Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật về khai thác và sử dụng rừng tại huyện vân hồ, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 103 trang )

PHẠM THÁI BÌNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

TÊN ĐỀ TÀI
Pháp luật về khai thác và sử dụng rừng
Từ thực tiễn tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHẠM THÁI BÌNH

2014 - 2016

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
TÊN ĐỀ TÀI

Pháp luật về khai thác và sử dụng rừng
từ thực tiễn tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHẠM THÁI BÌNH


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2016
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn

Phạm Thái Bình

3


LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm
ơn đến các thầy, cô giáo Khoa sau đại học - Viện Đại học mở Hà Nội đã tận tình giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm lâm Vân
Hồ, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Vân Hồ, đã giúp đỡ, tạo điều kiện và
cung cấp những số liệu, tài liệu cần thiết để nghiên cứu và hoàn thành Luận văn
này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Phương đã

dành nhiều thời gian tâm huyết, trực tiếp hướng dẫn tận tình, chỉ bảo và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài và hoàn chỉnh
bản Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, khích
lệ, sẻ chia, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong cuộc sống cũng như trong quá trình
học tập, nghiên cứu!
Hà Nội, ngày 5 tháng 9 năm 2016
Tác giả Luận văn: Phạm Thái Bình

4


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2

3. Mục đích nghiên cứu

3


4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu

4

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

4

6. Phương pháp nghiên cứu

5

7. Cấu trúc đề tài

5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG RỪNG

6

1.1. Rừng và quyền khai thác, sử dụng rừng

6

1.1.1 Khái niệm và phân loại rừng

1

1.1.2 Quyền sở hữu và khai thác tài nguyên rừng


13

1.2. Các quy định về khai thác và sử dụng rừng

20

1.2.1 Những hành vi bị nghiêm cấm

20

1.2.2 Nguyên tắc khai thác, sử dụng rừng

23

1.2.3 Các đối tượng được khai thác, sử dụng rừng

24

1.2.4 Phạm vi, điều kiện khai thác, sử dụng rừng

25

1.2.5 Trình tự, thủ tục khai thác lâm sản

32

Chương 2: THỰC TIỄN KHAI THÁC, SỬ DỤNG RỪNG TẠI

39


HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA
2.1. Tình hình khai thác, sử dụng rừng tại huyện Vân Hồ.

5

39


2.2. Phạm vi, điều kiện khai thác, sử dụng rừng

43

2.3. Tình hình khai thác lâm sản

44

2.4. Tình hình khai thác lâm sản ngoài gỗ và tiềm năng du lịch sinh

49

thái rừng
2.5. Công tác quản lý việc khai thác, sử dụng rừng.

54

2.6. Tình trạng khai thác, vận chuyển, buôn bán, chế biến lâm sản

59

trái phép.

2.7. Công tác tuyên truyền pháp luật khai thác, sử dụng rừng

60

Chương 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG

65

RỪNG TẠI HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA
3.1. Những thuận lợi và khó khăn

65

3.1.1 Thuận lợi

65

3.1.2 Khó khăn

65

3.2. Đánh giá thực trạng khai thác, sử dụng rừng tại huyện Vân Hồ, tỉnh

67

Sơn La
3.2.1 Những thành công đã đạt được

67


3.2.2 Những thiếu xót, tồn tại cần khắc phục

69

3.2.3 Nguyên nhân

70

3.3. Một số kiến nghị, đề xuất

75

3.3.1 Kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật về khai thác và sử dụng

75

rừng
3.3.2 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng rừng

88

KẾT LUẬN

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

6



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Lâm sản ngoài gỗ

: LSNG

Phòng cháy chữa cháy rừng

: PCCCR

Bảo vệ rừng

: BVR

Ủy ban nhân dân

: UBND

Rừng sản suất

: RSX

Rừng đặc dung

: RĐD

Rừng phòng hộ


: RPH

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng hợp hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp huyện Vân Hồ
Bảng 2.2. Tình hình khai thác gỗ tại huyện Vân Hồ (2013-2015)

7


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải dĩ nhiên mà trái đất của chúng ta lại được gọi là hành tinh xanh.
Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lí
tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống - một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc
biệt, rừng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của
con người.
Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi - một điều kiện thiên
nhiên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó không còn lại nhiều. Không hiểu
rõ tầm quán trọng của rừng, rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi, nhất là những
người dân thiếu hiểu biết “đốt nương làm rẫy”, khai phá rừng một cách vô ý thức.
Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng, hiểu được sự sai trái trong
hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai thác rừng trái phép để kiếm lợi về
mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác rừng bừa bãi, đốt rừng, phá rừng
ấy thật không thể tưởng tượng được. Rừng rộng lớn, phong phú là thế, nhưng chỉ vì
những con người thiếu ý thức, công tác quản lí kém mà hàng trăm, hắng nghìn hecta
rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường sống và thiệt hại hàng trăm tỉ đồng của nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp
đẽ xưa kia, những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây không còn nên những
thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra, nào là hạn hán, nào lũ lụt, nào sạt lở đất,.. làm
thiệt hại bao tiền của và tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì

lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chống xói mòn, để bảo vệ làng
mạc? Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì sự vô ý thức, sự thiếu hiểu
biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra.
Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người bị tàn phá, hủy
hoại. Những loài động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao
loài động vật bị tuyệt chủng. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng.

8


Bảo vệ rừng có ý nghĩa sống còn đối với mỗi quốc gia. Hiện nay việc khai
thác và sử dụng tài nguyên rừng bất hợp lý đang làm cho diện tích rừng ngày một
thu hẹp, làm phá huỷ hệ sinh thái. Và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc biến
đổi khí hậu trong thời gian qua. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tiêu cực và
thách thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây
khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng
nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt làm suy
thoái rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng khác. Để bảo vệ cuộc sống của
chúng ta phải cứu lấy rừng. Cách hiệu quả nhất để bảo vệ rừng chính là luật hóa các
quy định về khai thác và sử dụng rừng.
Hiện nay Đảng và chính quyền nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp
và quản lí chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp
với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi.
Là một trong những huyện có diện tích rừng lớn nhất tỉnh Sơn La, huyện
Vân Hồ có khu vực rừng Xuân Nha là nơi có nhiều loài động thực vật quý hiếm, có
giá trị cao. Do đó việc áp dụng pháp luật để khai thác, sử dụng rừng hiệu quả, đúng
mục đích là vấn đề luôn cấp bách và nóng hổi, đặc biệt là trước tình hình khai thác
trái phép lâm sản ngày càng gia tăng như hiện nay.
Do đó, tác giã đã chọn đề tài “'Thực trạng khai thác và sử dụng rừng tại
huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ với mong muốn

nghiên cứu một cách hệ thống pháp luật về khai thác và sử dụng rừng của Việt Nam
cũng như thực trạng áp dụng pháp luật trên địa bàn huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La để
từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả khai thác và sử dụng rừng
hợp lý.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với con người và sự phát triển của
mỗi quốc gia. Rừng không chỉ cung cấp các sản phẩm trực tiếp như gỗ, củi, lâm sản
ngoài gỗ mà còn cung cấp rất nhiều các chức năng sinh thái có giá trị khác như: Bảo

9


vệ đất chống xói mòn, điều tiết dòng chảy nhằm hạn chế lũ lụt về mùa mưa duy trì
nguồn nước về mùa khô, hấp thụ các bon, cảnh quan sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh
học, vv….
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền
kinh tế, nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu gỗ của Việt Nam liên tục tăng lên khiến cho
rừng luôn phải đối mặt với nguy cơ bị khai thác quá mức, kèm theo đó là sự suy
giảm đáng kể các chức năng sinh thái mà rừng đã và đang cung cấp trong việc bảo
vệ môi trường, phòng chống thiên tai. Các hiện tượng xói mòn đất, sạt lở đất, lũ
quét, hạn hán liên tục xảy ra tại các lưu vực sông, gây ra những thiệt hại nặng nề về
người và của là những minh chứng rõ ràng nhất về những tổn thất do việc mất rừng
gây ra.
Nguyên nhân chính dẫn tới việc mất rừng chính là tình trạng khai thác, sử
dụng rừng trái phép. Thực tế, hàng năm có hàng ngàn vụ việc khai thác rừng trái
phép đã bị đưa ra xử lý nhưng tình trạng này vẫn không có dấu hiệu suy giảm. Do
đó việc nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về khai thác và sử dụng
rừng là vô cùng cần thiết. Mặc dù đây là vấn đề cấp bách và nhức nhối của xã hội
nhưng hiện nay chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu về đề tài này, vấn đề khai
thác và sử dụng rừng chỉ được đề cập chung chung, gắn với việc bảo vệ và phát

triển rừng. Kế thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước và xuất phát từ hoạt
động quản lý, khai thác, sử dụng rừng trên địa bàn huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, tác
giả đã mạnh dạn nêu lên một số quan điểm, phân tích thực trạng khai thác, sử dụng
rừng trên địa bàn huyện để từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả khai thác, bảo vệ rừng gắn với việc bảo vệ và phát triển tài nguyên
rừng bền vững.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, tác giả mong muốn mang đến một cái nhìn hệ thống về chính
sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, pháp luật về khai thác và sử dụng
rừng, thực tiễn thực thi pháp luật về khai thác và bảo vệ rừng tại huyện Vân Hồ,

10


tỉnh Sơn La đồng thời nêu lên những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả khai
thác và sử dụng rừng hợp lý trên địa bàn huyện Vân Hồ.
Nhiệm vụ luận văn bao gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về khai thác và sử dụng rừng.
- Khảo sát thực tiễn thực thi pháp luật về khai thác và sử dụng rừng tại địa
bàn huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
- Đánh giá thành công và hạn chế, bất cập trong việc thực thi pháp luật về
khai thác và sử dụng rừng tại địa bàn huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La để từ đó đưa ra
các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng rừng hợp lý
trên địa bàn huyện Vân Hồ.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài xoay quanh các vấn đề: Các quy phạm pháp
luật thực định về khai thác, sử dụng rừng đang có hiệu lực thi hành và Thực trạng
thực thi pháp luật khai thác và sử dụng rừng, trong đó, tập trung nghiên cứu thực
trạng khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La từ năm 2013
đến năm 2015.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học của đề tài
Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các cấp quản lý, các nhà nghiên cứu,
những ai quan tâm đến lĩnh vực môi trường. Luận văn cũng đề xuất hướng nghiên
cứu về khai thác và bảo vệ rừng.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu là cơ sở nhận thức về vai trò của khai thác và sử dụng
rừng hợp lý trên địa bàn huyện Vân Hồ để có được cái nhìn khái quát về hoạt động
và cung cấp thêm những lý luận để góp phần làm rõ thực trạng khai thác tài nguyên
rừng để thấy rõ tác động của việc khai thác rừng quá mức khiến tài nguyên rừng bị

11


suy giảm nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến môi trường và xã hội; Cùng với đó là
đưa ra các quy định để hạn chế tình trạng khai thác rừng quá mức, và có các biện
pháp nhằm cải thiện và phục hồi tài nguyên rừng ở ở Vân Hồ nói riêng và của Việt
Nam nói chung.
Luận văn cũng đề xuất một số giải pháp làm cơ sở nghiên cứu, tư liệu tham
khảo cho những người quan tâm để có thể có thể tìm hiểu được thực trạng, nguyên
nhân và cùng đưa ra những giải pháp giúp cải thiện tình trạng và phục hồi nguồn tài
nguyên rừng.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kê và vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa Mac Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về khai thác, sử
dụng rừng để làm sáng tỏ các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. Bên cạnh đó,
luận văn vận dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học, những luận điểm khoa học
trong các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả khác để phát triển nội dung
nghiên cứu trong luận văn.
7. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khai thác, sử dụng rừng
Chương 2: Thực tiễn khai thác, sử dụng rừng tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Chương 3: Đánh giá thực trạng khai thác, sử dụng rừng tại huyện Vân Hồ,
tỉnh Sơn La.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG RỪNG
1.1. Rừng và quyền khai thác, sử dụng rừng
1.1.1. Khái niệm và phân loại rừng
1.1.1.1. Khái niệm
Có nhiều cách định nghĩa rừng khác nhau nhưng hầu hết đều định nghĩa dựa
vào phạm vi không gian, hệ thống sinh vật và cảnh quan địa lí:
Năm 1930, Morozov đã đưa ra khái niệm: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có
mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và
trong khí quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt trái đất và là một bộ phận của cảnh
quan địa lý.
Năm 1952, M.E. Tcachenco phát biểu: Rừng là một bộ phận của cảnh quan
địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi
sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh
hưởng lẫn nhau với hoàn cảnh bên ngoài.
Năm 1974, I.S. Mê-lê-khôp cho rằng: Rừng là sự hình thành phức tạp của tự
nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu.
Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 20004 quy định:“Rừng
là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng,
đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thựcvật

đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm
rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng
đặc dụng”.
Như vậy, theo khái niệm trên, rừng bao gồm các yếu tố: Thực vật rừng tự
nhiên hoặc do con người trồng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh trên đất trồng rừng,
trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc thực vật đặc trưng là những thực vật chính chiếm ưu

13


thế; động vật rừng sống hoang dã trong rừng; vi sinh vật rừng; quần xã thực vật
rừng phải có một diện tích đủ lớn để tạo ra hoàn cảnh rừng đặc trưng và những yếu
tố tự nhiên, môi trường do rừng tạo ra khác với hoàn cảnh bên ngoài, độ khép tán
của quần xã thực vật phải lớn hơn 0,1.
Đất lâm nghiệp bao gồm: Đất có rừng tự nhiên, đất có rừng trồng và đất chưa
có rừng được quy hoạch để gây trồng rừng; trong phạm vi quản lý nhà nước về đất
lâm nghiệp, thì đất lâm nghiệp chỉ giới hạn ở lớp đất mặt với độ sâu nhất định phù
hợp với canh tác lâm nghiệp, không bao gồm những tài nguyên, khoáng sản và
những vật thể nằm sâu trong lòng đất.
1.1.1.2. Phân loại rừng
Trong các hoạt động của mình, nhà lâm nghiệp luôn phải đối mặt với một
vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp – đó là làm thế nào có thể quản lý, bảo vệ, khai
thác và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng? Vì rừng phân bố trên không gian rộng lớn
và chứa đựng nhiều tham số chưa biết, nên rừng là một thực thể tự nhiên vô cùng
phức tạp. Để quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng, nhà lâm nghiệp
phải có những hiểu biết tốt về chúng. Rừng là một hệ thống động, nghĩa là chúng
luôn biến đổi dưới tác động của vô số các nhân tố môi trường thường xuyên thay
đổi. Muốn quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng, nhà lâm
nghiệp phải dự báo được những biến đổi diễn ra ở rừng, đồng thời xây dựng được
chiến lược điều khiển rừng. Phân loại rừng cho phép nhà lâm nghiệp có thể giải

quyết được những vấn đề đó. Phân loại rừng là một công tác rất quan trọng trong
quản lý tài nguyên rừng của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, công tác phân loại rừng
gắn liền với lịch sử phát triển sử dụng rừng từ xa xưa để thuận tiện cho công tác
quản lý và quy hoạch cho công tác lâm nghiệp.
Các phương pháp phân loại rừng đã được hình thành và phát triển từ nhiều
thập kỷ qua. Khuynh hướng chung của các hệ thống phân loại rừng trước đây là đi
từ những phương pháp sử dụng các tham số của môi trường vật lý (ví dụ: Phân loại
khí hậu, phân loại dựa trên kết cấu thảm thực vật...) đến những phương pháp sử

14


dụng tất cả các thành phần chủ yếu của hệ sinh thái (ví dụ: (1) phương pháp khí hậu
địa lý sinh vật, (2) phương pháp dựa trên nguyên lý “sinh thái phát sinh“ theo học
thuyết “hệ sinh thái“của Thái Văn Trừng (1970, 1978), (3) phương pháp lý sinh...).
Các phương pháp phân loại này ít nhiều đã phản ánh được các quan hệ giữa thảm
thực vật rừng với hoàn cảnh môi trường của chúng. Cần nhận thấy rằng, phương
pháp phân loại rừng (hệ sinh thái) dựa trên nhiều tham số sinh thái có quan hệ chặt
chẽ với sự phát sinh rừng sẽ cho phép dự báo hệ sinh thái rừng chính xác hơn so với
phương pháp phân loại rừng chỉ dựa trên một vài tham số của môi trường.
Thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/06/2009 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng như sau:
- Phân loại rừng theo mục đích sử dụng (Điều 4)
1. Rừng phòng hộ: là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo
vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hoá, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu và bảo
vệ môi trường.
2. Rừng đặc dụng: là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu
chuẩn hệ sinh thái của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo
vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp
phòng hộ bảo vệ môi trường.

3. Rừng sản xuất: là rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ,
các lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường.
- Phân loại rừng theo nguồn gốc hình thành (Điều 5)
1. Rừng tự nhiên: là rừng có sẵn trong tự nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh
tự nhiên.
a) Rừng nguyên sinh: là rừng chưa hoặc ít bị tác động bởi con người, thiên
tai; Cấu trúc của rừng còn tương đối ổn định.
b) Rừng thứ sinh: là rừng đã bị tác động bởi con người hoặc thiên tai tới mức
làm cấu trúc rừng bị thay đổi.

15


- Rừng phục hồi: là rừng được hình thành bằng tái sinh tự nhiên trên đất đã
mất rừng do nương rẫy, cháy rừng hoặc khai thác kiệt;
- Rừng sau khai thác: là rừng đã qua khai thác gỗ hoặc các loại lâm sản khác.
2. Rừng trồng: là rừng được hình thành do con người trồng, bao gồm:
a) Rừng trồng mới trên đất chưa có rừng;
b) Rừng trồng lại sau khi khai thác rừng trồng đã có;
c) Rừng tái sinh tự nhiên từ rừng trồng đã khai thác.
Theo thời gian sinh trưởng, rừng trồng được phân theo cấp tuổi, tùy từng loại
cây trồng, khoảng thời gian quy định cho mỗi cấp tuổi khác nhau.
- Phân loại rừng theo điều kiện lập địa (Điều 6)
1. Rừng núi đất: Là rừng phát triển trên các đồi, núi đất.
2. Rừng núi đá: Là rừng phát triển trên núi đá, hoặc trên những diện tích đá
lộ đầu không có hoặc có rất ít đất trên bề mặt.
3. Rừng ngập nước: Là rừng phát triển trên các diện tích thường xuyên ngập
nước hoặc định kỳ ngập nước.
a) Rừng ngập mặn: Là rừng phát triển ven bờ biển và các cửa sông lớn có
nước triều mặn ngập thường xuyên hoặc định kỳ.

b) Rừng trên đất phèn: Là rừng phát triển trên đất phèn, đặc trưng là rừng
Tràm ở Nam Bộ.
c) Rừng ngập nước ngọt: Là rừng phát triển ở nơi có nước ngọt ngập thường
xuyên hoặc định kỳ.
4. Rừng trên đất cát: Là rừng trên các cồn cát, bãi cát.
- Phân loại rừng theo loài cây (Điều 7)
1. Rừng gỗ: Là rừng bao gồm chủ yếu các loài cây thân gỗ.
a) Rừng cây lá rộng: Là rừng có cây lá rộng chiếm trên 75% số cây.

16


- Rừng lá rộng thường xanh: Là rừng xanh quanh năm;
- Rừng lá rộng rụng lá: Là rừng có các loài cây rụng lá toàn bộ theo mùa
chiếm 75% số cây trở lên;
- Rừng lá rộng nửa rụng lá: Là rừng có các loài cây thường xanh và cây rụng
lá theo mùa với tỷ lệ hỗn giao theo số cây mỗi loại từ 25% đến 75%.
b) Rừng cây lá kim: Là rừng có cây lá kim chiếm trên 75% số cây.
c) Rừng hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim: là rừng có tỷ lệ hỗn giao theo số
cây của mỗi loại từ 25% đến 75%.
2. Rừng tre nứa: Là rừng chủ yếu gồm các loài cây thuộc họ tre nứa như: tre,
mai, diễn, nứa, luồng, vầu, lô ô, le, mạy san, hóp, lùng, bương, giang, v.v….
3. Rừng cau dừa: Là rừng có thành phần chính là các loại cau dừa.
4. Rừng hỗn giao gỗ và tre nứa
a) Rừng hỗn giao gỗ - tre nứa: Là rừng có cây gỗ chiếm > 50% độ tàn che;
b) Rừng hỗn giao tre nứa - gỗ: Là rừng có cây tre nứa chiếm > 50% độ tàn che..
- Phân loại rừng theo trữ lượng (Điều 8)
1. Đối với rừng gỗ
a) Rừng rất giàu: Trữ lượng cây đứng trên 300 m3/ha;
b) Rừng giàu: Trữ lượng cây đứng từ 201- 300 m3/ha;

c) Rừng trung bình: Trữ lượng cây đứng từ 101 - 200 m3/ha;
d) Rừng nghèo: Trữ lượng cây đứng từ 10 đến 100 m3/ha;
đ) Rừng chưa có trữ lượng: Rừng gỗ đường kính bình quân < 8 cm, trữ lượng
cây đứng dưới 10 m3/ha.
2. Đối với rừng tre nứa: Rừng được phân theo loài cây, cấp đường kính và
cấp mật độ

17


a) Nứa
Trạng thái
Nứa to

D (cm)

N (cây/ha)

≥5

- Rừng giàu (dày)

≥ 8.000

- Rừng trung bình

5.000 - 8.000

- Rừng nghèo (thưa)
Nứa nhỏ


< 5.000
<5

- Rừng giàu (dày)

≥ 10.000

- Rừng trung bình

6.000 - 10.000

- Rừng nghèo (thưa)

< 6.000

b) Vầu
Trạng thái
Vầu to

D (cm)

N (cây/ha)

≥6

- Rừng giàu (dày)

≥ 3.000


- Rừng trung bình

1.000 – 3.000

- Rừng nghèo (thưa)
Vầu nhỏ

< 1.000
<6

- Rừng giàu (dày)

≥ 5.000

- Rừng trung bình

2.000 - 5.000

- Rừng nghèo (thưa)

< 2.000

c) Tre, luồng
Trạng thái

D (cm)

18

N (cây/ha)



Tre, luồng to

≥6

- Rừng giàu (dày)

≥ 3.000

- Rừng trung bình

1.000 – 3.000

- Rừng nghèo (thưa)

< 1.000

Tre, luồng nhỏ

<6

- Rừng giàu (dày)

≥ 5.000

- Rừng trung bình

2.000 - 5.000


- Rừng nghèo (thưa)

< 2.000

d) Lồ ô
Trạng thái

D (cm)

Lồ ô to

N (cây/ha)

≥5

- Rừng giàu (dày)

≥ 4.000

- Rừng trung bình

2.000 - 4.000

- Rừng nghèo (thưa)

< 2.000

Lồ ô nhỏ

<5


- Rừng giàu (dày)

≥ 6.000

- Rừng trung bình

3.000 - 6.000

- Rừng nghèo (thưa)

< 3.000

Mặc dù có nhiều tiêu chí để phân chia rừng nhưng khi nghiên cứu về chế độ
sở hữu đối với tài nguyên rừng, chúng ta quan tâm tới các loại rừng được phân loại
căn cứ vào hai tiêu chí, đó là nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng. Bởi lẽ, các
hoạt động quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng của Nhà nước như xác lập các khu
rừng, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng, giao rừng, cho thuê rừng đều dựa

19


trên kết quả phân loại rừng là RPH, RĐD hay RSX. Nhà nước quyết định giao rừng,
cho thuê rừng cho chủ thể phù hợp cũng căn cứ vào mục đích sử dụng của từng loại
rừng, hơn nữa là cơ sở để xem xét công nhận quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu
RSX là rừng trồng. Ngoài ra, phân loại rừng thành RPH, RĐD, RSX sẽ thuận tiện
cho việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của từng loại chủ rừng đối với mỗi
loại rừng nhất định. Có thể thấy nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng của
từng loại rừng quyết định hình thức sở hữu đối với khu rừng đó có thể là hình thức
sở hữu nào và phương thức thực hiện các quyền sở hữu của chủ sở hữu rừng.

Tuy nhiên việc phân 3 loại rừng đã buộc phải có 3 loại cơ chế, chính sách
khác nhau để quản lý, sử dụng phù hợp với từng loại rừng trong khi bản thân mỗi
loại rừng đều có các chức năng phòng hộ, bảo tồn và sản xuất, có mối liên hệ với
nhau. Việc phân 3 loại rừng, tuyệt đối hóa bằng 3 hệ thống tổ chức quản lý rừng
(rừng sản xuất do các doanh nghiệp, rừng phòng hộ do các Ban quản lý rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng do các Ban quản lý rừng đặc dụng quản lý, sử dụng) đã dẫn đến
các chủ rừng không phát huy được sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng, tạo nên manh
mún về từng loại rừng, gây khó khăn cho việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, tổ
chức thực hiện, giám sát, thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng.
Ngoài ra việc phân 3 loại rừng chưa phù hợp với phân loại rừng của nhiều nước trên
thế giới (chủ yếu có 2 loại: Rừng kinh tế/thương mại - commercial forests và rừng
bảo vệ - protected forests) nên gây khó khăn trong quá trình hội nhập và hợp tác,
nhất là trong việc cấp chứng chỉ rừng, xác định nguồn gốc gỗ hợp pháp, buôn bán
tín chỉ cacbon v.v...
1.1.2. Quyền sở hữu và khai thác tài nguyên rừng
Cách thức phổ biến để Nhà nước can thiệp đối với quản lý, sử dụng rừng là
phân bổ quyền sở hữu đối với các loại tài sản rừng, xác định ai là người cung cấp
các sản phẩm, dịch vụ, ai được hưởng gì, như thế nào và ai phải trả tiền cho việc
hưởng lợi.

20


Năm 1997, Barzel đã đưa ra quan niệm về quyền sở hữu trong kinh tế học có
thể được hiểu với những điểm nhấn mạnh khác quyền sở hữu trong pháp luật.
Quyền sở hữu về kinh tế là lợi ích cuối cùng mà người sở hữu tìm kiếm, mong
muốn đạt đến; được phản ánh, thừa nhận và đảm bảo thực thi bởi pháp luật hay
những thể chế khác (ví dụ: Tập quán văn hóa). Trong đó, các quyền sở hữu về mặt
pháp lý dễ nhận biết hơn cả, là phương tiện hỗ trợ chủ yếu để chủ thể đạt được
quyền kinh tế. Phạm vi và nội dung các quyền đối với các tài sản rừng không chỉ

thể hiện qua các quy định của nhà nước mà còn chịu sự chi phối, điều chỉnh của
những chuẩn mực văn hóa, ứng xử của cộng đồng quản lý, sử dụng rừng. một nhóm
các quyền và lợi ích nhất định.
Năm 1967, Demsetz đưa ra lý thuyết: Quyền sở hữu là được phân bổ cho
những người nắm giữ những quyền này. Các quyền sở hữu đảm bảo cho người nắm
quyền được hưởng lợi ích, được ưu đãi để làm việc nào đó liên quan đến tài sản, từ
đó chi phối cách sử dụng tài sản của chủ thể nắm quyền. Mỗi quyền và lợi ích trong
quyền sở hữu có ý nghĩa khác nhau đối với những chủ thể liên quan trong việc kiểm
soát, chi phối, hưởng lợi từ các tài sản. Sự phân định kết hợp với sự chuyển giao các
quyền tạo điều kiện cho nhiều chủ thể cùng tham gia khai thác lợi ích, chi phối tài
sản, thúc đẩy việc sử dụng tài sản hiệu quả. Quyền sở hữu chứa đặc điểm quan trọng
là độc quyền loại trừ khả năng sử dụng của người khác. Nếu tài sản thuộc sở hữu
của một người, loại trừ sử dụng đối với người khác và quyền đối với tài sản có thể
chuyển giao cho người nào sử dụng hiệu quả hơn, giá trị sử dụng tài sản sẽ được tối
đa hoá.
Dựa trên tập hợp các quyền có thể phân loại những người có liên quan đến
sử dụng nguồn lực dùng chung (hệ thống rừng) với mức độ, phạm vi sở hữu khác
nhau. Hai quyền tiếp cận, chiếm hữu là những quyền sở hữu ở cấp độ vận hành đối
với tài sản, ba quyền còn lại (quản lý, loại trừ và chuyển giao) là những quyền ở cấp
độ ra quyết định. Sự phân loại trên cho thấy không chỉ những thay đổi về luật pháp
mà sự điều chỉnh các quy tắc sử dụng được thiết lập bởi những người sử dụng rừng
cũng ảnh hưởng đến quyền của mỗi chủ thể.

21


Sự phân loại các quyền như trên đưa đến sự cần thiết phải xem xét khác biệt
giữa tiếp cận và quyền sở hữu, quyền danh nghĩa và quyền thực tế. Theo quan điểm
của Ribot và Peluso “tiếp cận được hiểu là khả năng hưởng lợi ích từ thứ gì đó; sở
hữu chỉ đến quyền trong khi tiếp cận chỉ đến khả năng; chỉ có quyền là chưa đủ,

người nắm giữ quyền cần có khả năng (lao động, vốn, kỹ thuật,...) để hưởng lợi ích
từ nguồn lực. Do đó, phân bổ các quyền sở hữu tài sản rừng cho đối tượng sử dụng
cụ thể phải phù hợp với đặc tính của các tài sản, nguồn lợi rừng và nhu cầu, khả
năng tiếp cận, thực thi quyền trên thực tế của những chủ thể liên quan.
Với chính sách phân bổ quyền sở hữu tài sản rừng, mục tiêu của Nhà nước là
thông qua việc các chủ thể được phân bổ sử dụng rừng hành động đạt đến những lợi
ích kinh tế của mình có thể tạo ra các hàng hóa, dịch vụ công (dịch vụ môi trường
rừng, bảo tồn hệ sinh thái,...), giảm tác động tiêu cực đối với xã hội và chủ sở hữu
được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được
gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Do đó, quyền sở hữu không phải là quyền
tuyệt đối của chủ thể, mà luôn có sự điều tiết, kiểm soát của Nhà nước bằng các
quy định của luật pháp, luật tục, chuẩn mực xã hội khác.
Điều 53, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Điều này có
nghĩa là quyền sở hữu rừng cũng như quyền sở hữu đất đai được pháp luật nước
ta quy định thống nhất là thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý.
Tuy nhiên, theo khoản 5 Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng hiện hành thì
trong số các loại rừng nêu trên, rừng sản xuất là rừng trồng được Nhà nước công
nhận quyền sở hữu cho các chủ rừng là tổ chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân trong
nước. “Quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng là quyền của chủ rừng được

22


chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với cây trồng, vật nuôi, tài sản gắn liền với rừng
trồng do chủ rừng tự đầu tư trong thời hạn được giao, được thuê để trồng rừng theo

quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và các quy định khác của pháp
luật có liên quan”. Trong quy định này, cần lưu ý rằng chủ sở hữu rừng chỉ có
quyền định đoạt đối với cây trồng, vật nuôi, tài sản gắn liền với rừng trồng chứ
không có quyền định đoạt đối với đất rừng (mặc dù đất rừng là một bộ phận cấu
thành của rừng, theo định nghĩa tại Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng).
Về nguyên tắc, Nhà nước (đại diện cho toàn dân) sẽ đóng vai trò là chủ sở
hữu tuyệt đối đối với rừng. Bên cạnh đó còn có các đối tượng được Nhà nước công
nhận quyền sở hữu đối với rừng sản xuất là rừng trồng – chủ sở hữu tương đối đối
với rừng. Theo đó, khái niệm “chủ rừng” quy định tại Điều 3 Luật BVPRT bao gồm
cả hai đối tượng là người có quyền sở hữu tương đối đối với rừng sản xuất là rừng
trồng và người không có quyền sở hữu rừng mà chỉ được Nhà nước giao rừng, cho
thuê rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng; nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng rừng từ chủ rừng khác. Như vậy khái niệm “chủ rừng” và “chủ sở
hữu rừng” không đồng nhất với nhau.
Mỗi loại chủ rừng có những đặc điểm riêng, quyền lợi và nghĩa vụ riêng phụ
thuộc vào loại rừng mà họ được giao hoặc được thuê theo quy định của Luật
BVPTR. Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể cũng
có nhiều điểm không giống nhau nhưng trước hết họ phải thuộc một trong các nhóm
đối tượng được nêu như trên (trừ Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng được
thành lập sau khi giao rừng phòng hộ, rừng đặc dụng); tiếp theo họ phải được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, cấp quyết định giao rừng, cho thuê rừng,
giao đất, cho thuê đất để trồng rừng căn cứ trên dự án đầu tư về lâm nghiệp được
phê duyệt theo pháp luật về đầu tư (đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt
Nam định cư tại nước ngoài), khu vực sinh sống tại địa phương có rừng (thường áp
dụng đối với hộ gia đình, cá nhân) hoặc nhu cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh
(đối với tổ chức kinh tế), nghiên cứu (đối với tổ chức nghiên cứu khoa học), lý do
an ninh – quốc phòng (đối với đơn vị vũ trang nhân dân). Khi hoàn thành các thủ

23



tục cần thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và được công nhận quyền sử dụng rừng hoặc
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng.
Chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng với hai hình thức sở hữu: Sở
hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước.
Sở hữu tư nhân đối với rừng là việc tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sở hữu RSX
là rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư trong thời hạn được giao đất, được thuê đất để
trồng rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và các quy định
khác của pháp luật có liên quan1.
Trong các loại rừng, Nhà nước chỉ công nhận quyền sở hữu của tư nhân đối
với một loại rừng duy nhất, đó là RSX là rừng trồng. Hơn nữa, vốn để trồng rừng là
vốn do chủ rừng tự đầu tư. Cũng vì nguyên nhân nguồn gốc vốn mà Nhà nước cho
tư nhân sở hữu RSX là rừng trồng như một loại tài sản thông thường, một đối tượng
kinh doanh do chính họ đầu tư nên đương nhiên họ phải là chủ sở hữu hợp pháp của
diện tích rừng đó. Mặt khác, Nhà nước đang khuyến khích phát triển thương mại và
kinh tế lâm nghiệp từ việc khai thác hợp lý tài nguyên rừng, RĐD, RPH đa phần là
các khu rừng tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng sinh thái, bảo
vệ môi trường và an ninh lâm nghiệp do đó cần đảm bảo sự quản lý, bảo vệ chặt chẽ
từ phía các cơ quan Nhà nước trong khi RSX là rừng trồng với chức năng vốn có
của mình là để phục vụ phát triển ngành lâm nghiệp đồng thời dễ dàng tái sinh,
phục hồi nếu được khai thác hợp lý mà không gây bất kỳ ảnh hưởng tiêu cực nào
đến môi trường. Chính vì thế, Nhà nước trao quyền sở hữu RSX là rừng trồng cho
các đối tượng phù hợp bởi nhắm tới mục đích kinh doanh, làm giàu cho chính bản
thân mình thì không chủ rừng nào có thể lơ là việc chăm sóc tài sản của chính mình
cả.
Quyền sở hữu đối với RSX là rừng trồng chỉ mang tính tương đối. Điều 4 Luật
Đất đai 2013 quy định rõ "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ

1


Khoản 5 Điều 3 Luật BVPTR

24


sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng
đất theo quy định của Luật này", như vậy đất rừng luôn thuộc sở hữu Nhà nước,
chủ sở hữu RSX là rừng trồng chỉ có thể được công nhận quyền sử dụng đất đối với
diện tích RSX là rừng trồng mà mình đang đứng tên chủ sở hữu. Chủ rừng có quyền
sở hữu đối với cây trồng, vật nuôi thông thường do chính mình bỏ vốn đầu tư còn
các loại động vật - thực vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc danh mục do Chính phủ ban
hành2 sinh trưởng trong rừng (nếu có), các loài động vật – thực vật hoang dã là do
Nhà nước thống nhất quản lý, việc khai thác các giống loài này trong bất cứ loại
rừng nào đều phải đáp ứng trình tự, thủ tục luật định, có giấy phép do cơ quan có
thẩm quyền cấp để chứng minh nguồn gốc. Hơn nữa, việc lựa chọn giống cây trồng
trên đất RSX là rừng trồng hay kết hợp nuôi thêm vật nuôi khác phải tuân theo quy
hoạch, kế hoạch phát triển nông – lâm nghiệp của cả nước và địa phương nơi có
rừng, theo danh mục các giống cây trồng chủ lực cho RSX theo vùng sinh thái lâm
nghiệp3 hay theo danh mục giống vật nuôi thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Đây cũng là
cơ sở để xác định đâu là cây trồng, vật nuôi thuộc sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu
RSX là rừng trồng.
Sở hữu Nhà nước là hình thức sở hữu mà Nhà nước là người đại diện cho nhân
dân quản lý, nắm giữ tư liệu sản xuất. Rừng tự nhiên và rừng trồng có vốn từ ngân
sách Nhà nước thì thuộc sở hữu nhà nước.
Điều 6 Luật BVPTR cũng quy định: Nhà nước thống nhất quản lý và định đoạt
đối với rừng tự nhiên và rừng được phát triển bằng vốn của Nhà nước, rừng do Nhà
nước nhận chuyển quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng từ các chủ rừng; động
vật rừng sống tự nhiên, hoang dã; vi sinh vật rừng; cảnh quan, môi trường rừng.

2


Danh mục động, thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm – Ban hành kèm Nghị định 32/2006/NĐ-CP của chính
phủ ngày 30/3/2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp quý hiếm (NĐ 32/2006/NĐ-CP)

3

Quyết định số 4961/QĐ-BNN-TCLN của Bộ trưởng Bộ NNPTNT ngày 17/11/2014 ban hành danh mục các
loài cây chủ lực cho rừng sản xuất và danh mục các loài cây chủ yếu cho trồng rừng theo các vùng sinh thái
lâm nghiệp.

25


×