trước những đối thủ cạnh tranh lớn, thông qua đó
thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường tốt hơn. Ở khía cạnh kinh tế, sự kết hợp cùng
hành động giữa các doanh nghiệp góp phần tạo ra sức mạnh kinh doanh và sức
cạnh tranh tập thể cho các thành viên của thỏa thuận. Sức mạnh đó đặc biệt có ý
nghĩa đối với các doanh nghiệp nhỏ trong môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở
đó các doanh nghiệp nhỏ luôn ở vào vị trí bất lợi, làm ăn khó khăn, thậm chí bị
phá sản, là nguyên nhân hình thành các thế lực độc quyền của thị trường. Chẳng
hạn, trong bức tranh tổng thể của thị trường nếu có nhiều đối thủ cạnh tranh, trong
đó có một đối thủ cạnh tranh đạt tới ngưỡng trên 70% thị phần thì khả năng cạnh
tranh của các đối thủ cạnh tranh nhỏ trước doanh nghiệp có thị phần lớn là rất
khó. Trong trường hợp này, việc các doanh nghiệp nhỏ liên kết lại với nhau bằng
cách hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhỏ để cùng nâng cao sức cạnh
tranh trước doanh nghiệp lớn lại có tác động thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ hơn
trên thị trường. Trong trường hợp này, mặc dù có hiện tượng hạn chế cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp nhỏ những lại tạo ra động lực cạnh tranh lớn hơn trong
tổng thể thị trường thì pháp luật cạnh tranh của hầu hết các quốc gia đều không
ngăn cấm.
Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, có hai nguyên nhân khiến cho
hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền thương mại
xuất hiện:
Một là, với bản chất của thương nhân luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, các bên trong hoạt động nhượng quyền giống như các chủ thể kinh doanh
thông thường khác thường thực hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo đó,
thay vì thực hiện những hành vi cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá

thành sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh lại phối hợp với nhau để đẩy thị trường
vào trạng thái không cạnh tranh với nhau nhằm bóc lột khách hàng và triệt tiêu
động lực phát triển cho nền kinh tế bằng cách thỏa thuận về giá sản phẩm, phân
chia thị trường tiêu thụ, hạn chế sản xuất kinh doanh…. Trong trường hợp này,
hành vi hạn chế cạnh tranh của các bên trong hệ thống nhượng quyền chỉ có

19


một mục tiêu duy nhất là nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà không có lý do chính
đáng, đẩy bất lợi về phía người tiêu dùng.
Hai là, với bản chất của phương thức kinh doanh luôn hướng tới và đảm bảo
tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Nếu các chủ thể kinh doanh trong hệ
thống thực hiện hành vi cạnh tranh riêng lẻ theo cách truyền thống (như thực hiện
các hành vi nhằm tác động vào giá và chất lượng sản phẩm để thu hút người tiêu
dùng) thì tính đồng bộ trong kinh doanh theo phương thức nhượng quyền trong
toàn bộ hệ thống có khả năng không được đảm bảo. Chẳng hạn, để thu hút
khách hàng, các bên trong hệ thống nhượng quyền có thể thay đổi một số chính
sách về sản phẩm cũng như chính sách đối với khách hàng, lúc này bản chất của
hoạt động nhượng quyền thương mại (là kinh doanh theo cách thức của bên
nhượng quyền không được đảm bảo) hoặc vì lý do chạy theo lợi nhuận, các bên
trong hệ thống có thể giảm bớt một số yếu tố trong đầu tư, tìm nguồn hàng giá rẻ
với chất lượng không tốt, tăng/giảm giá thành sản phẩm không theo chính sách giá
của bên nhượng quyền… Tất cả những hành vi này đều dẫn đến sự khác biệt trong
kinh doanh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền, lúc này, hoạt động kinh
doanh này không còn bản chất của phương thức kinh doanh nhượng quyền nữa
(không còn là phương thức nhân rộng mô hình kinh doanh). Chính vì vậy, để đảm
bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền, các bên trong hệ thống
không còn cách nào khác hữu hiệu hơn là kiểm soát lẫn nhau hoặc không cho tồn
tại những hành vi cạnh tranh có khả năng làm mất đi đến tính đồng bộ của hệ thống

nhượng quyền như chỉ định nguồn cung cấp hàng hóa/nguyên liệu cho bên nhận
quyền , thỏa thuận phân chia lãnh thổ, áp đặt giá bán…
Như vậy, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, quan điểm về kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh đứng trước mâu thuẫn lớn: Nếu kiểm soát theo đúng
nguyên tắc chung của cạnh tranh đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm
mục đích đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống, hoạt động nhượng quyền
thương mại sẽ khó có thể tồn tại và phát triển do không thể duy trì được bản chất
kinh doanh theo một cách thức duy nhất của hoạt động nhượng quyền. Chính vì
vậy, hệ thống pháp luật cũng cần phải tính đến những ngoại lệ hợp lý nhằm ghi

20


×