Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn tại tòa án nhân dân thành phố hạ long, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 79 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong nước và
quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, các quan hệ kinh doanh, thương mại
được hình thành ngày càng phong phú và đa dạng, kéo theo sự gia tăng về số lượng
cũng như tính chất phức tạp của các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nhà nước
luôn khuyến khích các chủ thể có mâu thuẫn tự giải quyết tranh chấp với nhau bằng
thương lượng, hòa giải và trọng tài, việc giải quyết tại Tòa án chỉ là giải pháp cuối
cùng. Nhưng nhiều trường hợp, chính việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án mới đảm
bảo được tối đa quyền lợi cho các bên, bởi chỉ Tòa án mới có các công cụ bảo đảm
cho các bên thực hiện nghĩa vụ của mình thông qua các biện pháp cưỡng chế thi hành
các phán quyết của Tòa án.
Để đáp ứng yêu cầu đó ngày 15/06/2004 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã được Quốc hội thông qua và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2005, đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã phân định
rõ thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh
thương mại, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án thực hiện quyền xét xử để giải quyết các
tranh chấp kinh doanh thương mại một cách nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, trải
qua mười năm thi hành với một lần sửa đổi, bên cạnh những thành tựu đạt được, các
quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã bộc lộ nhiều vướng mắc và hạn
chế. Điều đó làm cho hoạt động xét xử của Tòa án gặp nhiều khó khăn. Trước yêu
cầu cần phải đổi mới và phù hợp với hội nhập quốc tế đang diễn ra, Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư
pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 48 - NQ/TW; Nghị quyết số 49 - NQ/TW; Kết luận
số 79 - KL/TW; Kết luận số 92 - KL/TW của Bộ chính trị và văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ XI; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ,
công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; thực hiện mô hình tố
1



tụng “xét hỏi kết hợp với tranh tụng” xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; thực hiện tốt việc tranh tụng
xem đó là khâu đột phá của hoạt động xét xử; tạo điều kiện cho các đương sự chủ
động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; hoàn thiện thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với
những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định; khuyến khích việc giải quyết một số
tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài, Tòa án hỗ trợ bằng quyết
định công nhận việc giải quyết đó.
Bởi vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định
của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa
án có ý nghĩa quan trọng và thiết thực, góp phần đề xuất những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn tại Toà án nhân dân. Xuất phát từ những lý do trên,
tôi đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
từ thực tiễn tại Toà án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” cho luận
văn cao học chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân dân là đề tài
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2004 ra đời đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài này,
như: Luận văn thạc sĩ luật học năm 2002: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh bằng con đường Tòa án tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh;
luận án tiến sĩ luật học năm 2003: “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Đào Văn Hội... Sau khi BLTTDS năm
2004 ra đời, đề tài tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, như tác
giả Bùi Nguyễn Phương Lê với đề tài khóa luận tốt nghiệp năm 2005: “Thẩm quyền
giải quyết tranh chấp kinh doanh của Toà án theo BLTTDS - Những điểm mới và
các vấn đề đặt ra cho thực tiễn thi hành”, Thạc sĩ Trần Đình Khánh với bài viết
2



“Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh thương mại và lao động theo
BLTTDS năm 2004” trên Tạp chí kiểm sát số 01/2005, tác giả Vũ Thị Hồng Vân
với bài nghiên cứu “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của
Tòa án theo BLTTDS 2004” trên tạp chí Luật học số 04/2008... Nhìn chung, các
công trình đã đề cập, nghiên cứu những vấn đề khái quát của loại hình tài phán Toà
án kinh tế ở Việt Nam. Mặc dù các công trình này cũng đã đề cập đến thủ tục tố
tụng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại khá chi tiết và đầy đủ, tuy nhiên
do có khoảng cách nhất định về thời gian nghiên cứu nên không tránh khỏi những
hạn chế, chưa đánh giá một cách kịp thời đối với thực trạng giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Toà án hiện nay. Hơn nữa, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam là thành viên của WTO,
khi tiến hành sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2004 (có hiệu lực từ tháng 01/2012),
sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại (2005)…thì hầu như chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn mới
đang đặt ra cần giải quyết. Đặc biệt, nghiên cứu về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Toà án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh – nơi
có điều kiện kinh tế, xã hội tương đối phát triển chưa được quan tâm thoả đáng.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của việc nghiên cứu đề tài là một số vấn đề lý luận về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân dân mà cụ thể là thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại như khái niệm,
ý nghĩa, cơ sở phân định thẩm quyền và một số yêu cầu trong hoàn thiện pháp luật,
đảm bảo thực thi quy định của pháp luật về thẩm quyền dân sự của Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Đồng thời, luận văn cũng phân
tích, đối chiếu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án với thực tiễn để từ đó đề
xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các quy định và việc áp dụng pháp
luật trong thực tế.
3



4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các nội dung liên quan đến giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
hiện hành là trọng tâm. Mặc dù tham gia vào giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại bao gồm cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức (trình tự, thủ tục),
trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tập trung vào quy định về trình
tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại để nghiên cứu và đề xuất
hoàn thiện pháp lý.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu được triển khai dựa trên cở sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm
của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng
thời, các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, diễn giải, quy nạp... cũng được áp dụng để giải
quyết các vấn đề được đề cập trong đề tài.
6. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân dân như thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại; từ đó phân
tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành và thực tiễn áp
dụng các quy định này tại Tòa án để tìm ra giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật tố tụng dân sự về giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại tại Toà
án nhân dân.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Với mong muốn đóng góp ít nhiều về mặt lý luận và thực tiễn trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn thành phố Hạ Long, luận văn
đã có những đóng góp cho khoa học pháp lý như sau:
4



Thứ nhất: Làm rõ được những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh doanh,
thương mại và bước đầu nêu được cơ sở của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại ở Việt Nam.
Thứ hai: Hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bao gồm luật nội dung và luật hình thức (tố tụng), trong đó luật hình thức (tố tụng)
được bổ sung, phân tích những quy định mới, những vấn đề pháp lý đang được
quan tâm trong giới nghiên cứu khoa học luật và nhà hoạt động thực tiễn.
Thứ ba: Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên phân tích và chỉ ra thực
trạng tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại trên địa bàn thành phố Hạ Long – địa phương có tình hình kinh tế đặc
thù, để tìm ra các nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ tư: Luận văn đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên cơ sở những nhu cầu thực tế đòi
hỏi trong tình hình mới hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Toà án nhân dân
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân dân
Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà
án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và một số kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân
dân.

5



Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Trong khoa học pháp lý, các khái niệm như: tranh chấp kinh tế, tranh chấp
thương mại hay tranh chấp kinh doanh, thương mại thường được đề cập với nội
hàm rộng, hẹp khác nhau. Nhìn chung, các khái niệm này đều được hiểu là những
xung đột, bất đồng về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ
thương mại.
Ở góc độ ngôn ngữ, “kinh doanh” là tổ chức, sản xuất, buôn bán sao cho sinh
lời; “kinh tế” là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định; “thương mại” là thực hiện lưu thông hàng hoá bằng mua bán.
Theo cách tiếp cận này, nội hàm tranh chấp kinh tế rộng hơn, bao gồm cả
tranh chấp kinh doanh, thương mại; gồm các tranh chấp phát sinh trong các khoản
đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi hoặc tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp
nhận đầu tư, tranh chấp giữa quốc gia trong việc thực hiện điều ước quốc tế về
thương mại song phương và đa phương…
Ở góc độ pháp lý, hiện nay phần lớn các quan điểm đồng nhất “tranh chấp
kinh tế” với “tranh chấp kinh doanh, thương mại”. Cụ thể:
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Uỷ ban Luật Thương
mại quốc tế (UNCITRAL) đưa ra khái niệm “thương mại” với nội hàm rất rộng,
liên quan đến tất cả các quan hệ mang bản chất thương mại. Chính vì vậy, tranh

6



chấp thương mại cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các tranh chấp
phát sinh từ các giao dịch thương mại.
Quan niệm về tranh chấp kinh tế ở Việt Nam cũng có sự khác biệt qua mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội:
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung – nền kinh tế được quản lý bằng
mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, hợp đồng kinh tế thời kỳ này không chỉ là một
hình thức pháp lý để triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế mà còn được sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước. Do
vậy, ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế có tính chất bắt buộc chứ không hoàn
toàn xuất phát từ lợi ích kinh tế của các bên tham gia hợp đồng. Cũng chính vì vậy,
trách nhiệm thực hiện hợp đồng giữa các bên tham gia quan hệ với nhau bị coi nhẹ
hơn so với trách nhiệm của các bên đối với cơ quan quản lý và trách nhiệm phát
sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế được đánh giá “nhẹ” về yếu tố vật chất mà
“nặng” về tính chất hành chính. Có thể thấy, trong giai đoạn này, quan hệ kinh tế
với tính chất đơn giản về nội dung và thành phần chủ thể, được điều chỉnh bởi kinh
tế Nhà nước nên các tranh chấp kinh tế phát sinh không nhiều và chủ yếu là các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các đơn vị kinh tế với
nhau để triển khai kế hoạch kinh doanh đã được Nhà nước phê duyệt từ trước. Các
tranh chấp nếu phát sinh cũng không thể hiện rõ bản chất của tranh chấp kinh
doanh, thương mại vốn được coi là tranh chấp phát sinh do xung đột lợi ích của các
bên và việc giải quyết tranh chấp cũng không xuất phát từ quyền lợi thiết thực của
các bên mà chủ yếu vì sự ổn định, hài hoà chung cho cả nền kinh tế.
Trong quá trình đổi mới, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế thế giới
với việc nước ta trở thành thành viên thứ 150 của WTO năm 2007. Từ đó, ngày
càng xuất hiện nhiều hơn các chủ thể kinh doanh, bên cạnh doanh nghiệp Nhà nước
và hợp tác xã, các loại hình công ty và hộ kinh doanh cá thể. Các quan hệ kinh tế
xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức phong phú và tính chất phức tạp. Trong
7



hoàn cảnh đó, Nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, để các
quan hệ kinh tế được xây dựng và thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do, bình đẳng,
cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Trong giai
đoạn này, kinh doanh đúng pháp luật để đạt lợi nhuận tối đa là mục tiêu của các
doanh nghiệp. Môi trường đó phát sinh ngày càng nhiều các tranh chấp liên quan
đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế,
đồng thời cũng đặt ra nhu cầu cần phải nghiên cứu, mở rộng nội hàm của khái niệm
tranh chấp kinh tế.
Luật Thương mại (2005) không đưa ra khái niệm về tranh chấp kinh doanh,
thương mại mà đưa ra khái niệm hoạt động thương mại là “nhằm mục đích sinh lợi,
bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Khoản 1 Điều 3). Theo đó, quan niệm về
hoạt động thương mại cũng đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích
sinh lợi. Với hướng tiếp cận này, Luật Thương mại (2005) đã cho thấy, khái niệm
về hoạt động thương mại đã được mở rộng tương đồng với khái niệm kinh doanh
trong Luật Doanh nghiệp (2005) tại Khoản 2 Điều 4 nay là Khoản 16 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp (2014): “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 thì tranh chấp
kinh doanh, thương mại được hiểu là những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh,
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục
đích lợi nhuận.
Một cách khái quát, cũng có thể hiểu rằng tranh chấp kinh doanh thương mại
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, thực chất là tranh chấp kinh tế đã được
mở rộng nội hàm cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế. Nội dung của tranh chấp kinh doanh, thương mại thực chất là những
tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại (2005).
8



Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: “Tranh chấp kinh doanh, thương
mại là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh
doanh liên quan đến lợi ích kinh tế trong quá trình hoạt động kinh doanh, thương
mại”.
Mặt khác, tranh chấp trong kinh doanh còn được hiểu là sự bất đồng về một
hiện tượng pháp lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh
doanh và thông thường gắn liền với các yếu tố lợi ích về mặt tài sản. Do đó có thể
khái quát những đặc điểm tranh chấp trong kinh doanh như sau:
- Nó luôn gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các chủ thể.
- Các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh thường là các doanh nghiệp.
- Nó là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những xung đột về
mặt lợi ích kinh tế của các bên.
1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Từ những phân tích trên thì giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại nói
chung bao gồm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài và giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại, không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng
được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài
hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn
tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án là hình thức giải
quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực
Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên phải chấp hành, bằng sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước.
1.1.3. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại
9



Việc phân định tranh chấp kinh doanh, thương mại hay tranh chấp thuộc các
ngành luật khác như tranh chấp dân sự, tranh chấp trong quan hệ quốc tế…phụ
thuộc vào tính chất của mối quan hệ pháp luật; chủ thể của các mối quan hệ đó cũng
như lợi ích của mối quan hệ đó mạng lại. Tranh chấp kinh doanh, thương mại có các
đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về nội dung: Là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh, thương mại như: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện,
đại lý, ký gửi, thuê và cho thuê, thuê mua, xây dựng ...
Thứ hai, về chủ thể: Các bên tranh chấp có đăng ký kinh doanh, chủ thể
trong tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu là các thương nhân. Trong một số
trường hợp chủ thể của tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể là các cá nhân, tổ
chức không phải là thương nhân. Ví dụ: tranh chấp giữa công ty và thành viên của
công ty là tranh chấp giữa một bên chủ thể là thương nhân (công ty) và một bên là
cá nhân không phải là thương nhân (thành viên công ty).
Thứ ba, về cách thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại: Do các
bên tranh chấp tự định đoạt – Điều này thể hiện ở các bên trong tranh chấp có nhiều
hơn một cách để giải quyết tranh chấp như: Hoà giải, thương lượng, trọng tài, toà
án. Việc chọn phương pháp giải quyết nào là quyền của các bên nhưng vẫn trên cơ
sở tôn trọng lợi ích của nhau và lợi ích của Nhà nước.
Thứ tư, về tính chất: Tranh chấp kinh doanh, thương mại mang tính tài sản.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp mang yếu tố vật chất và thường
có giá trị lớn. Các tranh chấp này đều chủ yếu liên quan đến những lợi ích vật chất
có ảnh hưởng lớn và liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên. Mức độ tranh chấp
thường gay gắt, tính chất phức tạp, do đó các tranh chấp kinh doanh, thương mại
nếu không được giải quyết thì không những để lại hậu quả xấu cho các bên tranh
chấp mà còn ảnh hưởng đến các chủ thể khác, thậm chí ảnh hưởng đến nền kinh tế
của đất nước.
1.1.4. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
10



Hiện nay, các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
thường được áp dụng đó là:
1.1.4.1. Thương lượng
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò của
người thứ ba ngoài các bên tranh chấp. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp có
đặc điểm cơ bản đó là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, tìm ra các biện pháp
thích hợp, trên cơ sở đó đi đến thống nhất để giải quyết các bất đồng. Thương lượng
là biện pháp khá phổ biến và thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp, với
những ưu điểm như: Tính chất đơn giản, ít tốn kém, không làm phương hại đến các
quan hệ hợp tác vốn có của các bên, giữ được bí mật kinh doanh lại không bị ràng
buộc bởi các thủ tục pháp lý.
Phương pháp này đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực và hợp tác;
phải có những kiến thức cần thiết về pháp luật. Đối với các vụ việc phức tạp, mỗi
bên có thể chỉ định những chuyên gia có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề
nghiệp thay mặt mình để tiến hành thương lượng. Kết quả của thương lượng thường
là những cam kết, thoả thuận về những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những bất
đồng phát sinh trước đó.
Tuy nhiên, hình thức thương lượng có một số hạn chế như: Khó thực hiện
nếu các bên đã mâu thuẫn căng thẳng trong các vấn đề tranh chấp và không có thiện
chí với nhau. Giá trị pháp lý của biên bản thương lượng chưa được quy định cụ thể
và không có tính bắt buộc cưỡng chế thi hành, mà nó phụ thuộc vào ý thức của các
chủ thể tham gia thương lượng.
1.1.4.2. Hoà giải
Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có sự
tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định, đóng vai
trò trung gian nhằm hỗ trợ các bên tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải
quyết xung đột. Nếu hoà giải thành công sẽ đạt được giải pháp là tự thoả thuận giữa
11



các bên để giải quyết tranh chấp. So với hình thức giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng, hoà giải có điểm khác là sự có mặt của bên thứ ba với tư cách là
người trung gian để giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp. Giống như thương lượng, hoà
giải là một biện pháp mang tính truyền thống không phải chỉ mới xuất hiện trong
giai đoạn hiện nay mà được hình thành từ rất lâu. Mặc dù hoà giải cũng là biện pháp
mang tính hiệu quả và được nhà kinh doanh ưa chuộng để giải quyết tranh chấp
nhưng hạn chế là quá trình hoà giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối
bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hoà giải. Kết
quả hoà giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của
các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những
cam kết của các bên trong quá trình hoà giải.
1.1.4.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài
Có thể thấy, đây là phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến và được
nhiều nước trên thế giới áp dụng. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình
thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng
được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài
hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn
tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành.
Ưu điểm của phương thức này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho
các bên; nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng
tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét
xử không công khai hoặc xử kín. Theo nguyên tắc này các bên có thể giữ được bí
mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Giải quyết tranh chấp tại trọng
tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm
trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính
chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng, hoà giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên không có
quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay Toà án nào.

12


Tuy nhiên, phương thức giải quyết tranh chấp này vẫn có những hạn chế nhất
định như chi phí tương đối cao, đối với vụ việc càng kéo dài thì phí trọng tài càng
cao. Việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi
như việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
1.1.4.4. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Toà án
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án là hình thức giải
quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực
Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên phải chấp hành, bằng sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước.
Việc giải quyết tranh chấp của Toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng, bên cạnh đó tuân thủ các nguyên tắc
xét xử cũng là một trong những điểm đặc thù của hoạt động giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại để nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ
nền kinh tế. Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phải tuân thủ những
nguyên tắc đặc trưng riêng như: Nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương
sự; Nguyên tắc hoà giải; Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh; Nguyên tắc
giải quyết nhanh chóng, kịp thời; Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người tiến
hành tố tụng. Bên cạnh đó, còn một số nguyên tắc chung thể hiện tính dân chủ và
pháp chế xã hội chủ nghĩa như: Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ;
Nguyên tắc xét xử công khai; Nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng; Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật…
Để thể chế hóa tinh thần cải cách tư pháp về việc khuyến khích việc giải
quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ
bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó. Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2015 quy định cơ chế, phương thức để yêu cầu công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án nhằm giảm số lượng vụ tranh chấp phải giải quyết tại Tòa án và

nhanh chóng hàn gắn mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân, cụ thể như sau:
13


Thứ nhất, về kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra
quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức,
cá nhân do cơ quan, tổ chức người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải
thành theo quy định của pháp luật về hòa giải (như kết quả hòa giải theo quy định
của Luật hòa giải cơ sở, Luật thương mại, Luật đất đai, Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng …).
Thứ hai, việc xem xét công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án do một
Thẩm phán giải quyết.
Thứ ba, điều kiện để được Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án là các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;
các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung
thỏa thuận hòa giải. Trường hợp liên quan đến người thứ ba thì phải được người thứ
ba đồng ý; một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận; nội dung thỏa
thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước
hoặc người thứ ba.
Thứ tư, quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành
ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Kết quả hòa giải ngoài Tòa án được Tòa án ra
quyết định công nhận sẽ được cơ quan Thi hành án dân sự thi hành theo pháp luật
về thi hành án dân sự.
1.2. Khái niệm, ý nghĩa về thẩm quyền dân sự của Toà án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.2.1. Khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại


14


Trong hệ thống các cơ quan nhà nước tại Việt Nam, Tòa án là cơ quan thực
hiện quyền tư pháp với chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và
các việc khác theo quy định của pháp luật. Đối với quan hệ kinh doanh, thương mại
– một lĩnh vực luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra mâu thuẫn – việc quy định thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của Tòa án trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết nhằm bảo
đảm công bằng trong kinh doanh và ổn định sự phát triển của nền kinh tế. Do đó
việc nghiên cứu để đưa ra khái niệm khoa học về thẩm quyền của Tòa án, có ý
nghĩa thiết thực trong việc xây dựng và thực hiện các quy định về thẩm quyền dân
sự của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Để tìm hiểu
khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại, trước tiên cần tìm hiểu hai khái niệm “thẩm quyền dân sự của
Tòa án” và “tranh chấp kinh doanh, thương mại”.


Khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án
Dưới góc độ ngôn ngữ, trong Từ điển tiếng Việt, thẩm quyền được giải thích

là quyền được xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo quy định của pháp
luật [26, tr.922]. Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa thẩm quyền là tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ hành động của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà
nước do pháp luật quy định [25, tr.459]. Với cách tiếp cận này, thẩm quyền được
nhìn nhận là một quyền năng chứa đựng yếu tố quyền lực nhà nước, có nghĩa chỉ cơ
quan nhà nước mới được giao và thực hiện quyền lực đó. Ở một số nước trên thế
giới, thuật ngữ này cũng được sử dụng với ý nghĩa tương tự. Chẳng hạn, theo từ
điển Luật học của Mỹ, thẩm quyền được hiểu là khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ
quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật; hoặc từ điển Luật

học của Pháp cũng đưa ra định nghĩa thẩm quyền là khả năng mà pháp luật trao cho
cơ quan công quyền hoặc cơ quan tài phán thực hiện công việc nhất định hoặc
thẩm cứu và xét xử một vụ kiện [29, tr.58].

15


Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định theo một trình tự, thủ tục nhất định [27, tr.119].
Từ các cách định nghĩa trên, có thể thấy, khái niệm “thẩm quyền”, với ý
nghĩa chung nhất, bao hàm hai nội dung: Một là quyền xem xét, giải quyết các vụ
việc trong phạm vi pháp luật cho phép và hai là quyền hạn trong việc ra các quyết
định khi giải quyết vụ việc. Hai nội dung này có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo
thành thẩm quyền của Tòa án.
Thẩm quyền của Tòa án là quyền năng của Tòa án trong việc xem xét giải
quyết các vụ án hình sự, hành chính và vụ việc dân sự theo nghĩa rộng (bao gồm các
vụ việc trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động) và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết các vụ việc đó. Khái
niệm này cũng được pháp luật đề cập trong mối liên hệ với nhiệm vụ, chức năng
của Tòa án tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014 và Mục 1 chương III Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Là một khái niệm cụ thể, khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án vừa có
những nội dung tương tự như thẩm quyền chung của Tòa án, vừa có những điểm
khác biệt. Cụ thể, thẩm quyền dân sự của Tòa án cũng là quyền xem xét, giải quyết
và quyền ra các bản án, quyết định để kết luận về các vụ việc phát sinh trong đời
sống xã hội, tuy nhiên phạm vi vụ việc chỉ được giới hạn trong các vụ việc dân sự
(theo nghĩa rộng) và thủ tục được tiến hành là thủ tục tố tụng dân sự. Khái niệm về
thẩm quyền của Tòa án được tiếp cận dưới các góc độ là thẩm quyền theo loại việc,
thẩm quyền của Tòa án các cấp, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và thẩm

quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn.


Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Về nguyên tắc, Tòa án có thẩm quyền giải quyết nhiều loại tranh chấp khác

nhau, trong đó bao gồm cả tranh chấp kinh doanh, thương mại. Tranh chấp kinh
doanh, thương mại là sự xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh doanh
16


trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh, thương mại. Trong đó, hoạt
động kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư nhằm mục đích sinh lợi; còn hoạt động thương mại bao gồm
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi theo quy định của pháp luật như mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại... Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng, hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng
kí kinh doanh mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ cho hoạt động
thương mại đó [11].


Khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp

kinh doanh, thương mại
Thông qua những phân tích về nội hàm của các khái niệm “thẩm quyền dân
sự của Tòa án” và “tranh chấp kinh doanh, thương mại, ta có thể đưa ra định nghĩa
về thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại như sau:
Thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại là quyền của Tòa án trong việc xem xét, giải quyết các tranh chấp phát

sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
trong quan hệ kinh doanh, thương mại và quyền ra các quyết định khi xét xử, giải
quyết các tranh chấp đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án.
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Thứ nhất, quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại của Tòa án là cơ sở pháp lý để Tòa án thụ lý, giải quyết các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại một cách đúng thẩm quyền. Khi đương sự yêu cầu Tòa án giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, trước hết Tòa án phải xem xét loại việc
xảy ra tranh chấp có phải là loại việc về kinh doanh, thương mại hay không để từ
đó có sự phân định thẩm quyền giữa Tòa án với các cơ quan tài phán khác (Trọng
tài) và với cơ quan hành chính. Nếu xác định tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của
17


mình thì Tòa án phải tiếp tục xác định Tòa án cấp nào sẽ có thẩm quyền xét xử.
Sau đó, Tòa án cần xác định Tòa án tại khu vực nào trong số những Tòa án cùng
cấp sẽ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tranh chấp kinh doanh, thương mại đó. Do
vậy, để Tòa án xác định được đúng thẩm quyền của mình, tránh chồng chéo với
các cơ quan chuyên môn khác, việc quy định thẩm quyền dân sự của Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là điều hết sức cần thiết.
Thứ hai, việc quy định thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại giúp phân định thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại một cách hợp lý và khoa
học. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện về cơ sở
vật chất, về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết và các điều kiện khác trong công tác
giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại của đội ngũ cán bộ ở mỗi Tòa
án, trên cơ sở đó ngành Tòa án kịp thời có kế hoạch đáp ứng, góp phần bảo đảm cho
Tòa án thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương

mại của Tòa án là cơ sở pháp lý để các đương sự thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi các tổ chức, cá nhân trong
quan hệ kinh doanh, thương mại thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm hại mà
không tự giải quyết được, những quy định này sẽ là căn cứ giúp họ biết tranh chấp
đó có được giải quyết tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự hay không, giải quyết
tranh chấp đó tại Tòa án cấp nào và tại địa phương nào, từ đó xác định được Tòa án
có thẩm quyền để gửi đơn khởi kiện hoặc lựa chọn Tòa án thuận lợi nhất cho mình
trong việc tham gia tố tụng.
1.3. Cơ sở phân định thẩm quyền dân sự của Toà án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
Mục đích của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền dân sự của Tòa án,
đặc biệt là thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án là
nhằm bảo đảm cho Tòa án có quyền được xem xét, giải quyết các tranh chấp về
18


kinh doanh, thương mại và tạo điều kiện để các bên tranh chấp trong quan hệ kinh
doanh, thương mại có khả năng để thực hiện quyền khởi kiện của mình. Để đạt
được những mục đích đó, việc xây dựng các quy định về thẩm quyền dân sự của
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được căn cứ vào
những cơ sở sau:
1.3.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động tư
pháp
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo chính quyền và
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Hoạt động của bộ máy Nhà nước đều phải
dựa trên Hiến pháp, pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm vừa
qua, Đảng đã có nhiều chủ trương, đường lối về cải cách hoạt động tư pháp. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, ngành Tòa án không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử và đang nỗ lực phấn đấu cho công cuộc cải cách tư
pháp hiện nay.

Liên quan đến vấn đề phân định thẩm quyền của Tòa án, Nghị quyết số
08/NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặt ra nhiệm vụ cho công tác tư pháp trong
thời gian tới là “chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho
toà án cấp huyện”. Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” một lần nữa đặt ra nhiệm vụ cải cách
tư pháp là “cần nhanh chóng hoàn thành việc tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án
cấp huyện, chuẩn bị điều kiện thành lập Tòa án khu vực ở cấp này; từng bước đổi
mới tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân các cấp”. Việc mở rộng thẩm quyền xét xử
sơ thẩm cho Tòa án cấp huyện như vậy tạo điều kiện giảm bớt áp lực về công việc
cho Tòa án cấp tỉnh, nhằm nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết vụ việc dân sự,
đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử. Ngoài ra các Nghị quyết này cũng khẳng định
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải theo hướng đơn giản, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng. Kết luận số 79 - KL/TW; Kết luận số 92 19


KL/TW của Bộ chính trị và văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, hoàn thiện các thủ
tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người; thực hiện mô hình tố tụng “xét hỏi kết hợp với tranh
tụng” xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng; thực hiện tốt việc tranh tụng xem đó là khâu đột phá của
hoạt động xét xử; khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương
lượng, hòa giải, trọng tài, Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết
đó.
Những quy định chiến lược này là kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận,
tổng kết từ thực tiễn của Đảng. Việc tuân theo đường lối, chính sách của Đảng là
một trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng các quy định về thẩm
quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
1.3.2. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án
Khác với hệ thống Tòa án của nhiều quốc gia trên thế giới, hệ thống Tòa án

của Việt Nam có những đặc thù về mặt tổ chức. Những đặc thù này có tác động
không nhỏ đến việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại của Tòa án, theo quy định của Luật tổ chức Tòa án cụ thể [31, tr.18]:
Thứ nhất, hệ thống Tòa án của Việt Nam được tổ chức theo địa giới hành
chính. Theo cách thức tổ chức này thì tất cả các tỉnh thành và các quận huyện trên
cả nước đều có cơ quan Tòa án. Cách tổ chức như vậy dẫn đến nhu cầu cần phải
phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ hoặc theo sự lựa chọn của nguyên
đơn, nghĩa là, phải xác định Tòa án của địa phương nào sẽ có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp, tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các Tòa án
cùng cấp.
Thứ hai, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức ở bốn cấp là Tòa án nhân
dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thẩm quyền của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân
dân tối cao. Quy định này đặt ra cho pháp luật tố tụng dân sự một nhiệm vụ là phải
20


quy định những vụ án nào thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân
cấp huyện, những vụ án nào thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thẩm
quyền giải quyết xét xử theo trình tự phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao và
trình tự tái thẩm, giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao.
Thứ ba, trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp cao lại có
các Tòa chuyên trách, bao gồm Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
Tòa hành chính và Tòa gia đình và người chưa thành niên; đối với Tòa án nhân dân
cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự,
Tòa gia đình và người chưa thành niên và Tòa xử lý hành chính. Điều này dẫn đến
yêu cầu cần phải có sự phân định thẩm quyền giữa các Tòa chuyên trách trong cùng
một cấp Tòa án. Do đó, pháp luật tố tụng dân sự cần có những quy định phân loại
thẩm quyền của Tòa án theo loại việc để xác định các vụ việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của từng Tòa chuyên trách nhằm chuyên biệt hóa lĩnh vực quan hệ xã hội theo

thẩm quyền giải quyết của các Tòa chuyên trách.
1.3.3. Căn cứ vào yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, pháp luật là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp và có tác động qua lại đối với cơ
sở hạ tầng. Pháp luật càng bám sát với sự phát triển của thực tiễn và có tính dự
báo cao thì càng đạt được hiệu quả cao. Do vậy, sự thay đổi, phát triển của pháp
luật, bao gồm cả những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của Tòa án cũng cần có sự thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả trong việc
áp dụng pháp luật [35, tr.15]. Trước đây, khi nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn,
lạc hậu, các quan hệ kinh tế chưa nhiều, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế (PLTTGQCVAKT) năm 1994 chỉ đưa ra những quy định về thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Nhưng từ khi
bước sang thời kỳ đổi mới cùng với quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, các
tranh chấp phát sinh ngày càng đa dạng, phức tạp về phạm vi và lĩnh vực. Vì vậy,
sự thay đổi thẩm quyền của Tòa án là một yêu cầu bắt buộc. Khi Bộ luật tố tụng
21


dân sự năm 2004 ra đời đã có nhiều quy định mới về việc phân định thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, đặc biệt là
việc mở rộng phạm vi các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trên cơ sở kế thừa và đã
tiến thêm một bước mới cụ thể nhiều quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng. Như
vậy, sự phát triển của nền kinh tế, xã hội cũng là một căn cứ để phân định thẩm
quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại nói riêng.
1.3.4. Căn cứ vào điều kiện và năng lực giải quyết tranh chấp của Tòa án
Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của Tòa án còn cần phải dựa trên một số điều kiện nhất định như điều
kiện về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cũng như dựa trên trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, năng lực và sự độc lập khách quan của đội ngũ cán bộ Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp.
Trong hệ thống Tòa án, chỉ có Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân
dân cấp tỉnh là có thẩm quyền xét xử theo thủ tục dân sự sơ thẩm, trong đó, ở mỗi
cấp Tòa án lại có những ưu thế riêng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Tòa
án cấp huyện là Tòa án cơ sở tại địa phương nên sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn
trong việc trực tiếp xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ tranh
chấp ở địa phương, đồng thời dễ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đương sự trong
việc tham gia tố tụng. Tòa án cấp tỉnh là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án cấp
huyện nên có ưu thế hơn về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử và năng lực
của đội ngũ cán bộ thẩm phán; có điều kiện tốt về cơ sở hạ tầng và phương tiện vật
chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình xét xử. Chính từ sự khác biệt đó đã đặt ra vấn
đề cần phải xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở
từng cấp Tòa án để mỗi Tòa án có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong
phạm vi thẩm quyền.
1.3.5. Căn cứ vào các cơ sở khác
22


Ngoài các cơ sở chủ yếu nêu trên, một số cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý
khác như bản chất của quan hệ pháp luật tranh chấp, tính chất phức tạp của vụ tranh
chấp; việc đảm bảo tính khách quan, vô tư của những người tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết tranh chấp; hay một số quyền căn bản của đương sự như quyền
tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự... cũng được các nhà làm luật dựa vào trong quá trình phân định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án.
1.4. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại
Để xác định cụ thể Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại, ta cần căn cứ vào các nguyên tắc phân định thẩm quyền sau đây:

1.4.1. Phân định thẩm quyền theo loại việc
Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc là quyền hạn của Tòa án trong
việc thụ lý giải quyết các vụ việc căn cứ vào bản chất của các vụ việc đó theo thủ
tục tố tụng dân sự. Các vụ việc được phân loại bao gồm: Vụ việc về hôn nhân gia
đình, vụ việc về kinh doanh thương mại, vụ việc về lao động và vụ việc về dân sự
(theo nghĩa hẹp). Sự phân định thẩm quyền của Tòa án theo loại việc về tranh chấp
kinh doanh, thương mại là việc xác định phạm vi các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động kinh doanh, thương mại thuộc quyền hạn giải quyết của Tòa án. Sự phân định
này giúp ta phân biệt được tranh chấp kinh doanh, thương mại với các tranh chấp
khác dựa vào những dấu hiệu mà pháp luật quy định, để từ đó bước đầu xác định
Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Ở các nước khác nhau có thể có sự khác nhau trong việc xác định thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án. Một số quốc
gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hà Lan trao thẩm quyền xét xử mọi loại tranh chấp, bao
gồm cả các tranh chấp trong thương mại cho Tòa án thường (Tòa án dân sự). Một số
quốc gia khác như Đức, Pháp, Áo, Bỉ lại trao quyền xét xử các tranh chấp thương
mại cho Tòa án thương mại – Tòa án chuyên trách trong cơ quan tư pháp [31, tr.25].
23


Tại Việt Nam, Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh
là cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các loại việc tranh chấp về
kinh doanh, thương mại, còn Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết theo
trình tự phúc thẩm.
1.4.2. Phân định thẩm quyền theo cấp xét xử
Thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử là thẩm quyền của từng cấp Tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm. Sự phân định thẩm quyền
của Tòa án theo cấp xét xử trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương
mại là việc xác định Tòa án cấp huyện hay Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm tranh chấp kinh doanh, thương mại đó. Việc phân định này xuất phát từ

nguyên tắc xây dựng hệ thống Tòa án theo cấp của Việt Nam. Trước đây, pháp luật
Việt Nam còn phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế giữa các cấp Tòa
án dựa vào giá trị của tranh chấp. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp đều có thể
xác định được giá trị tranh chấp ngay từ đầu, do đó, pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành không căn cứ vào giá trị của tranh chấp mà dựa vào nhiều cơ sở khác nhau,
trong đó tính chất của tranh chấp là một trong những cơ sở quan trọng để phân định
thẩm quyền của Tòa án các cấp. Việc phân định thẩm quyền như vậy là cần thiết để
đảm bảo trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án và các điều
kiện về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của Tòa án từng cấp trong việc giải
quyết tranh chấp.
Trên thế giới, ở các nước có thành lập Tòa án thương mại đều tổ chức Tòa án
thương mại với hình thức là một Tòa chuyên trách trong hệ thống các cơ quan tư
pháp. Các Tòa án thương mại này chỉ xét xử sơ thẩm. Nếu có sự chống án đối với
bản án sơ thẩm (kháng cáo) thì vụ án sẽ được đưa ra xét xử ở Tòa thượng thẩm
(phúc thẩm) dân sự như các vụ kiện dân sự [31, tr.27].
1.4.3. Phân định thẩm quyền theo lãnh thổ
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là thẩm quyền của Tòa án trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự theo phạm vi địa giới hành chính. Sự phân định thẩm
24


quyền của Tòa án theo lãnh thổ trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại là việc xác định Tòa án tại địa phương nào sẽ có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm tranh chấp kinh doanh, thương mại đó. Điều đó sẽ tránh được những chồng
chéo về thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa các Tòa án cùng cấp. Hơn nữa, về nguyên
tắc, việc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ là nhằm xác định Tòa án có điều kiện
tốt nhất để giải quyết vụ việc. Bởi vậy, việc phân định thẩm quyền này sẽ đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, đúng đắn, tạo thuận lợi cho việc tham
gia tố tụng của các đương sự, thuận lợi cho việc giải quyết vụ án của Tòa án và
thuận lợi cho việc thi hành án.

Pháp luật tố tụng của một số nước như Nga, Pháp, Trung Quốc cũng có
những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của
Tòa án theo lãnh thổ, như quy định về thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản,
thẩm quyền của Tòa án nơi cư trú, làm việc, nơi có trụ sở của bị đơn... [36, tr.34].
Tham khảo pháp luật nước ngoài cho thấy, việc quy định về thẩm quyền của Tòa án
theo lãnh thổ của Việt Nam về cơ bản đã có sự phù hợp và tương đồng với pháp luật
một số nước trên thế giới.
1.4.4. Phân định thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Về nguyên tắc, việc xác định thẩm quyền của Tòa án tại địa phương cụ thể sẽ
dựa theo tiêu chí lãnh thổ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nguyên đơn lại được
lựa chọn Tòa án giải quyết. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên
đơn là quyền và nghĩa vụ giải quyết tranh chấp của Tòa án tại một địa phương nhất
định theo sự lựa chọn của nguyên đơn – người thực hiện hành vi khởi kiện. Nguyên
tắc này được áp dụng khi có nhiều Tòa án tại các địa phương khác nhau cùng có
thẩm quyền, hoặc nếu chỉ áp dụng các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ sẽ
không thể xác định được Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Việc phân định như vậy
nhằm đảm bảo quyền quyết định và tự định đoạt của nguyên đơn, giúp nguyên đơn
lựa chọn được Tòa án phù hợp nhất với hoàn cảnh của tranh chấp và điều kiện thực
tế của mình; đồng thời tránh trường hợp xảy ra tranh chấp về thẩm quyền giữa các
25


×