Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Anh chị hãy phân tích các trường hợp hợp đồng vô hiệu mà anh chị biết?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.91 KB, 8 trang )

Đề Bài: Anh chị hãy phân tích các trường hợp hợp đồng vô hiệu mà anh
chị biết?
Bài Làm: Các trường hợp hợp đồng vô hiệu trong hợp đồng dân sự theo
Bộ Luật Dân Sự số 91/2015/QH13 ban hành ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017, được thể hiện như sau:
Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận đạt được giữa các bên trên cơ sở
nguyên tắc tự do ý chí. Khi xem xét đến yếu tố thỏa thuận hay ưng thuận, cần
kiểm tra liệu ý chí hai bên đã thống nhất (gặp nhau) hay chưa và nếu đã có sự
thống nhất rồi, liệu sự thống nhất đó có bị khiếm khuyết hay không. Vì sự nhầm
lẫn, lừa dối, đe dọa sẽ khiến cho sự ưng thuận của các bên trong quan hệ hợp
đồng không còn chính xác nữa nên đây là những nguyên nhân khiến cho hợp
đồng có thể vô hiệu.
*. Nhầm lẫn.
Thật khó có thể đưa ra một định nghĩa pháp lý về nhầm lẫn, nhầm lẫn là
“niềm tin không phù hợp với thực tế”, một số ý kiến khác lại cho rằng nhầm lẫn
là “sự khác biệt giữa ý chí nội tâm và ý chí biểu hiện bên ngoài”. Tựu chung lại,
sự nhầm lẫn làm cho sự thể hiện ra bên ngoài của ý chí một trong các bên không
phù hợp với ý chí đích thực bên trong của họ khiến cho sự thỏa thuận đạt được
đã bị khiếm khuyết, và vì vậy, về nguyên tắc, mọi sự nhầm lẫn đều làm cho hợp
đồng vô hiệu vì đã không có sự thống nhất ý chí giữa các bên. Tuy nhiên, nhằm
mục đích bảo đảm sự ổn định của giao lưu dân sự, nhà làm luật chỉ chấp nhận
nhầm lẫn là nguyên nhân khiến hợp đồng vô hiệu trong một số trường hợp nhất
định. Luật pháp một số nước thường chia sự nhầm lẫn – nguyên nhân khiến hợp
đồng vô hiệu ra ba loại:
+ Nhầm lẫn về bản chất hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ là B cho mình
mượn tài sản, B lại nghĩ mình gửi giữ tài sản cho A);
+ Nhầm lẫn về đối tượng của nghĩa vụ của hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ
bán cho B lô đất 1, trong khi B lại nghĩ A bán cho mình lô đất 2; hoặc A và B ký
kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa, A tưởng phải giao hàng hóa tại địa điểm X,
trong khi B nghĩ A phải giao hàng tại địa điểm Y…).
hợp đồ+ Nhầm lẫn về các yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa


thuận của các bên (thực chất, ở đây muốn nói tới nhầm lẫn về một động cơ nào
đó khiến một người muốn ký kết hợp đồng). Về nguyên tắc, nhầm lẫn về một
yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể là
nguyên nhân khiến hợp đồng vô hiệu khi yếu tố này đã được bên kia chú ý tới,
trừ phi, căn cứ vào bản chất hợp đồng và hoàn cảnh cụ thể, đó là một yếu tố hiển
nhiên. Vì vậy, một người mua một bức tượng chỉ vì anh ta nhầm tưởng rằng bức


tượng này đã từng được tác giả trưng bày ở salon chỉ có thể yêu cầu Tòa án
tuyên hợp đồng vô hiệu nếu anh ta đã từng nói tại sao anh ta lại có ý định mua
bức tượng đó với người bán.
Không theo cách tiếp cận bằng việc phân chia các loại nhầm lẫn, tại Điều
131 bộ Luật Dân sự, chỉ quy định khi một bên, do lỗi vô ý của bên kia, nhầm lẫn
về nội dung của giao dịch mà xác lập giao dịch thì có quyền yêu cầu bên kia
thay đổi nội dung của giao dịch đó; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay
đổi của bên bị nhầm lẫn thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu. Như vậy, theo luật Việt Nam, bên bị nhầm lẫn phải chứng
minh được nguyên nhân dẫn đến nhầm lẫn là do lỗi của bên kia.
*. Lừa dối.
Điều 132 Bộ Luật Dân sự định nghĩa: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi
cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao
dịch đó”. Từ định nghĩa này, có thể rút ra hai yếu tố của lừa dối, về mặt chủ
quan, lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc bên thứ ba, về mặt khách quan,
hành vi đó đã khiến cho bên kia bị nhầm lẫn nên đã giao kết.soan t hop dong
Mặt chủ quan của hành vi lừa dối.
Hành vi cố ý của người lừa dối thường được biểu hiện dưới dạng một thủ
đoạn gian dối, lời nói dối, ví dụ, người bán nói dối về nguồn gốc, xuất xứ của
hàng hóa bán… Lừa dối trong dân luật khác với khái niệm “lừa đảo” trong hình
luật. Hẳn nhiên, không có sự khác biệt về bản chất, nhưng có sự khác nhau về

mức độ giữa lừa dối và lừa đảo. Một hành vi lừa đảo là một hành vi lừa dối song
một hành vi lừa dối không nhất thiết bị coi là một hành vi lừa đảo. Vì vậy, sự lừa
dối có thể dẫn tới chế tài dân sự, ngay cả khi người lừa dối không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sự lừa dối phải xuất phát từ một ý định lừa dối
rõ ràng. Trong kinh doanh, các thương nhân thường tìm cách giới thiệu mặt hàng
của mình bằng những quản cáo hấp dẫn nhiều khi xa với thực tế. Những lời
quảng cáo này không bị xem là hành vi lừa dối bởi lẽ, một mặt, bản thân người
mua cũng phải có nghĩa vụ cẩn trọng hay nói cách khác, nghĩa vụ tự tìm hiểu và
đánh giá thông tin; mặt khác, vì sự ổn định của các giao lưu dân sự, thương mại,
luật pháp không thể đi xa tới mức bảo vệ đến cả sự “ngây thơ” của một bên giao
kết.
Sự im lặng của một bên có bị coi là lừa dối? Trước kia, trong một thời
gian dài, người ta quan niệm “im lặng không phải là lừa dối”. Tuy nhiên, một
hành vi cố ý có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động,
vì vậy, sự im lặng của một bên sẽ bị xem là lừa dối nếu thông tin bị che giấu là


thông tin mà người đó có nghĩa vụ phải thông báo, đông thời phía bên kia không
biết và không buộc phải biết. Như vậy, việc người bán không tiết lộ thông tin
nhà, đất đem bán nằm trong diện quy hoạch của Nhà nước có thể được xem như
là một hành vi lừa dối.h dong dan su
Mặt khách quan của hành vi lừa dối.
Hành vi lừa dối phải gây ra sự nhầm lẫn cho phía bên kia. Sự nhầm lẫn
của một bên là hậu quả của sự cố ý của bên kia. Nếu như nhầm lẫn do bản thân
người ký kết hợp đồng bị giới hạn ở những nhầm lẫn về “nội dung” của hợp
đồng thì nhầm lẫn do sự lừa dối của bên kia có phạm vi rộng hơn, đó là nhầm
lẫm về chủ thể giao kết, về tính chất của đối tượng và về nội dung của hợp đồng.
*. Đe dọa.
Đe dọa trong giao dịch dân sự được hiểu là “hành vi cố ý của một bên hoặc
người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh

thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình
hoặc của cha mẹ, vợ chồng, con của mình”. Như vậy, người đe dọa có thể là một
bên trong giao dịch hoặc người thứ ba. Sự đe dọa phải có tính chất nghiêm
trọng, ảnh hưởng lớn đến ý chí của bên kia, khiến bên kia sợ hãi mà phải giao
kết. Học thuyết các nước thường cho rằng sự sợ hãi phải xuất phát từ một sự đe
dọa trái pháp luật. Vì vậy, nếu một bên đe dọa sẽ kiện bên kia ra tòa nếu bên kia
không trả nợ không phải là đe dọa khiến giao dịch bị vô hiệu.
Một chủ thể được quyền trực tiếp tham gia một quan hệ pháp luật khi có
đầy đủ năng lực chủ thể, được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành
vi. Năng lực pháp luật gắn liền với quyền của chủ thể (chủ thể có được phép
thực hiện quyền đó hay không) chứ không gắn với khả năng thực hiện quyền đó.
Không có năng lực pháp luật, vì vậy, được hiểu là một chủ thể không được phép
làm một việc nào đó, kể cả thông qua người đại diện. Nói cách khác, không có
năng lực pháp luật thực chất là trường hợp pháp luật không cho phép một chủ
thể được thực hiện một số quyền nhất định. Cho nên, việc xử lý những trường
hợp không có năng lực pháp luật chính là việc xử lý nội dung hợp đồng vi phạm
điều cấm của pháp luật theo Điều 122 khoản 2 BLDS. Đó là lý do Điều 122
khoản 1 chỉ quy định về điều kiện năng lực hành vi.
Cá nhân tham gia giao kết hợp đồng không có năng lực hành vi.
* .Người chưa thành niên:luat suhinh su
Đối với người chưa thành niên, pháp luật có quy định các trường hợp cụ thể
sau: Người chưa thành niên dưới 6 tuổi được coi là không có năng lực hành vi,
vậy mọi giao dịch của trẻ em dưới 6 tuổi có thể vô hiệu vì người giao kết không
có năng lực hành vi.luat s


+ Người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được coi là có
“năng lực hành vi một phần” vì chỉ được phép tự mình tham gia những giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, còn đối với các
giao dịch khác, phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Như vậy,

các giao dịch không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày mà không được
người đại diện theo pháp luật đồng ý có thể vô hiệu vì người giao kết không có
năng lực hành vi.luật sư
+ Người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, nếu có tài sản
riêng đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được phép tự mình xác lập, thực hiện
các giao dịch, trừ những giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật, chẳng hạn việc lập di chúc phải được sự đồng ý
của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Như vậy, trong trường hợp này, chỉ các giao
dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật
mới có thể vô hiệu vì lý do người giao kết không có năng lực hành vi.
*. Người mất năng lực hành vi dân sự:văn phòng luật sư
Đối với các giao dịch do người mất năng lực hành vi dân sự giao kết, theo
yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của người này, Tòa án tuyên giao dịch
đó vô hiệu. Một người như thế nào bị coi là mất năng lực hành vi? Điều 22
BLDS quy định thủ tục một người bị coi là mất năng lực hành vi như sau: theo
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
mất năng lực trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. Vậy,
những giao dịch mà người mất năng lực hành vi giao kết trước khi có quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi có thể vô hiệu không? Theo án lệ một số nước,
trong trường hợp này, người đại diện cho người mất năng lực hành vi chỉ cần
đưa ra bằng chứng chứng tỏ vào thời điểm giao kết, sự mất năng lực hành vi
hoặc được biểu hiện một cách hiển nhiên, hoặc được phía bên kia biết mà không
cần phải viện dẫn chứng cứ trực tiếp (giấy giám định, kết luận của bác sỹ…).
BLDS dành Điều 133 để giải quyết vấn đề này, những người vào thời điểm giao
kết một giao dịch dân sự không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì
có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
*. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự:thuê luậsư
Các giao dịch do người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng có thể bị
tuyên vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện của người này.l thua ke
Đối với pháp nhân, tổ chức không có tư cách pháp nhân.

luật sưPháp nhân, tổ chức không có tư cách pháp nhân giao kết, thực hiện các
giao dịch thông qua người đại diện. Giá trị pháp lý, về phương diện chủ thể của


các giao dịch do pháp nhân, tổ chức giao kết sẽ được xem xét trong nội dung đại
diện sau đây:luật sư ly n
* . Vấn đề đại diện.luat suly hon
Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác (người được đại diện) có thể xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự thông qua người khác (người đại diện). Người được đại
diện chỉ có thể bị ràng buộc với giao dịch do người khác đại diện thiết lập trong
những điều kiện sau đây:tim luat s
+ Thứ nhất, về mặt khách quan, người đại diện phải có thẩm quyền đại
diện. Thẩm quyền này có thể do pháp luật quy định (đại diện theo pháp luật)
hoặc do các bên thỏa thuận (đại diện theo ủy quyền). Vì vậy, một bên trong hợp
đồng sẽ không bị ràng buộc bởi hợp đồng này nếu nó được giao kết, thực hiện
thông qua một người mang danh đại diện trong khi trên thực tế người này không
có thẩm quyền đại diện cho họ.tìm luật sư giỏi
+ Thứ hai, về mặt chủ quan, người đại diện phải hành động nhân danh
người đại diện chứ không phải nhân danh chính mình.
+ Cuối cùng, người đại diện phải có đủ năng lực hành vi để có thể thể
hiện chính xác ý chí của người được đại diện, trừ một số trường hợp người đủ
15 đến dưới 18 tuổi được phép đại diện.
Như vậy, về nguyên tắc, người được đại diện chỉ bị ràng buộc bởi giao
dịch do người đại diện xác lập, thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Vậy, số phận của những giao dịch do người không có thẩm quyền đại diện hoặc
vượt quá thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện sẽ như thế nào? Liệu những
giao dịch này có vô hiệu không? Xuất phát từ mục đich bảo vệ bên thứ ba ngay
tình, BLDS cho rằng, về nguyên tắc, giao dịch do người không có thẩm quyền
đại diện vẫn phát sinh hiệu lực giữa bản thân người này với người giao kết phía
bên kia, trừ trường hợp phía bên kia biết hoặc buộc phải biết về việc không có

thẩm quyền đại diện. Tương tự như vậy đối với trường hợp vượt quá thẩm
quyền đại diện, người đại diện phải chịu trách nhiệm đối với phần vượt quá, trừ
trường hợp phía bên kia biết hoặc buộc phải biết việc vượt quá thẩm quyền.
BLDS cũng mở ra một hướng khác để bảo vệ bên thứ ba ngay tình. Người
đại diện sẽ bị ràng buộc bởi giao dịch không đúng thẩm quyền hoặc vượt quá
thẩm quyền nếu có bằng chứng chứng tỏ người này đã đồng ý hoặc biết mà
không phản đối nội dung giao dịch. Vậy, những hành vi nào có thể coi là hành vi
“đồng ý hoặc biết mà không phản đối”? Chúng tôi cho rằng, hành vi đồng ý
không nhất thiết phải được thể hiện bằng văn bản (như việc người đại diện theo
pháp luật sau đó đã cấp giấp ủy quyền, gửi công văn thông báo tiến độ thực hiện


hợp đồng…) mà có thể được suy đoán thông qua một số hành vi, chẳng hạn như
việc các bên đã thực hiện hợp đồng hoặc hưởng lợi ích mà hợp đồng mang lại.
Trước đây, khi quy định điều kiện về nội dung của hợp đồng, BLDS 1995
sử dụng thuật ngữ “nội dung trái pháp luật”. Nay BLDS sửa đổi thành “vi phạm
điều cấm của pháp luật”. Bàn về vấn đề này, chúng tôi sẽ phân tích các nội dung
sau đây:
- Thế nào là điều cấm của pháp luật?
Về nguyên tắc, một giao dịch trái pháp luật được hiểu là giao dịch vi
phạm một quy phạm pháp luật bắt buộc, được soạn thảo thông thường dưới dạng
khắt khe nhất là cấm làm một việc gì đó, hoặc dưới dạng nhẹ hơn là không được
làm hoặc phải làm một việc nào đó. Điều 128 BLDS định nghĩa điều cấm của
pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện
hành vi nhất định. Như vậy, liệu có thể nói, các quy phạm mệnh lệnh soạn dưới
dạng phải làm một việc không bị xem là điều cấm của pháp luật và vì vậy vi
phạm các điều khoản này không dẫn tới hợp đồng vô hiệu? Trên thực tế, trong
nhiều văn bản luật, các giao dịch vi phạm các quy phạm bắt buộc phải làm một
việc vẫn bị coi là vô hiệu. Hơn nữa, còn có một cách hiểu khác, điều luật quy
định phải làm một việc, vậy vế ngầm của điều luật này là không được phép làm

trái với quy định của điều luật đó, nếu như vậy, điều luật này vẫn có thể bị xem
là điều cấm.
Mọi giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật đều bị xem là vô hiệu tuyệt
đối.
+ Tham khảo luật pháp một số nước thì thấy, để xác định tính vô hiệu
tương đối hay tuyệt đối khi nội dung hợp đồng vi phạm một quy phạm bắt buộc
của pháp luật, việc phân định quy phạm “cấm”, quy phạm “phải làm một việc”
hoặc “không được làm một việc” không có mấy ý nghĩa, mà phải căn cứ vào
việc quy phạm bắt buộc này có mục đích bảo vệ lợi ích công cộng hay lợi ích cá
nhân. Nếu quy phạm đó nhằm bảo vệ lợi ích công cộng thì hợp đồng sẽ vô hiệu
tuyệt đối, ngược lại, nếu nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu
tương đối. Ở Việt Nam, mọi trường hợp vi phạm điều cấm đều dẫn đến vô hiệu
tuyệt đối. Chẳng hạn, Điều 476 BLDS quy định về mức lãi suất cho vay tối đa
nhằm tránh việc bên cho vay có thể lợi dụng hoàn cảnh của bên vay để áp đặt
mức lãi suất quá cao. Các Tòa án đề coi điều khoản lãi suất của một hợp đồng
vay tài sản vi phạm Điều 476 BLDS là vô hiệu tuyệt đối. giai quyet tranh chap
- Những trường hợp nào vi phạm điều cấm của pháp luật nên xử lý bằng
chế tài hợp đồng vô hiệu?


+ Nếu điều cấm của pháp luật được định nghĩa như Điều 128 BLDS và
được diễn giải như trên, một câu hỏi cần đặt ra, liệu có phải mọi sự vi phạm
pháp luật của các chủ thể hợp đồng đều dẫn tới sư vô hiệu của hợp đồng không?
Nếu câu trả lời là khẳng định thì hẳn là pháp luật sẽ trở thành vật cản quá lớn
cho sự lưu thông của các giao dịch trong xã hội. Vì vậy, khi phát hiện có một vi
phạm pháp luật nào đó trong một tranh chấp hợp đồng, thẩm phán cần tìm hiểu
kỹ lưỡng mục đích và ý nghĩa xã hội của quy phạm pháp luật bắt buộc đó. Nếu
quy phạm này chỉ nhằm những hoàn cảnh nằm ngoài việc giao kết, thực hiện
hợp đồng, thì việc vi phạm quy phạm đó phải được xử lý bằng chế tài khác như
chế tài phạt hành chính hoặc hình sự chứ không thể bị xử lý bằng một chế tài

dân sự, nghĩa là hợp đồng vẫn “sống”. Trái lại, nếu quy phạm đó trực tiếp liên
quan đến nội dung hợp đồng (chẳng hạn, liên quan tới năng lực pháp luật của
người ký kết hợp đồng hay đối tượng là vật trong hợp đồng mua bán…) hợp
đồng sẽ vô hiệu.giải quyết tranh chấp
+ Trong pháp luật hợp đồng, một trong các nguyên tắc cơ bản là tôn trọng
tối đa quyền tự do ý chí của các bên và hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà
nước, có như vậy mới thúc đẩy được các giao lưu dân sự, thương mại phát triển.
Pháp luật các nước phát triển đều có xu hướng tuân theo phương châm hợp
đồng sinh ra là để thực hiện chứ không phải bị hủy. Chính vì vậy, khi giải quyết
các tranh chấp hợp đồng vô hiệu, các thẩm phán các nước theo hệ thống
Common law đã sử dụng phương pháp “blue pencil” để xác định việc vi phạm
một quy phạm pháp luật bắt buộc nào đó có ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung
của hợp đồng hay chỉ có chủ thể của hành vi vi phạm mới phải chịu một chế tài
khác về hành chính hay hình sự, còn hợp đồng vẫn tồn tại. Nhìn chung, xuất
phát từ triết lý hợp đồng sinh ra là để thực hiện chứ không phải bị hủy và mục
tiêu của pháp luật là bảo đảm sự công bằng, các Thẩm phán phương Tây thường
tìm cách quy chế tài vi phạm một quy phạm pháp luật bắt buộc nào đó thành
một chế tài hành chính (phạt) hoặc hình sự, để vẫn giữ nguyên quan hệ hợp
đồng giữa chủ thể vi phạm quy phạm bắt buộc đó với phía bên kia.
*. Mối quan hệ giữa nội dung hợp đồng và nghĩa vụ hợp đồng.
Điều 282 BLDS quy định về đối tượng của nghĩa vụ. Có mối quan hệ gì
giữa Điều này với Điều 122 khoản 1 điểm b BLDS? Điều 122 khoản 1 điểm b
BLDS chỉ quy định về nội dung của hợp đồng song hợp đồng là một trong các
căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, xem xét đến tính hợp pháp của nội
dung trong hợp đồng, các điều khoản trong hợp đồng thì cũng chính là việc xét
đến đối tượng của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng (được hiểu tài sản, công việc
phải làm hoặc không được làm). Theo Điều 282 BLDS, đối tượng của nghĩa vụ


phải đáp ứng được ba điều kiện: Tính xác định; Tính có thể đem giao dịch được

(đối với tài sản) hay tính có thể thực hiện được (đối với công việc phải làm);
và Tính hợp pháp.luat su
+ Tính có thể xác định được của đối tượng của nghĩa vụ yêu cầu đối
tượng phải được chỉ định đích xác đối với vật đặc định, (thí dụ, việc mua một
bức tranh của họa sỹ X, mua một ngôi nhà tọa lạc tại Z…) hoặc có thể xác định
được về số lượng đối với vật cùng loại (chẳng hạn, A ký hợp đồng mua tôm với
B, trong hợp đồng xác định số lượng mua là 100 kg tôm loại 1 trong ao của B).
Nếu vật không được xác định rõ ràng thì nghĩa vụ không tồn tại vì không có đối
tượng, vì vậy, hợp đồng không tồn tại.
+ Tính có thể đem giao dịch được của tài sản được hiểu là tài sản phải tồn
tại vào thời điểm giao kết, hoặc nếu chưa tồn tại thì phải chắc chắn sẽ có (chẳng
hạn, A có thể ký hợp đồng với B mua một mặt hàng mà B đang sản xuất). Nếu
vật không tồn tại vào thời điểm giao kết hoặc không thể có được trong tương lai,
nghĩa vụ coi như không có đối tượng nên hợp đồng vô hiệu. Đối với nghĩa vụ có
đối tượng là công việc, tính có thể thực hiện trong hợp đồng được hiểu là công
việc đó con người có khả năng làm được. Vì vậy, nếu A hứa sẽ bán cho B thuốc
trường sinh bất tử, nghĩa vụ này được coi như không thể thực hiện được và hợp
đồng vô hiệu. Về điểm này, ngạn ngữ Pháp có câu: “Với một điều không thể
thực hiện được thì không ai phải có trách nhiệm cả!”.van phong luat su
+ Tính hợp pháp của đối tượng nghĩa vụ được hiểu là công việc mà pháp
luật không cấm hoặc được vật được phép lưu thông. Như vậy, một hợp đồng có
nghĩa vụ liên quan đến đối tượng không hợp pháp sẽ vô hiệu và căn cứ để hợp
đồng vô hiệu là Điều 122 khoản 1 điểm b BLDS.
*. Hợp đồng trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.
Một vấn đề khác đặt ra, hợp đồng vô hiệu do có mục đích trái pháp luật
khi cả hai bên đều theo đuổi hoặc biết mục đích trái pháp luật hay chỉ cần một
bên theo đuổi mục đích đó? Tham khảo án lệ của các nước thì thấy trước đây
vấn đề này cũng gợi lên rất nhiều quan điểm khác nhau. Một số luật gia cho
rằng, động cơ trái pháp luật đều phải được hai bên biết. Một số khác lại cho
rằng, điều kiện này chỉ nên đòi hỏi trong các hợp đồng có đền bù. Một số người

lại đưa ra giải pháp tùy thuộc vào sự ngay tình hay không ngay tình của bên yêu
cầu tuyên hợp đồng vô hiệu: bên không biết về tính chất trái pháp luật của hợp
đồng không thể bị tước đi quyền lợi phát sinh từ giao dịch đó. Tuy nhiên, kể từ
khi Tòa án Pháp đưa ra một phán quyết mới, hợp đồng bị coi là vô hiệu tuyệt đối
khi một bên có mục đích trái pháp luật.



×