Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phân tích mua sắm công điện tử ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.2 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu .....................................................................................................................2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................................3
1.1.Các khái niệm.............................................................................................................4
1.2. Lợi ích của mua sắm công điện tử...............................................................................4
1.3. Khó khăn của mua sắm công điện tử..........................................................................5
1.4. Các hệ thống mua sám công điện tử chủ yếu..............................................................6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG MUA SẮM CÔNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
........................................................................................................................................... 7
2.1. Giới thiệu khái quát về hệ thống mua sắm điện tử ở Việt Nam...................................7
2.2. Quy trình mua sắm công điện tử

..........................................................................9

2.3. Thành quả của mua sắm công điện tử của Việt Nam.................................................12
2.4. Hạn chế của mua sắm công điện tử ở Việt Nam........................................................14
2.5. Những cơ hội và thách thức của hệ thống mua sắm công điện tử ở Việt Nam..........15
2.6. Những đề xuất giải pháp...........................................................................................16
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 17
Tài liệu tham khảo...........................................................................................................18

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, sự quản lý của nhà nước ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng để những chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà nước được triển khai thực hiện trong nhân dân thì đây là vấn
đề mà nhà nước cần quan tâm. Các nước tiên tiến về công nghê thông tin như Mỹ, Canada
là những nước nói sớm nhất về chính phủ điện tử, từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Hầu
hết các nước triển khai thực hiện chunhs phủ điện tử đã nhận thấy rằng việc thực hiện


chính phủ điện tử đã đem lại nhiều hiệu quả và lợi ích cho đất nước. Vì vậy nhiều nước
trên thế giới đã triển khai chính phủ điện tử và trên thực tế đã đem lại hiệu quả to lớn cho
các nước đó.
Ở nước ta, khái niệm chính phủ điện tử còn khá mới mẻ, lạ lẫm. Nhân dân hầu như
không biết tới chính phủ điện tử là gì. Qúa trình triển khai thực hiện chính phủ điện tử ở
Việt Nam vẫn ở giai đoạn khởi đầu và còn rất nhiều công việc cần thiết nữa để triển khai
thành công chính phủ điện tử ở Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu về chính phủ điện tử là vấn
đề cần thiết trong quá trình hội nhập với nền kinh tế như ngày nay.

2


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Các khái niệm
— Mua sắm công (Public Procurement), hoặc mua sắm chính phủ (Govemment
Procurement) là mua sắm của chính phủ, là những khoản chi tiêu của các cơ quan
chính phủ để mua hàng hóa, dịch vụ cho việc sử dụng của chính mình và cung cấp
dịch vụ công. Mua sắm công là một trong các vấn đề cốt lõi của cải cách khư vực
công, dịch vụ công.
— Mua sắm công là mua sắm của chính phủ, là những khoản chi tiêu của các cơ quan
chính phủ để mua hàng hóa, dịch vụ cho việc sử dụng của chính mình. Ví dụ một
cơ quan chính phủ mua ô tô, lắp hệ thông điều hòa nhiệt độ, xây dựng trụ sở mới,
thuê dịch vụ tổ chức hội nghị,... đó chính là những hoạt động cụ thể của mua sắm
chính phủ.Đó là việc chi tiêu của các cơ quan nhà nước, là việc cơ quan nhà nước
bỏ tiền để mua hàng hóa, dịch vụ hoặc xây dựng các công trình... phụ vụ cho hoạt
động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công.
— Chi tiêu chính phủ của các nước hàng năm chiếm từ 10%-20% GDP của mỗi nước
(ví dụ của EU chiếm khoảng 16% GDP, Ý chiếm khoảng 11,9%, trong khi Hà Lan
chiếm khoảng 21,5%). Giá trị mua sắm công là rất lớn đối với một quốc gia. Hàng
năm các quốc gia phải dành rất nhiều thời gian và nguồn lực để tiến hành tổ chức

đấu thầu mua sắm công.
— Việc ứng dụng TMĐT vào mua sắm công được gọi là mua sắm công điện tử.
1.2. Lợi ích của mua sắm công điện tử
— Tiết kiệm chi phí: Chi phí giao dịch được giảm thiểu như chi phí in giấy tờ, in ấn,
lưu trữ thông tin, giảm chi phí đi lại, gặp gỡ của các bên.
Tự động hóa các quy trình đấu thầu giúp giảm thiểu chi phí giao dịch cho cả bên mời
thầu và nhà thầu. Nhà thầu không cần phải đi lại để mua hồ sơ mời thầu và nộp hồ sơ dự
thầu, việc này không chỉ giúp nhà thầu tránh được những rủi ro khi đi mua hồ sơ, mà còn
tiết kiệm được thời gian và chi phí đi lại. Hơn nữa, chi phí giao dịch trong quá trình tổ
chức đấu thầu giảm đáng kể nhờ công nghệ internet rẻ hơn so với cách làm truyền thống
như in ấn, và giúp giảm bớt giấy tờ nói chung. Ngoài ra, khi tham gia vào hệ thống, sau
khi đăng tải thông báo mời thầu bên mời thầu có thể bán ngay hồ sơ mời thầu mà không
phải chờ một khoảng thời gian nhất định. Đây là quy định mới đang được dự thảo và trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
— Thời gian thực hiện được rút ngắn: Không lệ thuộc vào thời gian, không gian
— Nâng cao tính minh bạch trong mua sắm công, phòng chống tham nhũng, chống
tình trạng móc ngoặc, thông đồng, hối lộ.
Hệ thống đấu thầu điện tử (e-GP) tạo ra luồng thông tin thông suốt và minh bạch cũng
như khả năng tiếp cận thông tin và dịch vụ một cách dễ dàng, thuận tiện. Những thông tin
3


này bao gồm các quy định về pháp luật, chính sách và hướng dẫn liên quan đến hoạt động
mua sắm công và các thông tin đấu thầu (như kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết
quả đấu thầu, kiến nghị trong đấu thầu…). Nhờ giảm được sự sai lệch về thông tin đấu
thầu, e-GP góp phần thúc đẩy cạnh tranh trên phương diện số lượng (sự tham gia) và chất
lượng (công khai và công bằng).
Một hệ thống đấu thầu điện tử có thể tự động hóa các quy trình đấu thầu bắt buộc, do
đó cả bên mời thầu và nhà thầu không thể làm chệch hướng được các quy trình này như
cách làm truyền thống. Ngoài ra, e-GP có thể xử lý quy trình đấu thầu trực tuyến và thu

thập mọi dữ liệu về hoạt động đấu thầu một cách tự động, do vậy sự tiếp xúc trực tiếp
giữa bên mời thầu và nhà thầu là không cần thiết. Theo đó, giúp Chính phủ giảm thiểu cơ
hội tham nhũng.
— Thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, chọn nhà thầu tốt, mở
rộng không gian và thời gian đấu thầu.
Thật vậy, hình thức đấu thầu trong mua sắm công tạo nên một thị trường cạnh tranh
bình đẳng đối với tất cả các doanh nghiệp. Để tham gia vào thị trường đòi hỏi doanh
nghiệp phải năng động và có khả năng về trình độ, năng lực chuyên môn, đội ngũ cán bộ
quản lý giỏi, năng động, luôn tiếp cận và cọ sát với thị trường, đội ngũ nhân công có
chuyên môn và tay nghề cao, khả năng áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất
kinh doanh. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và máy móc thiết bị thi công đồng bộ, hiện
đại để đáp ứng nhu cầu thị trường. Cung cấp hàng hóa dịch vụ thông qua hình thức đấu
thầu là động lực mạnh mẽ giúp cho các nhà thầu trong nước tham gia vào thị trường mang
tính cạnh tranh, là điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam có đủ điều kiện và cơ hội hội
nhập với khu vực và thế giới.
— Tăng cường tiếp cận thông tin, xử lý thông tin nhanh chóng, tinh giảm quy trình
đấu thầu...
— Cải thiện hiệu quả công tác đấu thầu, tăng hiệu quả chi tiêu của chính phủ.
— Thúc đẩy phiết triển kinh tế, phù hợp với hội nhập quốc tế.
Ví dụ: cam kết của Việt Nam khi tham gia các hiệp định thương mại như Hiệp định
Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA) của
WTO... là phải kiểm soát tính minh bạch, công khai trong đấu thầu.
— Minh bạch về giá: Minh bạch về giá bằng cách công khai kết quả đấu thầu trên
mạng đã tránh được tình trạng ký hợp đồng với giá quá cao và giúp điều chỉnh giá
hàng hóa, dịch vụ theo giá thị trường.
— Kích thích cạnh tranh và thông báo mời thầu công khai trên mạng là công cụ hữu
ích cho các doanh nghiệp khối tư nhân tiếp cận và tham gia gói thầu, qua đó tăng
sự cạnh trang và giảm giá gói thầu.
— Đổi mới quy trình quản lý đấu thầu, là một bước tiến giúp cải cách thủ tục hành
chính và quản lý nhà nước

4


— Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình công khai hóa thông tin và quy
trình đấu thầu giúp thu thập những dữ lieeuh, thông tin đấu thầu một cách dễ dàng
hơn, tạo cơ sở cho việc giám sát và đưa ra các quyết định sau này.
1.3. Khó khăn của mua sắm công điện tử
— Phải có sự thay đổi tích cực trong tổ chức vận hành mua sắm công.
— Phải có sự thay đổi trong quản lý, điều hành với một cam kết chung xuyen suốt bộ
máy chính phủ liên kết với cộng đồng doanh nghiệp.
— Tâm lý và sự quan ngại của số đông những người tham gia hoạt động đấu thầu do
lo mất việc làm khi chuyển sang đấu thầu điện tử.
— Vấn đề hạ tầng CNTT cho phép nhà thầu tham gia được vào hệ thống
— An ninh mạng là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của chủ đầu tư và nhà
thầu: chính phủ phải có nỗ lục đáng kể để đảm bảo với chủ đầu tư rằng hệ thống an
ninh của hệ thống mạng hoàn toàn được bảo đảm
— Mua sắm công điện tử giúp gia tăng tính minh bạch tuy nhiên. Do máy móc không
thể thay thế được hoàn toàn cho con người nên tham nhũng vẫn còn có thể len lỏi
vào những công đoạn, thao tác do con người trực tiếp đảm nhiệm. Một trong số
những kẽ hở và nhà thầu vẫn có khả năng móc nối, thông đồng với một số cá nhân
trong hội đồng chấm thầu; trường hợp người phụ trách cung cấp trước thông tin
cho nhà thầu và trước đấu thầu có tổ chức đấu thầu sơ bộ, nên các nhà thầu vẫn có
thể móc nối, bàn bạc trước để tìm cách lợi dụng; khi các doanh nghiệp được nhà
nước giao sản xuất các sản phẩm đặc biệt, quy trình đấu thầu sẽ đơn giản hơn, tuy
nhiên, việc xác định danh mục hàng hóa đặc biệt này do con người quy định nên
khâu xác định các tiêu chí này này vẫn có thể chịu tác động và tham nhũng vẫn có
thể xảy ra.
1.4. Các hệ thống mua sắm công điện tử chủ yếu
Tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà trong đó chủ yếu là tính chất, khối lượng hàng hóa,
dịch vụ cần mua sắm mà các cơ quan chính phủ có thể sử dụng các hệ thống mua sắm

công điện tử như đấu thầu điện tử, mua sắm qua hệ thống báo giá và mua sắm qua hệ
thống hợp đồng.

5


Các hệ thống mua sắm công điện tử
Tất cả các loại
mua sắm

Mua sắm với giá
trị dưới 100 tỷ
đồng

Mua sắm hàng
hóa và dịch vụ
thường

Thông tin
mua sắm
HT danh mục SP của nhà cung
ứng

HT tài liệu mời thầu và đấu thầu
điện tử

HT báo giá

HT hợp đồng cung ứng
điện tử


HT đặt hàng và thanh toán điện tử

6


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG MUA SẮM CÔNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM
2.1. Giới thiệu khái quát về hệ thống mua sắm điện tử ở Việt Nam
2.1.1. Lịch sử phát triển
Ứng dụng thương mại điện tử (TMĐT) trong mua sắm chính phủ là xu thế tất yếu
trước sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin (CNTT). Nhiều quốc gia trên
thế giới đã triển khai thành công mô hình này và đem lại hiệu quả cao cho chi tiêu của
chính phủ như Hàn Quốc, Vương Quốc Anh, Úc… Nhận thức được tầm quan trọng đó,
ngày 15/9/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 222/2005/QĐ-TTG về
việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010 và
giao Bộ KH&ĐT nghiên cứu triển khai đề án Ứng dụng thương mại điện tử trong mua
sắm chính phủ.
Ngày 19/6/2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và KOICA ký kết văn kiện dự án hỗ trợ kỹ
thuật “Xây dựng hệ thống mua sắm chính phủ điện tử thử nghiệm tại Việt Nam”, tại địa
chỉ dựa trên Hệ thống mua sắm chính phủ điện tử của Hàn
Quốc (KONEPS) và được tối ưu hóa phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong
giai đoạn thí điểm, Hệ thống do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý và vận hành cung cấp cho
người sử dụng đầy đủ các chức năng từ đăng tải kế hoạch đấu thầu, sơ tuyển, thông báo
mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu, lập biên bản mở thầu cho đến đăng tải kết quả đấu thầu, kiến
nghị trong đấu thầu… để lựa chọn nhà thầu thông qua 4 hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu
thầu hạn chế, chào hàng cạnh tranh, và chỉ định thầu.
Ngày 14/1/2009, Bộ KH&ĐT thông qua dự án xây dựng hệ thống mua sắm chính
phủ điện tử thử nghiệm theo quyết định số 94/QĐ-BKH với tổng mức đầu tư 3.370.766
USD, trong đó KOICA tài trợ không hoàn lại 3.000.000 USD và 370.766 USD là vốn đối

ứng của Chính phủ Việt Nam. Mục tiêu của dự án là xây dựng hợp phần e-bidding (đấu
thầu điện tử). Đây là hợp phần cốt lõi phục vụ cho công tác đấu thầu chuyên nghiệp, đảm
bảo tối đa hiệu quả và minh bạch.
Ngày 03/9/2009, được sự chấp thuận của Thủ tướng chính phủ tại văn bản số
6059/VPCP-KTN về chủ trương triển khai thí điểm đấu thầu qua mạng từ năm 2009 đến
2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tích cực
hướng dẫn thực hiện thí điểm đấu thầu qua mạng tại UBND TP Hà Nội, Tập đoàn Bưu
chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, và các các cơ quan có nhu cầu.
Ngày 04/9/2009 tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức lễ bàn giao hệ thống
mua sắm Chính phủ điện tử thử nghiệm - EPPS.
Dự án Xây dựng hệ thống mua sắm chính phủ điện tử thử nghiệm do Cơ quan Hợp
tác phát triển Hàn Quốc (KOICA) viện trợ không hoàn lại, là một phần của đề án Ứng
dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ. Cục Quản lý đấu thầu (QLĐT) - Bộ
KH&ĐT - được giao là chủ dự án. Nhà thầu chính là SAMSUNG SDS. Sau 8 tháng triển
khai phân tích, thiết kế và vận hành thử (từ tháng 01 - 8/2009), hệ thống mua sắm chính
phủ điện tử thử nghiệm đã hoàn tất và được bàn giao vào ngày hôm nay.
(Theo THÔNG CÁO BÁO CHÍ - LỄ BÀN GIAO HỆ THỐNG MUA SẮM CHÍNH PHỦ
ĐIỆN TỬ THỬ NGHIỆM của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 04 tháng 9 năm 2009)
7


Ngày 22/7/2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 17/2010/TT-BKH
quy định chi tiết thí điểm đấu thầu qua mạng, tạo cơ sở pháp lý cho các đơn vị thực hiện
đấu thầu qua mạng.
Đấu thầu qua mạng được quy định tại Điều 30 Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11
ngày 19/11/2005 của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, tạo cơ sở pháp lý cao
nhất cho việc triển khai đấu thầu qua mạng tại Việt Nam. Việc ứng dụng thương mại điện
tử trong mua sắm chính phủ nhằm xây dựng Hệ thống đấu thầu điện tử quốc gia nằm
trong Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010 (Quyết định
số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005), Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử

giai đoạn 2011 – 2015 (Quyết định số 1073/2010/QĐ-TTg ngày 12/7/2010) và Chương
trình quốc gia về ứng dụng Công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước
(Quyết định số 1065/QĐ-TTg ngày 27/8/2010) do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Ngày 29/12/2011, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị tổng kết thí
điểm đấu thầu qua mạng giai đoạn 2009-2011 và đề xuất thực hiện đấu thầu qua mạng
giai đoạn tiếp theo.
Trong 3 năm qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức giới thiệu, hướng dẫn về đấu
thầu qua mạng cho hơn 2000 cán bộ từ hơn 500 đơn vị chủ đầu tư, bên mời thầu và nhà
thầu trong cả nước.
Tính đến cuối năm 2011, 3 cơ quan thí điểm và các đơn vị khác trong cả nước đã
thực hiện thành công 55 gói thầu điện tử (toàn bộ các hoạt động như đăng tải kế hoạch
đấu thầu, đăng tải thông báo mời thầu, phát hành hồ sơ mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu, mở
thầu, thông báo kết quả đánh giá… đều được thực hiện trên Hệ thống), đăng tải được hơn
700 kế hoạch đấu thầu, hơn 20.000 thông báo mời thầu (hiện nay tất cả thông báo mời
thầu của các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu hàng ngày đều được
đăng tải trên Hệ thống). Số lượng người dùng đăng ký sử dụng Hệ thống là hơn 1600 Bên
mời thầu và hơn 400 Nhà thầu. Hội nghị cũng bàn và đề xuất kế hoạch thực hiện đấu thầu
qua mạng trong thời gian tới.
Hiện nay trên thế giới, đấu thầu qua mạng đã trở thành xu thế tất yếu của rất nhiều
quốc gia. Theo báo cáo của các nước đã triển khai, đấu thầu qua mạng có thể giúp tiết
kiệm chi phí từ 3% - 20% giá trị đấu thầu mua sắm, trung bình là 10%. Tại Việt Nam,
tổng giá trị các gói thầu thực hiện theo Luật đấu thầu hàng năm khoảng 20% GDP tức hơn
20 tỷ USD. Như vậy, nếu chúng ta triển khai đấu thầu qua mạng cho tất cả các gói thầu
(100%) có thể góp phần tiết kiệm cho ngân sách nhà nước hàng tỷ đôla, góp phần to lớn
thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Quan trọng hơn, đấu thầu qua mạng làm tăng cường tính công khai minh bạch thông
tin trong hoạt động đấu thầu, thể hiện quyết tâm phòng chống tham nhũng của Đảng và
Nhà nước. Đây cũng là sự cam kết của Việt Nam với các nhà tài trợ trên thế giới.
(Theo THÔNG CÁO BÁO CHÍ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 29 tháng 12 năm 2011)
2.1.2. Đặc điểm của hệ thống

Hệ thống mua sắm CP điện tử thử nghiệm (EPPS) được xây dựng dựa trên hệ
thống đấu thầu thầu điện tử của Hàn Quốc (Koneps) và được tối ưu hóa phù hợp với điều
kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong giai đoạn thử nghiệm, EPPS sẽ phát triển hợp phần e8


bidding (đấu thầu điện tử). Theo đó, một loạt các quy trình đấu thầu truyền thống dựa trên
giấy tờ sẽ được thay thế bằng quy trình tự động hóa trên máy tính như đăng tải kế hoạch
đấu thầu, thông báo mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu, lập biên bản mở thầu, đăng tải kết quả
đấu thầu, kiến nghị trong đấu thầu…Trong giai đoạn thử nghiệm EPPS sẽ triển khai 3
hình thức lựa chọn nhà thầu, bao gồm: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chỉ định
thầu áp dụng cho các gói thầu tư vấn, sơ tuyển, mua sắm hàng hóa, xây lắp và EPC.
Thực hiện vai trò là cửa sổ duy nhất trong mua sắm công, bên mời thầu và nhà
thầu chỉ với một lần đăng ký có thể tham gia giao dịch được tất cả các gói thầu trên hệ
thống. Ngoài ra, một đặc điểm ưu việt của hệ thống là khả năng bảo mật cao nhờ áp dụng
hạ tầng khóa công khai cho phép mã hóa và giải mã dữ liệu (hồ sơ dự thầu) sử dụng cặp
khóa chung và khóa riêng (hay khóa bí mật). Bên mời thầu và nhà thầu khi tham gia vào
hệ thống, bắt buộc phải đăng ký chứng thực số (CA) – khoá riêng. Khi đăng tải hồ sơ mời
thầu, bên mời thầu cũng đồng thời cung cấp khoá chung cho nhà thầu. Nhà thầu lập hồ sơ
dự thầu xong sẽ mã hoá hồ sơ dự thầu bằng khoá riêng được cấp ban đầu, và ký bằng
khoá chung – được cấp cùng với hồ sơ mời thầu do bên mời thầu tạo ra. Việc ký bằng
khoá chung này cho phép bên mời thầu mở được hồ sơ dự thầu (giải mã các hồ sơ dự
thầu) với khoá riêng phù hợp (nằm trong cặp khoá chung – khoá riêng của gói thầu đó).
(Theo THÔNG CÁO BÁO CHÍ - LỄ BÀN GIAO HỆ THỐNG MUA SẮM CHÍNH PHỦ
ĐIỆN TỬ THỬ NGHIỆM của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 04 tháng 9 năm 2009)
2.2. Quy trình mua sắm công điện tử
2.2.1 Đăng ký tham gia hệ thống
Người sử dụng là bên mời thầu, nhà thầu muốn tham gia đấu thầu qua mạng phải
đăng ký tham gia Hệ thống theo quy định nêu tại Điều 16, Điều 17 Thông tư này.
Trường hợp đăng tải thành công, người sử dụng sẽ được cấp chứng thư số để đăng
nhập Hệ thống và thực hiện các nghiệp vụ đấu thầu qua mạng trên hệ thống.

2.2.2 Quy trình đăng ký người sử dụng là bên mời thầu :
2.2.2.1 Đăng ký tham gia Hệ thống
Quy trình đăng ký tham gia Hệ thống với vai trò là bên mời thầu bao gồm các bước
sau:
— Khai báo thông tin trên Hệ thống và gửi hồ sơ đăng ký trực tiếp hoặc theo đường
công văn đến Cơ quan vận hành Hệ thống.
— Hồ sơ đang ký bao gồm:
- Đơn đăng ký cấp chứng thư số theo mẫu ( do Hệ thống tạo ra trong quá trình
khai báo thông tin)
- Bản chụp chứng thực Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh của tổ chức đối với trương hợp đề nghị cấp chứng thư số lần đầu;
- Bản chụp chứng thực văn bản thông báo mã sói cơ quan ( nếu có ) theo quyết
định số 90/2007/ QĐ-BTC ngày 20/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Bản chụp chứng minh nhân dân của người đại diện theo pháp luật của cơ
quan, tổ chức đăng ký.
9


2.2.2.2 Xử lý hồ sơ đăng ký
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đăng ký, Cơ quan vận
hành Hệ thống kiểm tra tính chính xác của bản đăng ký điện tử trên hệ thống và hồ sơ
đăng ký bằng văn bản do bên mời thầu gửi đến. Trường hợp hồ sơ hợp lệ, Cơ quan vận
hành hệ thống chấp nhận bên mời thầu được tham gia Hệ thống và xác nhận trên Hệ
thống, trường hợp hồ sơ không chính xác hoặc chưa đầy đủ, Cơ quan vận hành Hệ thống
thông báo lý do trên Hệ thống để bên mời thầu biết bổ sung, sửa đổi hồ sơ, bản đăng ký
trên cho phù hợp.
2.2.2.3 Kiểm tra kết quả xử lý
Bên mời thầu có trách nhiệm tự kiểm tra tình trạng kết quả xử lý trên Hệ thống .
Trường hợp được chấp nhận tham gia Hệ thống, bên mời thầu nhận mã phê duyệt chứng
thư số từ Hệ thống.

2.2.2.4 Đăng ký thông tin người sử dụng chứng thư số
Bên mời thầu nhập mã phê duyệt chứng thư số và số tham chiếu vào Hệ thống để
tải chứng thư số. Tiếp đó, bên mời thầu phải đăng ký thông tin người sử dụng chứng thư
số vào Hệ thống.
2.2.2.5 Đăng nhập và Hệ thống
Sau khi được cấp chứng thư số, bên mời thầu đăng nhập vào Hệ thống và thực hiện
các quyền của người sử dụng là bên mời thầu
2.2.3 Quy trình đăng ký người sử dụng là nhà thầu
Quy trình đăng ký người sử dụng là nhà thầu cũng giống như quy trình đăng ký
người sử dụng là bên mời thầu. Các bước đăng ký gồm:
2.2.3.1 Đăng ký tham gia hệ thống
Quy trình đăng ký tham gia Hệ thống với vai trò là nhà thầu bao gồm các bước
sau:
— Khai báo thông tin trên hệ thống và gửi hồ sơ đăng ký trực tiếp hoặc theo đường
công văn đến Cơ quan vận hành Hệ thống
— Hồ sơ đăng ký bao gồm:
- Đơn đăng ký cấp chứng thư số theo mẫu ( do hệ thống tạo ra trong quá trình
khai báo thông tin )
- Bản chụp chứng thực Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh của tổ chức đối với trường hợp đề nghị cấp chứng thư số lần đầu
- Bản chụp chứng minh nhân dân người đại diện theo phấp luật của tổ chức đăng
ký.
2.2.3.2 Xử lý hồ sơ đăng ký
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đăng ký, Cơ quan vận
hành Hệ thống kiểm tra tính chính xác của thông tin khai báo trên Hệ thống với hồ sơ
đăng ký. Trường hợp thông tin khai báo trên Hệ thống là chính xác , Cơ quan vận hành
10


Hệ thống xác nhận trên Hệ thống không chính xác hoặc chưa đầy đủ, Cơ quan vận hành

Hệ thống thông báo lý do trên hệ thống để nhà thầu biết bổ sung, sửa đổi hồ sơ, bản đăng
ký trên cho phù hợp.
2.2.3.3 Kiểm tra kết quả xử lý
Nhà thầu có trách nhiệm tự kiểm tra tình trạng kết quả xử lý trên Hệ thống .
Trường hợp được chấp nhận tham gia Hệ thống, nhà thầu nhận mã phê duyệt chứng thư
số và số tham chiếu để tải chứng thư số từ hệ thống
2.2.3.4 Đăng ký thông tin người sử dụng chứng thư số
Nhà thầu nhập mã phê duyệt chứng thư số và số tham chiếu vào Hệ thống để tải
chứng thư số. Tiếp đó, bên mời thầu phải đăng ký thông tin người sử dụng chứng thư số
vào Hệ thống
2.2.3.5 Đăng nhập và Hệ thống
Sau khi được cấp chứng thư số, bên mời thầu đăng nhập vào Hệ thống và thực hiện
các quyền của người sử dụng là nhà thầu
2.2.4 Quy trình tìm kiếm trên trang chủ:
Ở phần đầu trang chủ, người dung nhập từ khóa cần tìm , sau đó nhấn nút [ Tìm
kiếm ], hệ thống sẽ hiển thị kết quả tìm kiếm. Nội dung chi tiết sẽ được trình bày ở các
mục dưới đây.
 Kế hoạch đấu thầu:
—Tiêu chỉ tìm kiếm:
Tìm kiếm trên các trường thông tín sau : Tên dự án, Tên chủ đầu tư, Cơ quan
ban hành
—Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “Kế hoạch”, và nhấn vào nút
[Tìm kiếm ], sẽ cho kết quả.
 Thông báo mời sơ tuyển
—Tiêu chỉ tìm kiếm:
Tìm kiếm trên các trường thông tin sau:
- Tên thông báo mời sơ tuyển
- Tên bên mời thầu
- Tên chủ đầu tư
—Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “ sơ tuyển “, và nhấn nút [Tìm

kiếm], sẽ cho kết quả.
 Thông báo mời thầu
—Tiêu chỉ tìm kiếm:
Tìm kiếm trên các trường thông tin sau:
- Tên gói thầu
- Tên bên mời thầu
- Tên chủ đầu tư
11


—Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “ mời thầu “, và nhấn nút [Tìm
kiếm], sẽ cho kết quả.
 Kết quả mở thầu
—Tiêu chỉ tìm kiếm:
Tìm kiếm trên các trường thông tin sau:
- Tên thông báo Mời sơ tuyển
- Tên bên mời thầu
- Tên chủ đầu tư
—Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “ CN Tổng Công ty Điện lực TP
Hồ Chí Minh TNHH- Công ty điện lực Tân Thuận“, và nhấn nút [Tìm kiếm], sẽ
cho ra kết quả .
 Kết quả đấu thầu
—Tiêu chỉ tìm kiếm:
Tìm kiếm trên các trường thông tin sau:
- Tên thông báo Mời sơ tuyển
- Tên bên mời thầu 6/8
- Tên chủ đầu tư
—Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “ Điện lực“, và nhấn nút [Tìm
kiếm], sẽ cho kết quả.
2.3. Thành quả của mua sắm công điện tử của Việt Nam

Ở Việt Nam định hướng xây dựng hệ thống mua sắm công điện tử đã được xác định.
Hệ thống đấu thầu điện tử Việt Nam được xác định là một trong tám chương trình trọng
tâm của Chính phủ và việc ứng dụng đấu thầu điện tử là một cố gắng quan trọng của Việt
Nam trong lĩnh vực mua sắm công.
Từ năm 2016 đến nay bộ KH&ĐT đã xây dựng và khuyến khích các chủ đầu tư
đăng tải công khai thông tin, chuyển trực tiếp qua web: . Riêng
trong năm 2008đã có rất nhiều thông tin đấu thầu được đăng tải và nhận được phản hồi
tích cực từ các chủ đầu tư do tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí.
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao, bộ KH&ĐT đã triển khai lập báo cáo nghiên
cứu khả thi dự án “Xây dựng hệ thống mua sắm chính phủ điện tử thử nghiệm”. Nhiệm
vụ chủ yếu của dự án là thiết lập hệ thống lõi của đấu thầu qua mạng và vận hành thử
nghiệm. Thông qua đó bộ KH&ĐT và các cơ quan tham gia thực hiện dự án có thể rút
kinh nghiệm, đưa ra định hướng phát triển hệ thống đấu thầu qua mạng toàn diện. Dự án
hỗ trợ kĩ thuật này là tiền đề quan trọng cho dự án: ứng dụng thương mại điện tử trong
mua sắm chính phủ.
Năm 2009 bộ KH&ĐT với sự trợ giúp của chính phủ Hàn Quốc mà đại diện là cơ
quan hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đã tiến hành xây dựng hệ thống đấu thầu điện
tử thử nghiệm tại địa chỉ: . Tuy gặp rất nhiều khó khăn về
cơ sở hạ tầng nhưng với quyết tâm chính trị của chính phủ và bộ KH&ĐT cũng như các
12


đơn vị tham gia thí điểm (UBND TP Hà Nội , tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam,
tập đoàn dầu khí Việt Nam, UBND tỉnh Bắc Ninh). Tính đến năm 2011 ba cơ quan thí
điểm này và các đơn vị khác đã thực hiện thành công 55 gói thầu điện tử, 700 kế hoạch
đấu thầu và hơn 20000 thông báo mời thầu. Hiện số lượng người đăng kí sử dụng hệ
thống đã lên tới 1600 bên mời thầu và hơn 400 nhà thầu…
Từ năm 2010 đến nay Bộ kế hoạch và tài chính Hàn Quốc đã và đang giúp Bộ kế
hoạch và đầu tư Việt Nam về “ Hệ thống thử nghiệm mua sắm chính phủ điện tử Việt
Nam”. Qua 2 năm triển khai hợp phần đầu tiên trong 4 hợp phần( gồm:đấu thầu qua

mạng, mua sắm qua mạng,kí hợp đồng qua mạng và thanh toán qua mạng) cục quản lý
đấu thầu đã tổ chức đấu thầu thành công nhiều đấu thầu qua mạng tạo cơ sở quan trọng
ban đầu để mở rộng thí điểm và triển khai các nội dung tiếp theo. Tổng gía trị thực đấu
thầu mua sắm công của Việt Nam trong năm 2010 lên tới 14,78 tỷ USD đã có trên 450 trị
giá lên 77 nghìn tỷ đồng đã áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế.
Tính đến 8/5/2012 trên hệ thống đã có 3469 bên mời thầu và 980 nhà thầu đăng kí,
đăng tải 1056 kế hoạch đấu thầu, 28193 gói thầu (gồm 18693 gói hàng hóa,8765 gói xây
lắp, 682 gói dịch vụ và 54 gói EPC) đã có 189 gói thầu được triển khai đấu thầu qua
mạng.
Trên cơ sở dự án hợp tác với Hàn Quốc sau khi triển khai xong hợp phần 1 và
chuyển sang giai đoạn 2, hàng hóa không thuộc diện mua sắm chính phủ cũng sẽ có điều
kiện phát triển hơn nữa. Nhiều hoạt động gần đây đã thể hiện quyết tâm cố gắng của Việt
Nam để dần thực hiện hóa nội dung này.
Ngày 27/7/2012 Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 32/2012/QĐ-TTg phê
duyệt quy hoạch phát triển viễn thông quốc qia đến năm 2020, trong đó mục tiêu đảm bảo
an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin cho các hoạt động chính phủ,
thương mại điện tử”.Định hướng phát triển về mạng lưới cũng đề cập tới kế hoạch “ phát
triển mạng viễn thông dùng riêng của các cơ quan, tổ chức trên cơ sở tận dụng tối đa cơ
sở hạ tầng của mạng viễn thông công cộng, đặc biệt là mạng truyền dẫn trong nước của
các doang nghiệp vi các mạng viễn thông, tăng cường năng lực cho các mạng viễn thông
dùng riêng cho phục vụ cơ quan Đảng, nhà nước, quốc phòng an ninh”.
Đối với dự án hợp tác Hàn Quốc về mua sắm công điện tử, hiện nay bộ kế hoạch và
đầu tư tiếp tục hợp tác triển khai phần 2. Bộ xây dựng Việt Nam đang phối hợp với tổ
chức hợp tác quốc tế Nhật Bản-JICA xây dựng các danh mục nhà thầu uy tín phục vụ cho
đấu thầu trong nước và quốc tế. Từ 4 cơ quan gồm : UBND TP.Hà Nội,Tập đoàn bưu
chính viễn thông Việt Nam, tập đoàn điện lực Việt Nam , tập đoàn dầu khí Việt Nam sau
đó thêm UBND tỉnh Bắc Ninh) được chọn là thí điểm trong hợp phần 1 mô hình sẽ được
nhân rộng trong thời gian tới
13



Mua sắm công điện tử trực tuyến được xác định là một giải pháp tích cực để phòng
ngừa tham nhũng trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ.Theo thông tin từ ông Lê Văn
Tăng, Cục trưởng Cụ đấu thầu cho biết “ mục tiêu phòng chống tham nhũng, công khai,
minh bạch trong mua sắm công là không thay đổi nên chắc chắn việc đấu thầu qua mạng
sẽ được triển khai rộng rãi hơn trong tương lai”.
2.4. Hạn chế của mua sắm công điện tử ở Việt Nam
2.4.1 Còn nhiều hạn chế về hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin, viễn thông.
Hiện nay, đa số các cơ quan Nhà nước sử dụng thư điện tử trong hoạt động chỉ đạo,
điều hành, tăng cường phương tiện điện tử thay cho giấy tờ. Nhiều cơ quan sử dụng hệ
thống quản lý văn bản và trao đổi văn bản trên môi trường mạng giúp tăng năng suất lao
động, tiết kiệm thời gian và chi phí.
Theo Cục Ứng dụng công nghệ thông tin, hiện nay tỷ lệ cán bộ ở các cơ quan cấp
bộ, cơ quan ngang bộ được trang bị máy tính là 88,5% (trên 80% máy tính kết nối
Internet). Phần lớn các bộ và các tỉnh, thành phố có trang, cổng thông tin điện tử riêng.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông (tại Báo cáo đánh giá Trang/Cổng thông tin
điện tử và mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các bộ, cơ quan ngang bộ và các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2011), hiện nay các trang/cổng thông tin điện
tử của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
đang ngày càng cung cấp đầy đủ và kịp thời những thông tin chủ yếu theo quy định.
Về cung cấp dịch vụ trực tuyến, năm 2008 mới có 6 tỉnh, thành phố cung cấp
khoảng 30 dịch vụ, đến năm 2011 đã có 38 tỉnh, thành phố cung cấp 829 dịch vụ mức độ
3, trong đó có 02 thành phố cung cấp 08 dịch vụ mức độ 4 (đánh giá theo 4 mức độ quy
định tại Điều 3, Thông tư số 26/2009/TT-BTTTT ngày 31/7/2009 của Bộ Thông tin và
Truyền thông quy định các mức độ dịch vụ công trực tuyến của cơ quan hành chính nhà
nước cung cấp cho tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng), số lượng hồ sơ tiếp nhận và
xử lý qua dịch vụ công trực tuyến đang ngày càng tăng, tuy nhiên số lượng người dân sử
dụng các dịch vụ công này còn chưa cao.
2.4.2 Còn nguy cơ về kém an toàn thông tin mạng:
Theo Bộ Thông tin và truyền thông, đánh giá ngẫu nhiên 100 webstite tên miền

cơ quan nhà nước “gov.vn” của Hiệp hội An toàn thông tin hiện có tới 78% số website có
thể bị tấn công thay đổi nội dung hoặc có thể bị đánh sập bất cứ lúc nào; 54% đối với các
cơ quan nhà nước có hệ thống an toàn thông tin không có khả năng ghi nhận các hành vi
thử tấn công. Năm 2011, mới chỉ có khoảng 35% cơ quan, tổ chức xây dựng và áp dụng
chính sách an toàn thông tin và thực trạng các cổng, trang thông tin điện tử của các cơ
quan nhà nước còn tồn tại nhiều lỗ hổng, chưa áp dụng giải pháp đảm bảo an toàn thông
tin phù hợp.
2.4.3 Còn nhiều vấn đề trong xây dựng lòng tin giữa các bên:
14


Sự tin cậy được xem là yếu tố quyết định nhất và cũng khó khăn nhất trong xúc
tiến thị trường đấu thầu mua sắm công. Qua mạng thông tin điện tử, việc xây dựng và
công bố công khai danh sách các nhà thầu cung cấp hàng hóa cũng như xây lắp có uy tín
với đầy đủ thông tin về tín dụng và các thông tin cơ bản liên quan sẽ giúp các chủ đầu tư
trong nước biết được năng lực thực sự của các nhà thầu, từ đó có thể tự tin lựa chọn danh
sách ngắn để đấu thầu. Đối với các nhà thầu quốc tế có liên danh với nhà thầu trong nước,
đây cũng là cánh cửa mở để họ biết được đâu là nhà thầu có năng lực, đáng tin cậy để hợp
tác. Đây là nội dung chúng ta làm chưa được nhiều.
2.5. Những cơ hội và thách thức của hệ thống mua sắm công điện tử ở Việt Nam
2.5.1.Cơ hội:
Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục ký kết các hiệp định kinh tế trong đó
có Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương – CPTPP (2016)một trong những yêu cầu
bắt buộc đối với các nước gia nhập Hiệp định TPP là phải mở cửa thị trường mua sắm
công, không phân biệt đối xử doanh nghiệp trong và ngoài nước. Việc này sẽ thúc đẩy đấu
thầu điện tử phát triển, giảm tham nhũng trong đầu tư công, tăng hiệu quả công tác đấu
thầu, cải thiện chi tiêu của chính phủ.
Ký kết hiệp định TPP tạo sân chơi bình đẳng, công khai và minh bạch giữa các nhà
thầu trong và ngoài nước.Gia tăng số lượng nhà dự thầu sẽ thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh
giữa các doanh nghiệp, chọn được nhà thầu tốt, mở rộng không gian, thời gian đấu thầu.

Cạnh tranh khốc liệt bắt buộc doanh nghiệp nhà nước cũng như trong nước phải nâng cao
hiêu quả làm việc, tăng khả năng thích ứng. Thúc đẩy cơ sở hạ tầng pháp lý ngày càng
hoàn thiện.
Hiện nay Chính phủ cũng rất chú trọng phát triển hệ thống luật pháp về đấu thầu
điện tử, viêc này sẽ làm tăng thêm lòng tin của doanh nghiệp, tăng số lương doanh ngiệp
tham gia thầu. Công khai minh bạch trong mua sắm công làm tăng uy tín của chính phủ
và được nhân dân ủng hộ. Hệ thống đấu thầu điện tử phát triển dần dần sẽ dẫn đến sự phát
triển của hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao công tác quản lý, hiệu quả làm việc, thúc
đẩy phát triển kinh tế.
2.5.2.Thách thức:
Bên cạnh những cơ hội mang lại cũng có không ít thách thức mà Việt Nam phải
đối mặt. Ký kết các hiệp định mở cửa thị trường, tự do hóa thương mại như Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương – CPTPP (2016) khiến cho doanh nghiệp Việt Nam đối mặt
với sự cạnh tranh gay gắt. Doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân;
doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Đặc biệt là trong các
vụ thầu lớn, nhà thầu Việt Nam được cho là có ít lợi thế hơn đối tác nước ngoài về năng
15


lực cạnh tranh, giá cả, kinh nghiệm, công nghệ,... Hơn nữa Việt Nam có nhiều hạn chế về
ngôn ngữ, hiểu biết pháp luật, năng lực cạnh tranh chưa cao làm khả năng tiếp cận với thị
trường mua sắm công của các đối tác khác trong Hiệp định TPP ít khả thi.
Mở cửa thị trường mua sắm chính phủ ở trong nước cũng ảnh hưởng tới doanh
nghiệp nhà nước đang hưởng lợi từ sự đóng cửa, điều này có thể gây thâm hụt ngân sách
nhà nước. Việt Nam có thể phải đối mặt với việc mất cân đối cán cân thanh toán, vì sẽ cần
một lượng ngoại tệ lớn để có thể chi trả cho các nhà thầu quốc tế.
Luật đấu thầu điện tử của Việt Nam còn nhiều thiếu xót, tạo cơ hội cho kẻ xấu nắm
sơ hở để trục lợi, gây khó khăn cho các nhà thầu tham gia. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa
có một cơ quan giải quyết tranh chấp khiếu nại về hoạt động đấu thầu một cách độc lập,
việc giám sát thực thi luật đấu thầu còn nhiều hạn chế.

Hạ tầngcông nghệ thông tin chưa được đồng bộ hoàn toàn và còn nhiều hạn chế,
gây khó khăn cho các nhà thầu muốn tham gia. Cùng với đó, vấn đề an ninh mạng cần
phải được chú trọng hơn nữa, đảm bảo thông tin cho các bên. Tại một số bộ phận, cá nhân
vẫn còn tâm lý quan ngại về việc phát triển đấu thầu điện tử do lo sợ mất việc làm, ảnh
hưởng đến lợi ích.
2.6. Những đề xuất giải pháp.
Để làm tốt những nội dung, yêu cầu của mua sắm công điện tử trước mắt chính
phủ cần:
Xây dựng một nền tảng hạ tầng kỹ thuật, công nghệ đủ mạnh để bảo đảm tính an
toàn, bảo mật của thong tin cũng như vận hành được hệ thống Chính phủ điện tử một cách
dễ dàng, tiện lợi.
Hiện nay, hệ thống đấu thầu điện tử của ta vẫn chưa thể kết nói, tương tác với các
cơ quan bộ, ngành khác để triển khai các hoạt động như thanh toán, bảo lãnh, đánh giá
năng lực nhà thầu… khiến một số chức năng như kiểm tra thông tin đăng ký, thanh toán
qua mạng…chưa thể thực hiện trực tuyến. Thực trạng này cho thấy, vấn đề lớn của chính
phủ hiện nay là làm thế nào kết nối được các bộ phận và điều phối để cho các bộ phận só
thể tích hợp lại với nhau theo một quy trình thống nhất. Cấu trúc cơ sở dữ liệu quốc gia là
một trong những yếu tố được đánh giá là cựu kỳ quan trọng để xây dựng thành công hệ
thống Chính phủ điện tử, để mua sắm công trực tuyến có thể dựa vững chắc trên nền tảng
quan trọng này.
Bên cạnh việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhà nước cần tích cực nâng cao
hiệu quả của phòng chống tham nhũng, lãng phí trong mua sắm công.
Đồng thời nhà nước ta cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
xu hướng hiện đại, thay đổi nhận thức về đấu thầu điện tử, tuyên truyền về hiệu quả đấu
thầu qua mạng; cải thiện hạ tầng công nghệ, nâng cao dung lượng đường truyền; ban hành
16


những quy định cụ thể về đấu thầu qua mạng, đẩy mạnh việc đào tạo nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực…


17


KẾT LUẬN
Hiểu đúng nghĩa thì chính phủ điện tử là mơ ước của tất cả các quốc gia trên thế
giới. Vì vậy bất cứ nước nào dù là tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa đều cần phải xây
dựng chính phủ điện tử. Bởi chính phủ điện tử không chỉ làm thay đổi bản chất chế độ mà
nước đó đang theo đuổi mà còn giúp cho nước đó nâng cao vị thế của mình. Có nhiều
cách để xây dựng chính phủ điện tử, mỗi nước có một chiến lược phát triển chính phủ
điện tử khác nhau phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nước đó. Một nước nghèo như
nước ta không thể áp dụng chiến lược chính phủ điện tử như Mỹ, Australia, hay
Singapore. Nếu áp dụng dập khuôn sẽ dẫn tới thất bại vì nó không phù hợp với hoàn cảnh
kinh tế xã hội nước ta. Vì vậy có xây dựng chính phủ điện tử thành công hay không chủ
yếu phụ thuộc vào việc đề ra một chiến lược hợp lý hay không, và phải được chuẩn bị kĩ
càng.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nghiên cứu chiến lược chính phủ điện tử của các
nước này. Từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng. Con đường mà các nước đã đi qua trong lộ trình trển khai chính phủ điện tử mất
một khoảng thời gian khá dài, hy vọng một nước đi sau như nước ta sẽ không phải mất
nhiều thời gian như vậy. Muốn vậy, Việt Nam phải tự tìm ra những hướng đi thích hợp
trong ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào việc nâng cao hiệu quả và hiệu
lực của chính quyền các cấp, đồng thời từng bước cung cấp dịch vụ công cho ngời dân
qua internet nhằm tạo ranhuwngx điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp cũng như tiết kiệm thời gian và sức lực của người dân trong quan
hệ cới chính phủ.
Chính phủ điện tử ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, tức là giai đoạn ứng dụng công
nghê thông tin cho bộ máy Chính phủ hoạt động có hiệu quả hơn, cung cấp các thông tin
chính phủ phục vụ đời sống xã hội, tin học hóa quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy
nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt Nam là phải thực hiện những bước đi hợp lý, thực

hiện các biện pháp cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng chuyển sang giai đoạn tiếp theo của
chính phủ điện tử. Để thực hiện điều này cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ
sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, xây dựng và có kế hoạch hợp lý chặt chẽ đề
án chính phủ điện tử, loại bỏ những trở ngại tâ mli strong chính phủ và tích cực tuyên
truyền để nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp dân chúng về chính phủ điện tử. Hi vọng
rằng trong thời gian sắp tới những người dân Việt Nam sẽ được hưởng những lợi ích to
lớn mà chính phủ điện tử đem lại.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Slide bài giảng môn Chính phủ điện tử trường Đại học Thương Mại.
Trang web:
Trang web :
Trang web “Hệ thống đấu thầu điện tử”
Thông cáo báo chí của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

19


20



×