Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ thực tiễn giải quyết tại toà án nhân dân thành phố sơn la, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
TRANH CHẤP VỀ RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
GIỮA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN SỬ DỤNG ĐẤT TỪ
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
PHẠM TUẤN MINH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGA

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS.Nguyễn Thị Nga. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức
nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi
rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Xác nhận của người hướng dẫn

Học viên ký tên




LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Viện Đại học Mở Hà Nội, và sự đồng ý của Cô
giáo hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thị Nga tôi đã thực hiện đề tài “Tranh
chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng
đất từ thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn
La”.
Để hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô
giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và rèn luyện ở Viện Đại học Mở Hà Nội. Xin chân thành cảm ơn Thầy Cô
giáo hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thị Nga đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi
thực hiện luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất song vẫn còn nhiều thiếu sót Tôi rất mong được sự góp ý của quý Thầy,
Cô giáo và các bạn đồng nghiệp để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.Tôi xin
chân thành cảm ơn!
Học viên ký tên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu .......................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 2
3. Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn ......................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
6. Ý nghĩa của các kết quả nghiên cứu ........................................................ 4
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP RANH

GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT GIỮA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
SỬ DỤNG ĐẤT ............................................................................................ 5
1.1. Những vấn đề lý luận về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia
đình, cá nhân sử dụng đất. ........................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền sử dụng đất ....................................... 5
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm ranh giới quyền sử dụng đất ....................... 6
1.2 Những vấn đề lý luận về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất của
hộ gia đình cá nhân. ..................................................................................... 8
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp đất đai ................................ 8
1.1.2. Phân loại tranh chấp đất đai .............................................................. 9
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng
đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. ......................................... 11
1.2.3. Nguyên nhân phát sinh ranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất
giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. ............................................... 13
1.2.4. Ý nghĩa của phòng ngừa tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng
đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất .......................................... 18


1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp về ranh giới
quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. ............... 19
1.3.1. Những tác động và ảnh hưởng của tranh chấp về ranh giới quyền
sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân tới đời sống và trật tự an toàn
xã hội và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với việc giải
quyết tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất. ....................................................................................... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 37
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ RANH
GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT GIỮA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA. ...... 38
2.1. Tổng quan tình hình tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa

các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại Tòa án nhân thành phố Sơn La .. 38
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình quản lý đất đai trên địa bàn thành
phố Sơn La .................................................................................................. 38
2.1.2 Tình hình tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia
đình, cá nhân sử dụng đất tại Tòa án nhân dân thành phố Sơn La thời gian
qua. .............................................................................................................. 41
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất giữa các
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất qua một số vụ án tranh chấp cụ thể. ...... 42
2.2.1. Vụ việc thứ nhất ................................................................................. 42
2.2.2. Vụ việc thứ hai ................................................................................... 49
2.2.3. Vụ án thứ ba ..................................................................................... 54
2.3. Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp về ranh giới sử
dụng đất giữa các hộ gia đình cá nhân sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
thành phố Sơn La ........................................................................................ 62
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân .......................................... 62


2.3.2. Những khó khăn vướng mắc và nguyên nhân ................................... 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................ 68
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT GIỮA
CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA ........................................... 69
3.1. Yêu cầu đặt ra cần đạt được nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp về ranh giới sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.. 69
3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử
dụng đất ...................................................................................................... 73
3.2.1. Về hoàn thiện pháp luật ................................................................... 73
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật ............................. 78

KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 87


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Tranh chấp đất đai nói chung và tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất
nói riêng ở nước ta hiện nay đã và đang là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế đất nước và ổn định xã hội. Nguyên nhân của các tranh chấp
như thế nào, cơ chế giải quyết tranh chấp có bảo vệ được kịp thời và chính
xác các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch hay
không là những vấn đề rất quan trọng và cần phải được thực hiện phù hợp với
các quy định của pháp luật (bao gồm cả pháp luật nội dung cũng như pháp
luật hình thức).
Vấn đề nghiên cứu tìm hiểu về các quy định pháp luật hiện hành cũng
như đi sâu vào phân tích, đánh giá những vướng mắc qua thực tiễn xét xử là
nội dung quan trọng để góp phần hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp này
hiện nay tại Tòa án, nhằm bảo vệ được quyền và lợi ích tối đa của các bên khi
tham gia giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Trên địa bàn thành phố Sơn La, tình hình khởi kiện đối với tranh chấp
về đất đai mà đặc biệt là tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất ngày càng
gia tăng với tính chất và mức độ khá phức tạp. Thực tiễn giải quyết tranh chấp
tại toà án nhân dân thành phố đối với các dạng tranh chấp này cũng ngày càng
gia tăng và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tranh chấp đất đai. Tổng kết đánh giá
công tác xét xử cho thấy, dù rằng công tác đã đạt được một số thành tựu nhất
định, song cũng còn nhiều những hạn chế: án kéo dài, án phải qua nhiều cấp
xét xử...
Cơ sở pháp lí để giải quyết tranh chấp đất đai nói chung cũng như tranh
chấp ranh giới quyền sử dụng đất nói riêng là những chính sách, pháp luật về đất
đai của Đảng và Nhà nước ta có nhiều thay đổi tương thích với từng giai đoạn

phát triển của cách mạng, song bên cạnh đó còn nhiều quy định không nhất
quán. Hơn nữa, việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền
cũng chưa đầy đủ và kịp thời. Do đó, tình hình giải quyết tranh chấp đất đai

1


của các cơ quan hành chính và TAND trong những năm qua vừa chậm trễ, vừa
không thống nhất. Có nhiều vụ phải xử đi, xử lại nhiều lần, kéo dài trong
nhiều năm, phát sinh khiếu kiện kéo dài và làm giảm lòng tin của người dân
đối với đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Song có thể khẳng định rằng, việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay là
loại việc khó khăn, phức tạp nhất và là khâu yếu nhất trong công tác giải quyết
các tranh chấp dân sự nói chung. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
các quy định của pháp luật về đất đai, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai;
thực trạng tranh chấp đất đai và việc giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ
quan có thẩm quyền (qua thực tiễn thành phố Sơn La) trong những năm gần đây,
trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp
luật về đất đai và xác lập cơ chế giải quyết các tranh chấp đất đai thích hợp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp cho công dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và
thực tiễn hiện nay. Với nhận thức như vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề "Tranh chấp
về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ
thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La" làm
đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng
tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai tranh chấp về ranh giới quyền sử
dụng đất, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai và cơ chế
áp dụng pháp luật để giải quyết có hiệu quả hơn các tranh chấp đất đai.

- Để đạt được mục đích này, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những
quy định của pháp luật đất đai liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đất
đai, thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai thành phố Sơn La. Trên cơ sở đó
chỉ ra những thiếu sót, tồn tại của pháp luật đất đai hiện hành về thẩm quyền

2


giải quyết tranh chấp đất đai; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn hiện pháp luật
đất đai, nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp đất đai phúc đáp
các đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những
năm đầu của thế kỷ XXI.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đối với những vấn đề lí luận và thực tiễn về tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai bằng con đường Toà án đã có nhiều công trình nghiên
cứu như: Đề tài khoa học cấp bộ năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, do
Nguyễn Văn Luật làm chủ nhiệm đề tài; “Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải
quyết của Tòa án”, Luận văn Thạc sỹ luật học của Châu Huế (2003), Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội; “Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật đất đai
2003”, Luận văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị Hương Lan (2009), Viện Nhà
nước và Pháp luật; đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại toà án nhân dân”; “Giải
quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án từ thực tiễn tại Tp. Đà Nẵng” Luận văn
thạc sỹ luật học của Mai Thị Tú Oanh (2008); Báo cáo tham luận “Thực trạng
giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân – Kiến nghị và giải pháp” của
TS. Nguyễn Văn Cường; chuyên khảo “Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử”
của tác giả Tưởng Duy Lượng, do Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2008 và
tái bản có sửa chữa, bổ sung năm 2009...
Nội dung những công trình nêu trên phần nào đã làm ra những vấn đề lí
luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án. Tuy nhiên, một

công trình nghiên cứu độc lập và riêng về tranh chấp và giải quyết tranh chấp về
ranh giới quyền sử dụng đất, đặc biệt liên hệ với tình hình quản lí đất đai, tranh
chấp ranh giới đất đai trên địa bàn Sơn La thì chưa có công trình nào được
nghiên cứu trước đây. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này vẫn mang ý nghĩa lí luận và
thực tiễn sâu sắc.
4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là: Các văn bản quy phạm pháp luật
nội dung về tranh chấp đất đai, tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất; thực tiễn
công tác giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Sơn La thông qua
một số vụ án cụ thể trong những năm gần đây.

3


5. Phương pháp nghiên cứu
- Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử dụng
phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, trao đổi
chuyên gia.
6. Ý nghĩa của các kết quả nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số kiến nghị
của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp
luật trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng
đất giữa các hộ gia đình, cá nhân.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất

giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại Tòa án nhân dân thành phố Sơn La
Chương 3: Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP
RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT GIỮA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ
NHÂN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Những vấn đề lý luận về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền sử dụng đất
QSDĐ là thuật ngữ pháp lý gắn liền với hành vi sử dụng đất của con
người. Theo từ điển Luật học: "Quyền sử dụng đất là quyền của các chủ thể
được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ việc sử dụng đất được
Nhà nước giao, cho thuê hoặc được chuyển giao từ những chủ thể khác thông
qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho
… từ những chủ thể khác có quyền sử dụng đất”[56]. Bản chất QSDĐ chính
là quyền khai thác những thuộc tính có lợi từ đất một cách hợp pháp nhằm
làm thỏa mãn nhu cầu và lợi ích vật chất cho NSDĐ.
QSDĐ còn là một loại tài sản đặc biệt trong pháp luật Việt Nam bởi:
Pháp luật thực định ghi nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại
diện chủ sở hữu [33] xong Nhà nước thường không hoặc không thể tự mình
trực tiếp sử dụng đất. Nhà nước tiến hành giao đất, cho thuê đất cho các hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và được chuyển QSDĐ theo quy
định của pháp luật. Như vậy, QSDĐ hợp pháp của cá nhân là tài sản của cá
nhân; QSDĐ hợp pháp của tổ chức là tài sản của tổ chức. Bên cạnh đó, với

cách tiếp cận về quyền tài sản theo pháp luật dân sự “là quyền trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự kể cả quyền sở hữu trí
tuệ”[35] cho thấy, quyền về tài sản trước hết là một tài sản và có thể là quyền
đối vật ( droit réel) hay các quyền đối nhân ( droit pérsonnel). Mặt khác, một
quyền dân sự được coi là quyền tài sản khi hội đủ hai yếu tố: (1) quyền đó

5


phải trị giá được bằng tiền và (2) quyền đó phải chuyển giao được trong giao
dịch dân sự. QSDĐ là một tài sản trên cơ sở thị trường và bằng các quy định
của pháp luật, của ý chí chủ sở hữu là Nhà nước cho phép QSDĐ trong những
trường hợp cụ thể được tham gia vào các giao dịch dân sự.
Như vậy, bản chất QSDĐ chính là quyền khai thác những thuộc tính có
lợi từ đất một cách hợp pháp và nó là một tài sản được tham gia vào các giao
dịch dân sự trong những trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, QSDĐ bị chi phối bởi quyền sở hữu Nhà nước đối với đất đai trong
quá trình xác lập và khai thác sử dụng đất, cụ thể: QSDĐ của mỗi tổ chức, cá
nhân được xác lập tuân theo quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục, thời
gian, không gian, nghĩa vụ tài chính …; NSDĐ được thực hiện nhiều quyền
năng khác nhau để đảm bảo quyền và lợi ích của mình trong quá trình sử
dụng đất dưới sự cho phép và tuân theo các quy định của pháp luật. Song
QSDĐ của mỗi chủ thể lại mang tính độc lập tương đối, chúng được thoát ly
ra khỏi quyền sở hữu Nhà nước và trở thành một chế định độc lập trong quan
hệ với Nhà nước và chủ thể khác. Và đến Luật đất đai 2013, quyền và nghĩa
vụ của NSDĐ đã được quy định riêng biệt tại chương 11 từ Điều 166 đến
Điều 194 của Luật phân tách chi tiết thành những nội dung: quy định chung;
quyền và nghĩa vụ của tổ chức sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng đất; quyền và nghĩa vụ của người
Việt nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao,

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất và điều kiện thực hiện
các quyền của NSDĐ.
Tóm lại, QSDĐ là những quyền năng sử dụng đất cụ thể, được pháp
luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện đối với các chủ thể sử dụng đất trong quá
trình khai thác và sử dụng.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm ranh giới quyền sử dụng đất

6


Theo Từ điển Tiếng Việt: Ranh giới là đường phân giới hạn giữa hai
bên[52]. Trong nội dung giải thích định nghĩa được nêu trong Luật đất đai
2013 quy định Thửa đất là phần diện tích đất được giới hạn bởi ranh giới xác
định trên thực địa hoặc được mô tả trên hồ sơ [33]. Như vậy, ranh giới là
đường phân chia giới hạn phần diện tích đất giữa những thửa đất liền nhau.
Mà như đã nêu trên, quyền sử dụng đất là những quyền năng sử dụng đất cụ
thể, được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện đối với các chủ thể sử
dụng đất trong quá trình khai thác và sử dụng. Vậy, ranh giới quyền sử dụng
đất chính là việc phân chia giới hạn quyền năng sử dụng đất cụ thể đối với
một thửa đất, quyền năng này được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện
đối với các chủ thể sử dụng đất trong quá trình khai thác và sử dụng. Ranh
giới quyền sử dụng đất có một vài đặc điểm cụ thể như sau:
Thứ nhất, ranh giới thửa đất được xác định trên thựa địa hoặc được mô
tả trên sơ đồ. Việc xác định ranh giới thửa đất, cơ sở để xác định ranh giới
thửa đất chính là cơ sở để xác định ranh giới quyền sử dụng đất. Có nghĩa là
việc xác định quyền sử dụng đất của chủ sở hữu hợp pháp đối với thửa đất
trong diện tích, phạm vi như thế nào được xác định dựa trên thực địa hoặc
trong hệ thống quản lí nhà nước về đất đai trong bản đồ, sơ đồ địa chính. Trên
thực tế quản lí hành chính nhà nước đối với đất đai, có một công cụ hữu hiệu
để thực hiện quản lí ranh giới thửa đất đó là giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất [33]
Thứ hai, đi kèm với việc xác lập quyền đối với ranh giới quyền sử dụng
đất, pháp luật đất đai cũng ghi nhận rõ nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với
ranh giới quyền sử dụng đất. Cụ thể, nghĩa vụ của người sử dụng đất được

7


quy định cụ thể là phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất,
đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không, bảo
vệ các công trình công cộng trong lòng đất và tuân theo các quy định khác của
pháp luật có liên quan[33].
1.2 Những vấn đề lý luận về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng
đất của hộ gia đình cá nhân.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp đất đai
Trong bất kỳ xã hội nào, đất đai luôn có vai trò và vị trí quan trọng đối
với con người, góp phần quyết định sự phát triển phồn vinh của mỗi quốc gia.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu sử dụng đất của con
người ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Xuất phát từ lợi ích của các giai
tầng trong xã hội và dựa trên đòi hỏi của công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đất đai nhằm tạo
lập một môi trường pháp lý lành mạnh cho hoạt động khai thác và sử dụng đất
hợp lý và có hiệu quả. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết
dứt điểm và có hiệu quả những tranh chấp đất đai nảy sinh.
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xảy ra trong bất kỳ hình
thái kinh tế - xã hội nào. Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì
tranh chấp đất đai mang màu sắc chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh

chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Việc giải quyết triệt để các
tranh chấp đất đai ở các xã hội phải được thực hiện bằng một cuộc cách mạng
xã hội. Ở xã hội không tồn tại mâu thuẫn về lợi ích giai cấp đối kháng, tranh
chấp đất thường là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, quyền và nghĩa vụ của các
bên. Việc giải quyết tranh chấp đất đai do các bên tự tiến hành thông qua con
đường thương lượng, hòa giải hoặc do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện dựa trên việc áp dụng các quy định của pháp luật.

8


Theo từ điển tiếng Việt, tranh chấp là tranh dành nhau một cách giằng
co cái không thuộc về bên nào, là sự đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất
đồng, chủ yếu là trong vấn đề quyền lợi giữa các bên [52]. Theo từ điển pháp
luật Việt Pháp: “Litige” - vụ tranh chấp được giải thích như sau: Người ta nói
tới vụ tranh chấp khi mà một người không được hưởng một quyền hay lợi ích
hợp pháp của mình bằng thỏa thuận và dự định đưa vụ việc ra Tòa án phân xử
[21]
Dưới góc độ pháp lí, tranh chấp đất đai lần đầu được định nghĩa tại
Luật đất đai 2003 và cũng được quy định lại tại Luật đất đai 2013 với nội
dung “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”[33]
Vậy, từ những phân tích trên có thể hiểu: tranh chấp đất đai là sự bất
đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai.
1.1.2. Phân loại tranh chấp đất đai
Trước những năm 1980, Nhà nước ta thừa nhận nhiều hình thức sở hữu
đối với đất đai: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân... Do đó ở
thời kỳ này tranh chấp đất đai bao gồm: Tranh chấp về quyền sở hữu đất đai,
quyền quản lý và sử dụng đối với đất đai. Sau Hiến pháp 1980 ra đời, Nhà

nước trở thành đại diện chủ sở hữu duy nhất đối với toàn bộ vốn đất đai trong
cả nước, do đó các tranh chấp đất đai hiện nay chỉ bao gồm tranh chấp về
quyền quản lý và sử dụng đất đai. Theo quy định của pháp luật hiện hành có
ba loại hình tranh chấp đất đai:
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất đai;
+ Tranh chấp về tài sản có liên quan đến quyền sử dụng đất;
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến địa giới đơn vị
hành chính (xã, huyện, tỉnh).

9


Tuy nhiên, trên thực tế thường xuất hiện dạng tranh chấp đất đai phổ
biến sau đây: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất; Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Tranh chấp hợp đồng cho
thuê quyền sử dụng đất; Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất;
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất; Tranh chấp do lấn, chiếm đất; Tranh
chấp về cản trở việc thực hiện quyền sử dụng đất.
1.1.3. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh
những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai cũng mang
những đặc điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp
lao động, tranh chấp kinh tế... Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ có thể là chủ thể của
quyền quản lý và quyền sử dụng đất mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu
đất đai. Quyền sử dụng đất của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định
giao đất, cho thuê đất của Nhà nước hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển
nhượng từ các chủ thể khác hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất
hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của tranh chấp

đất đai là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản
lý hoặc người sử dụng đất.
Thứ hai, nội dung của tranh chấp đất đai rất đa dạng và phức tạp. Hoạt
động quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng,
phong phú với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích,
nhu cầu sử dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử
dụng đất không đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất.
Đất đai đó trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất
lại biến động theo quy luật cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử

10


dụng nó không đơn thuần chỉ là việc khai thác giá trị sử dụng mà cũng bao
gồm cả giá trị sinh lời của đất (thông qua các hành vi kinh doanh quyền sử
dụng đất). Tất nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức
tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử dụng
đất đai cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn.
Thứ ba, tranh chấp đất đai phát sinh gây hậu quả xấu về nhiều mặt như:
Có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn
kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất,
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp
mà cũng gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý và quyền sử
dụng đất. Đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các
bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp về ranh giới quyền sử
dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.
Như đã nêu trên, ranh giới quyền sử dụng đất chính là việc phân chia
giới hạn quyền năng sử dụng đất cụ thể đối với một thửa đất, quyền năng này

được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện đối với các chủ thể sử dụng đất
trong quá trình khai thác và sử dụng. Vậy, tranh chấp ranh giới quyền sử
dụng đất là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể khi thực hiện việc phân chia giới hạn quyền năng
sử dụng đất cụ thể đối với một thửa đất.
Từ những đặc điểm của tranh chấp đất đai, có thể khái quát những đặc
điểm cơ bản của tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất như sau:
Thứ nhất, chủ thể tranh chấp đất đai là chủ thể quản lý và sử dụng đất,
không có quyền sở hữu đối với đất đai. Quyền sử dụng đất của các chủ thể
được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của Nhà nước hoặc

11


được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, QSDĐ hợp pháp của
cá nhân là tài sản của cá nhân; QSDĐ hợp pháp của tổ chức là tài sản của tổ
chức. Mặt khác, như đã phân tích quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản
và mang đặc tính của tài sản vô hình [35,38]. Như vậy, giới hạn phân chia
quyền năng sử dụng đất hoàn toàn dựa trên cơ sở quyền sử dụng đất được
Nhà nước trao cho, người sử dụng đất được thực hiện các giao dịch chuyển
quyền sử dụng đất, trong đó có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì
vậy, khi tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất xảy ra thì chủ thể tranh
chấp trong trường hợp này chỉ là chủ thể có quyền sử dụng đất chứ không
phải là chủ thể có quyền sở hữu đất đai.
Thứ hai, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử
dụng và những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng đất đai theo quy định của
pháp luật. Đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các
bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Đối tượng của tranh
chấp được biểu hiện dưới dạng vật quyền chứ không phải bản thân đất đai.
Tuy nhiên, xuất phát từ quyền sử dụng đất là một loại tài sản đặc biệt nên đối

tượng của tranh chấp ranh giới QSDĐ là quyền và lợi ích phát sinh từ việc
quyền năng của chủ sử dụng đối với thửa đất hoặc giải quyết hậu quả quyền
năng này bị xâm phạm hoặc không có căn cứ để xác định phạm vi quyền năng
đối với thửa đất đó, mà không hoàn toàn là một loại tài sản hữu hình cụ thể.
Thứ ba, tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất nói riêng cũng như
tranh chấp đất đai nói chung như đã phân tích không chỉ ảnh hưởng đến lợi
ích trực tiếp của các bên tham gia tranh chấp, mà còn phát sinh gây tác động
xấu đến trật tự kinh tế - xã hội và ảnh hưởng đến lợi ích, hoạt động quản lý
trật tự hành chính của Nhà nước đối với đất đai. Mà đất đai còn là một trong
những lĩnh vực nhạy cảm của xã hội, bởi vậy những tranh chấp đất đai kéo
theo nhiều hệ lụy đối với các bên trong tranh chấp, xã hội và Nhà nước.

12


Trong những dạng tranh chấp đất đai phổ biến nêu trên, có thể khái
quát những dạng tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất cơ bản như sau:
Một là, tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất do một hoặc cả hai bên
chiếm dụng đất của nhau. Theo đó, các chủ thể có bất động sản liền kề có
hành vi làm sai lệch ranh giới quyền sử dụng đất, chiếm dụng đất của nhau
xâm hại đến quyền sử dụng đất hợp pháp của chủ thể còn lại dẫn đến tranh
chấp ranh giới quyền sử dụng đất;
Hai là, tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất do việc cản trở quyền sử
dụng đất. Theo đó, với quyền sử dụng đất chủ sử dụng đất theo quy định của
pháp luật đất đai, pháp luật dân sự còn có các quyền đối với các bất động sản
liền kề1. Và tranh chấp trong trường hợp này đó là việc hạn chế sử dụng các
bất động sản liền kề hoặc lấn chiếm xâm phạm ranh giới các mốc ranh giới
được xác định là tài sản chung của các chủ sở hữu bất động sản liền kề;
Ba là, tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất do những yếu tố khách
quan tác động của tự nhiên như sự xói mòn đất, thiên tai bão lũ…dẫn đến việc

mất đi ranh giới quyền sử dụng đất dẫn đến khó xác định và có thể có hành vi
xâm phạm quyền sử dụng đất dẫn đến tranh chấp.
1.2.3. Nguyên nhân phát sinh ranh chấp về ranh giới quyền sử
dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.
Nguyên nhân khách quan
Tranh chấp đất đai ở nước ta phát sinh có nguồn gốc sâu xa do lịch sử
để lại. Ở miền Bắc, sau Cách mạng tháng 8 và sau năm 1953, Đảng và Chính
phủ đã tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của
thực dân, phong kiến, thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân.
1

Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để
bảo đảm các nhu cầu của mình về lối đi, cấp, thoát nước, cấp khí ga, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và
các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý, nhưng phải đền bù, nếu không có thoả thuận khác. Xem thêm
Điều 273 Bộ luật dân sự 2005.

13


Năm 1960, thông qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp, ruộng đất của
người nông dân được đưa vào làm tư liệu sản xuất chung trở thành sở hữu tập
thể, do đó tình hình sử dụng đất đai tương đối ổn định.
Ở miền Nam, sau hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm tình hình sử
dụng đất đai có nhiều diễn biến phức tạp hơn. Trong chín năm kháng chiến,
Chính phủ đã tiến hành chia ruộng đất cho người nông dân hai lần vào các
năm 1949 - 1950 và năm 1954, nhưng đến năm 1957, ngụy quyền Sài gòn đã
thực hiện cải cách điền địa, thực hiện việc "truất hữu" nhằm xóa bỏ thành quả
của cách mạng, gây ra những xáo trộn về quyền quản lý ruộng đất của người
nông dân. Sau khi thống nhất đất nước, năm 1975, Nhà nước đã tiến hành hợp
tác hóa nông nghiệp, đồng thời xây dựng hàng loạt các lâm trường, nông

trường, trang trại. Những tổ chức đó bao chiếm quá nhiều diện tích đất nhưng
sử dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua hai lần điều chỉnh ruộng đất vào các
năm 1977 - 1978 và năm 1982- 1983, với chính sách chia cấp đất theo kiểu bình
quân, "cào bằng" đã dẫn tới những xáo trộn lớn về ruộng đất, về ranh giới, số
lượng và mục đích sử dụng đất đai.
Khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế
quản lý làm cho đất đai thì đất đai ngày càng trở nên có giá trị. Dưới góc độ kinh
tế, đất đai được coi như một loại hàng hóa trao đổi trên thị trường theo quy luật
cung cầu, quy luật giá trị. Đây là quy luật tự nhiên, nhưng đối với đất lại không
được thừa nhận một cách dễ dàng ở nước ta trong một thời gian khá dài. Do vậy
Nhà nước chưa kịp thời có các chính sách để điều tiết và quản lý có hiệu quả.
Từ khi nhà, đất trở nên có giá trị cao đã tác động đến tâm lý của nhiều
người dẫn đến tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho
thuê, cho mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng hoặc khi
thực hiện một số chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước đây mà không có
các văn bản xác định việc sử dụng đất ổn định của họ.

14


Nguyên nhân chủ quan
Về cơ chế quản lý đất đai
Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn bị buông
lỏng, nhiều sơ hở, có khi phạm sai lầm, giải quyết tùy tiện, sai pháp luật.
Trong cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch hóa cao độ, Nhà nước phân
công, phân cấp cho quá nhiều ngành, dẫn đến việc quản lý đất đai thiếu chặt
chẽ, nhiều sơ hở. Có thời kỳ mỗi loại đất do một ngành quản lý dẫn đến việc
tranh chấp về đất thuộc quyền quản lý của nhiều ngành khác nhau.
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy
hoạch chung, có sự phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý đất đai khá rõ.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều sai phạm, non kém về trình độ
quản lý của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai. Điều này góp phần
làm xuất hiện nhiều tranh chấp đất đai phức tạp, khó giải quyết. Cụ thể:
- Hồ sơ địa chính chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nên thiếu căn cứ pháp lý
và thực tế để xác định quyền sử dụng và quản lý đất đai của tổ chức, cá nhân,
đặc biệt là ở những vùng mà quan hệ đất đai phức tạp và có nhiều biến động.
Trong nhiều trường hợp, việc tranh chấp đất đai lại bắt nguồn từ những tài
liệu lịch sử của chế độ cũ để lại. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến
hành theo một quy trình chặt chẽ, nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất
lạc.
- Quy hoạch sử dụng đất đai chưa đi vào nề nếp, nên nhiều trường hợp
sử dụng đất không hợp lý khó bị phát hiện. Khi phát hiện thì lại không được
xử lý kịp thời. Nhiều địa phương còn có những nhận thức lệch lạc về chính
sách đất đai, quản lý đất đai còn nặng về biện pháp mệnh lệnh hành chính mà
chưa chú ý đến biện pháp quản lý về mặt kinh tế.
- Một số nơi ban hành văn bản pháp lý đất đai không rõ ràng, hoặc chủ
trương sai lầm của một số cán bộ đã làm cho một bộ phận nhân dân hiểu lầm

15


là Nhà nước có chủ trương "trả lại đất cũ", trả lại đất ông cha, dẫn đến việc
khiếu kiện đòi lại đất ngày càng nhiều.
Về công tác cán bộ công chức thực hiện công vụ liên quan đến đất
đai
Một bộ phận cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý đất đai đã
thực hiện không tốt nhiệm vụ được giao, thiếu gương mẫu, lạm dụng chức
quyền, vì lợi ích riêng tư, bị kẻ xấu lợi dụng để "đục nước béo cò", thực hiện
những âm mưu đen tối, gây mất ổn định xã hội.
Lợi dụng chủ trương điều chỉnh ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo cơ

chế mới, một số cán bộ, đảng viên lợi dụng sơ hở trong các chế độ, chính sách
đất đai của Nhà nước và dựa vào chức quyền để chiếm dụng đất đai trái phép,
gây bất bình trong nhân dân. Đặc biệt, ở những nơi nội bộ mất đoàn kết thì lại
lấy vấn đề đất đai làm phương tiện để đấu tranh với nhau, một số phần tử xấu
lợi dụng cơ hội này để bao chiếm đất đai hoặc kích động gây chia rẽ nội bộ và
gây mất ổn định về tình hình chính trị- xã hội, làm mất uy tín của tổ chức
Đảng và chính quyền.
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết tranh chấp đất đai ở nhiều
nơi, nhiều lúc còn hữu khuynh, mất cảnh giác. Chẳng những hồ sơ đất đai không
đầy đủ, mà việc đăng ký nhân khẩu, hộ khẩu ở nông thôn cũng chưa chặt chẽ,
kẻ xấu có điều kiện để hoạt động dễ dàng. Khi phát hiện những kẻ cầm đầu,
tổ chức gây rối, kích động vi phạm pháp luật thì lúng túng trong xử lý, nương
nhẹ trong thi hành pháp luật, không tổ chức được lực lượng quần chúng cốt
cán đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực, mà trái lại, để quần chúng bị bọn
xấu lôi kéo. Tổ chức Đảng và chính quyền trở thành người bị động, phải chạy
theo giải quyết những vụ việc đã xảy ra hoặc xử lý những hậu quả nặng nề.
Về đường lối chính sách, pháp luật về đất đai

16


Chính sách đất đai và các chính sách khác có liên quan đến đất đai chưa
đồng bộ, có mặt không rõ ràng và đang còn biến động. Thực tế áp dụng các
chính sách đất đai còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản
xuất nông nghiệp thì thiếu ruộng đất, ngược lại, người có ruộng lại không có
khả năng hoặc nhu cầu sản xuất, để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém
hiệu quả. Tình trạng người nông dân phải ra các đô thị bán sức lao động, gây
mất ổn định cơ cấu lao động sản xuất cũng có nguyên nhân từ việc thiếu đất để
sản xuất.

Thực tiễn đã chứng minh những sai lầm trong phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp như nóng vội, gò ép, đưa quy mô hợp tác xã (HTX) nhỏ lên quy
mô HTX lớn không phù hợp với trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở đã dẫn đến hậu quả là đất đai sử dụng bừa
bãi, lãng phí và kém hiệu quả.
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp được đổi mới,
người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, đòi hỏi phải có một
diện tích đất nhất định để sản xuất. Do đó đã xuất hiện tư tưởng đòi lại đất để sản
xuất. Chính sách đất đai chưa phù hợp, chậm đổi mới đã tạo cơ sở cho việc lấn
chiếm đất đai diễn ra khá phổ biến, song chưa được giải quyết và xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, việc Nhà nước chia, tách, nhập hoặc thành lập mới những
đơn vị hành chính trong những năm gần đây dẫn đến việc phân địa giới hành
chính không rõ ràng, cụ thể làm cho tình hình tranh chấp đất đai ngày càng
phức tạp và gay gắt hơn.
Về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật
Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai chưa
được coi trọng, làm cho nhiều văn bản pháp luật đất đai của Nhà nước chưa
được phổ biến sâu rộng trong nhân dân.

17


Tuy nhiên, việc tranh chấp đất đai ở mỗi địa phương khác nhau còn có
những nguyên nhân đặc thù và việc tìm ra những nguyên nhân đó phải căn cứ
vào thực tế sử dụng đất, và phong tục tập quán của từng địa phương để xây
dựng được những giải pháp tốt nhất nhằm giải quyết có hiệu quả từng vụ
tranh chấp. Song trên thực tế khía cạnh này chưa được các cơ quan nhà nước
chú trọng, xem xét.
1.2.4. Ý nghĩa của phòng ngừa tranh chấp về ranh giới quyền sử
dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất

Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội, quản
lý nền kinh tế nhưng nếu Nhà nước chỉ ban hành pháp luật mà không có
những biện pháp bảo đảm được thực hiện thì pháp luật cũng không thể phát
huy được vai trò tác dụng của mình. Vì thế, cùng với việc ban hành pháp luật,
Nhà nước còn đảm bảo cho pháp luật được thi hành.
Việc xem xét giải quyết đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với đất đai và là nhũng biện pháp để pháp luật đất
đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết
tranh chấp đất đai, mà các quan hệ đất đai được điều chỉnh cho phù họp với
lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của người sử dung đất, cần giáo dục ý
thức pháp luật cho công dân để ngăn ngừa những vi phạm pháp luật khác có
thể xảy ra. Với ý nghĩa đó thì việc giải quyết tranh chấp đất đai là tìm ra giải
pháp đúng cho cơ sở pháp luật nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân. Trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp cho bên bị xâm hại.
Mặt khác, tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất trên thực tế số lượng tương
đối nhiều, các tranh chấp thường diễn ra giữa những chủ thể có mối quan hệ
gần gũi gắn bó là những người hàng xóm hoặc anh chị em trong gia đình
được chia đất liền kề nhau hoặc tính chất của tranh chấp mang tính lịch sử lâu
đời do đó dạng tranh chấp này khá phức tạp.

18


Bởi vậy, phòng ngừa tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa
các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không chỉ là việc bảo đảm quyền lợi hợp
pháp cho các bên bị xâm hại mà còn là việc mang ý nghĩa đảm bảo trật tự xã
hội duy trì tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, làng xóm.
1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp về
ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.
1.3.1. Những tác động và ảnh hưởng của tranh chấp về ranh giới

quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân tới đời sống và trật tự
an toàn xã hội và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với việc
giải quyết tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất giữa các hộ gia
đình, cá nhân sử dụng đất.
Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xem xét giải quyết tranh chấp đất
đai là một trong những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai phát huy
được vai trò trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết tranh chấp đất
đai, Nhà nước điều chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà
nước và của xã hội. Đồng thời, giáo dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật
cho mọi công dân, ngăn ngừa những vi phạm pháp luật có thể xảy ra. Giải
quyết tranh chấp đất đai, với ý nghĩa là một nội dung của chế độ quản lý nhà
nước đối với đất đai, được hiểu là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, nhằm tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật, nhằm
giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên, khôi phục lại quyền lợi cho bên
bị xâm hại. Đồng thời xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Như
vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng đúng đắn các quy định của
pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất.
Sự cần thiết khách quan phải giải quyết tranh chấp ranh giới quyền sử
dụng đất thể hiện ở hai điểm như sau:

19


×