Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.6 KB, 30 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Công đoàn là một tổ chức rất quan trọng trong các cơ quan, tổ chức tại
Việt Nam. Công đoàn ra đời khi giai cấp công nhân và người lao động ý thức
được sức mạnh của tập thể lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho các thành viên của mình.
Hiện nay, vai trò, vị trí của tổ chức công đoàn được thừa nhận trên
phạm vi toàn xã hội. Trong phạm vi quan hệ lao động ,công đoàn cơ sở thực
hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,chính đáng của đoàn
viên công đoàn, người lao động,tham gia,thương lượng,kí kết và giám sát việc
thực hiện thỏa ước lao động tập thể,thang lương,bảng lương,định mức lao
động,quy chế trả lương…
Ý thức được tầm quan trọng của tổ chức công đoàn nói chung và tổ chức
công đoàn cơ sở nói riêng. Tôi xin thực hiện bài tiểu luận với đề tài “ Vai trò của
tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay”
Trong bài tiểu luận này còn nhiều hạn chế và sai sót. Mong thầy cô
trong nhà trường phê bình và góp ý để bài làm của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin
cám ơn!
Bài tiểu luận của tôi được chia làm 3 chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG
ĐOÀN,CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ
TRONG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN,
CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công đoàn
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đặt cơ sở lý luận và tư tưởng cho việc
thành lập Công đoàn cách mạng Việt Nam. Quá trình hình thành và ra đời của
tổ chức Công đoàn gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động của chủ tịch
Hồ Chí Minh. Những năm tháng hoạt động trong phong trào công nhân và
Công đoàn Quốc tế, Người đã nghiên cứu hình thức tổ chức công đoàn ở các
nước tư bản, thuộc địa và nữa thuộc địa, từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiển đặt
cơ sở lý luận về hình thức tổ chức Công đoàn cách mạng Việt Nam. Trong tác
phẩm; “ Đường cách mệnh” Người đã xác định nhiệm vụ của tổ chức Công
hội (tiền thân của tổ chức Công đoàn Việt Nam ngày nay) là :”Tổ chức Công
hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để
nghiên cứu với nhau; bà là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá
hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là giúp cho quốc
dân, giúp cho thế giới”. Người khẳn định:”Công hội là cơ quan của công nhân
để chống lại chủ nghĩa tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Những lý luận, tư tưởng
của Người được phổ biến rộng rãi trong phong trào công nhân, thông qua lực
lượng ưu tú của phong trào và đã trở thành kim chỉ nam cho giai cấp công
nhân Việt Nam hướng đến thành lập một tổ chức Công đoàn cách mạng. Ngày
28/7/1929 Đại hội đại biểu Công hội đỏ Bắc Kỳ lần thứ nhất họp tại trụ sở của
Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ số 15 Hàng Nón, Hà Nội. Đại hội đã nhất trí thông
qua chương trình, Điều lệ, phương hướng hoạt động của Tổng Công hội đỏ
Bắc kỳ.Sự kiện thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ là một mốc son chói lọi
trong lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. Lần đầu tiên giai
cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể cách mạng rộng lớn, hoạt động có
tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo công nhân
lao động. Theo đề nghị của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, ngày
25/8/1983, Bộ chính trị TW Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định lấy ngày

28/7/1929 là ngày truyền thống của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
3


Ngay sau một năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trong bối cảnh tập trung
chống ”giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, nhưng Người rất quan tâm chăm
lo cho tổ chức Công đoàn và đề ra nhiệm vụ và quyền lợi cho tổ chức công
đoàn hiện nay là : ”Công đoàn Việt Nam phải là một chức vững vàng, có
nhiệm vụ giữ gìn quyền lợi cho công nhân và giúp cho chính phủ trong việc
xây dựng đất nước’’ (bài viết đăng trên Báo Cứu quốc số 390, ngày
29/10/1946). Xác định nhiệm vụ trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động
của tổ chức công đoàn lúc bí mật, lúc công khai lãnh đạo phong trào công
nhân tham gia kháng chiến, kiến quốc. Hoạt động Công đoàn Việt Nam trong
9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) thể hiện tính đa dạng
và toàn diện, đã góp phần tích cực vào cuộc kháng chiến thắng lợi bằng chiến
tháng lịch sử Điện Biên Phủ.
Trong thời kỳ miền Bắc hoàn toàn giải phóng, hoạt động Công đoàn
Việt Nam gắn liền với 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Miền Bắc và đấu tranh giải phóng Miền Nam thống nhất nước nhà. Chủ tịch
Hồ Chí Minh không ngừng quan tâm chỉ đạo hoạt động của tổ chức Công
đoàn. Người chỉ rõ : ’’1. Công đoàn phải tuyên truyền đường lối, chính sách
chung của Đảng, vì Đảng mình là Đảng của giai cấp vô sản, Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, công nhân không có sự lãnh đạo của Đảng thì
không làm cách mạng thành công được, không thắng lợi được. Vậy phải
tuyên truyền sâu rộng chính sách chung của Đảng trong hàng ngũ giai cấp
công nhân. 2. Công đoàn phải giáo dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo
đức cách mạng. 3. Công đoàn và cán bộ công đoàn phải học trước để hiểu biết
khoa học. 4. Nội bộ công nhân phải đoàn kết, nhà máy này đoàn kết nhà máy
khác, cán bộ công nhân Miền Nam và Miền Bắc phải đoàn kết. người ta

thường nói đoàn kết là sức mạnh vô địch, ta kháng chiến thắng lợi cũng nhờ
đoàn kết. Ta đoàn kết nội bộ công nhân, đồng thời cũng cố sự liên minh của
công nhân và nông dân là hai giai cấp lớn nhất, mạnh nhất.5. Công đoàn và
cán bộ công đoàn phải tìm cách này hay cách khác giải thích cho công nhân
4


rõ tình hình trong nước và nước ngoài. 6. Công đoàn phải lãnh đạo, hướng
dẫn công nhân, lãnh đạo phải cụ thể, không quan liêu, phải dân chủ bàn bạc
anh em công nhân. phải kiểm tra, làm mà không kiểm tra không biết kết quả
ra sao, không hiểu sai lệch thế nào để kịp thời sữa chữa’’ (Sách những lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Sự thật – Hà Nội năm 1958, tập 4, trang
43 – 47).
Tại Hội nghị cán bộ công đoàn, ngày 14/3/1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đến dự và phát biểu chỉ rỏ nhiệm vụ của công đoàn :’’Nhiệm vụ của công
nhân và công đoàn hiện nay là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế công
đoàn phải tổ chức, giáo dục, lãnh đạo công nhân tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch của Đảng và chính
phủ đề ra’’. Trong hội nghị cán bộ công đoàn cơ sở toàn Miền Bắc ngày
13/8/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ của công đoàn về
công tác tham gia quản lý xí nghiệp, về tổ chức tốt các phong trào thi đua đẩy
mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham ô, làm tốt
công tác bảo hộ lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho công nhân
lao động, Người chỉ rõ :’’Công đoàn phải làm tốt công tác BHLĐ, phẩi thật sự
chăm nom nơi ăn, nhà ở của CNVC. Công đoàn các cấp cần cải tiến lề lối làm
việc, cần đi sát quần chúng, tăng cường đôn đốc công tác kiểm tra, cần bớt
giấy tờ từng đống và hội họp lu bù. Cán bộ công đoàn cấp trên thường xuyên
đi đến cơ sở để giúp họ một cách thiết thực hơn.’’Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳn
định :’’Muốn tổ chức và phát triển lực lượng to lớn của giai cấp công nhân thì
cần có công đoàn mạnh và cán bộ công đoàn tốt.’’

Đối với người cán bộ công đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ :’’Muốn
xấy dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người XHCN, phải có tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải có tinh thần làm chủ đất nước.
Chống tư tưởng làm thuê, làm mướn ngày trước, vì bây giờ mình làm cho
giai cấp mình, cho con cháu mình. Phải đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc lên
trên lợi ích cá nhân. Chống thói kèn cựa, suy bì, luôn luôn cố gắng tiến bộ
làm tròn nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho‘’ (bài nói chuyện tại Hội
5


nghị cán bộ công đoàn ngày 14/3/1959) . Nói về tồn tại thiếu sót khuyết điểm
của cán bộ công đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn chứng cụ thể, tỉ mĩ những
việc cán bộ công đoàn thiếu quan tâm chỉ đạo. Người nói :’’Công đoàn không
khai hội CNVC, thế là trái chế độ dân chủ, vì vậy mà anh em có nhiều thắc
mắc, ảnh hưởng không tốt đến năng suất lao động; công đoàn chỉ chạy theo
năng suất mà không chú ý đến chất lượng, để công nhân làm ẩu làm bừa’’ Nói
đến chấp hành kỷ luật lao động, chấp hành kỷ luật BHLĐ , Bác chỉ rõ :’’Một
số nới để xãy ra tai nạn lao động, điều đó rất đáng tiếc. Chúng ta phải quý
trọng con người, nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội.
Chúng ta cần phải hết sức bảo vệ, không để xãy ra tai nạn lao động. ’’ Về
chăm lo đời sống tinh thần của công nhân, Bác nói :’’Ở những xí nghiệp,
nông trường, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, anh em công nhân kêu không có
điện ảnh tới. Cái đó là do cán bộ văn hóa không chú ý, nhưng mặt khác cũng
do cán bộ công đoàn không săn sóc đến đời sống tinh thần cho công nhân’’.
Cuối cùng Người cũng chỉ ra cho cán bộ công đoàn thấy rằng :’’Sở dĩ có
những khuyết điểm ấy là do cán bộ công đoàn kém, quan liêu không đi sát
quần chúng, không làm tròn trách nhiện của Đảng và Chính phủ giao cho’’
(bài nói tại hội nghị cán bộ công đoàn ngày 14/3/1959) . Để khắc phục những
tồn tại thiếu sót trên Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ công đoàn :’’Cán
bộ công đoàn phải cố gắng học tập văn hóa, chính trị, nghiệp vụ, kinh tế của

ta ngày nay càng phát triển hàng ngũ công nhân ngày càng thêm đông, muốn
làm tròn nhiệm vụ của mình thì cán bộ phải luôn cố gắng học tập, cố gắng
vươn lên để không ngừng tiến bộ’’ (bài nói tại Hội nghị cán bộ CĐCS toàn
Miền Bắc ngày 13/8/1962).
Nhìn lại chặng đường lịch sử 85 năm Công đoàn Việt Nam phát triển và
trưởng thành, chúng ta càng khẳng định những tài sản vô giá cả về lý luận và
thực tiển của tư tưởng Hồ Chí Minh về Công đoàn và cán bộ công đoàn đã để
lại cho giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Các cấp công đoàn, mỗi
cán bộ công đoàn, đoàn viên, công nhân lao động luôn luôn phấn đấu không
ngừng học tập tư tưởng tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
6


2.Tư tưởng của Lênin về công đoàn
Vấn đề về công đoàn cũng như đảng của giai cấp công nhân phải lãnh
đạo đối với tổ chức công đoàn là vấn đề vô cùng quan trọng. Theo V.I.Lênin,
sự ra đời của tổ chức công đoàn là một tất yếu khách quan, đặc biệt tổ chức
này còn tồn tại lâu dài, kể cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền
và lãnh đạo chính quyền…
Lênin khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức công đoàn,
giáo dục và lãnh đạo công đoàn chính là nhiệm vụ của bất kỳ một đảng cộng
sản nào.
- Sợi dây nối liền giữa Đảng, nhà nước và quần chúng
Chức năng và nhiệm vụ của công đoàn là vấn đề được Lênin đặc biệt
quan tâm. Trước hết, công đoàn chính là nơi thu hút, tập hợp rộng rãi quần
chúng vào hàng ngũ tổ chức của mình để giáo dục, thuyết phục quần chúng,
huấn luyện quần chúng, làm cho quần chúng ủng hộ và tin theo Đảng và Nhà
nước luôn là mục tiêu chiến lược đối với bất kỳ một đảng cộng sản nào trong
mọi giai đoạn cách mạng.Công đoàn là sợi dây nối liền giữa Đảng, Nhà nước
và quần chúng, là trường học của giai cấp công nhân, có nhiệm vụ dạy cho

giai cấp công nhân biết liên hợp lại, đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh bảo vệ quyền
lợi của giai cấp mình, là nơi dạy cho công nhân biết quản lý.
Khi Đảng ra đời thì tổ chức công đoàn càng đặc biệt quan trọng hơn,
đó chính là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, là một kênh quan trọng để tập
hợp quần chúng, giáo dục quần chúng, và kể cả đối với sự phát triển của
Đảng. Đó chính là mối quan hệ qua lại khăng khít giữa Đảng với công đoàn,
Đảng phải nắm lấy tổ chức quan trọng này vì đó chính là một tổ chức của giai
cấp công nhân và đó chính là con đường duy nhất để giai cấp vô sản phát triển
và thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình. Công đoàn là một tổ chức
của công nhân, vì vậy Đảng không thể không lãnh đạo đối với công đoàn.
Theo Lênin, Đảng phải lãnh đạo công đoàn là một tất yếu…
- Phát huy tốt vai trò,nhiệm vụ của công đoàn
Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về công đoàn, sự cần thiết phải hoạt
7


động trong các công đoàn của những người cộng sản, cũng như Đảng của giai
cấp công nhân phải lãnh đạo công đoàn đã rút ra cho Đảng ta những bài học
bổ ích trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, công đoàn là tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam. Vì vậy, để phát
huy tốt vai trò, nhiệm vụ và chức năng của công đoàn, để công đoàn thật sự là
“trường học chủ nghĩa cộng sản” đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng. Bởi
lẽ, hệ thống chính trị ở nước ta là hệ thống chính trị nhất nguyên, trong đó
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo. Sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của tổ chức công
đoàn. Đường lối của Đảng là định hướng chính trị đối với mục tiêu và nhiệm
vụ, tổ chức và hoạt động của công đoàn. Bản chất giai cấp công nhân, mục
tiêu và lý tưởng của Đảng còn thể hiện thành tôn chỉ, mục đích hoạt động của

công đoàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta sẽ xây dựng được tổ chức
công đoàn ngày càng vững mạnh, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
động viên mọi nguồn lực xã hội vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
và ngày nay là thực hiện công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh
là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, có tầm chiến lược đối với cách mạng Việt
Nam. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị, của chính
quyền các cấp và của tổ chức công đoàn.
3.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công đoàn
Đối với tổ chức công đoàn Đảng ta đã xác định “Công đoàn Việt Nam
có vai trò quan trọng trực tiếp chăm lo xây dựng giai cấp công nhân, mọi hoạt
động của công đoàn phải thực sự hướng về cơ sở, giải đáp những vấn đề thực
tiễn sản xuất đặt ra...
Công đoàn phải chủ động đi sâu nghiên cứu nắm bắt kịp thời tâm tư
nguyện vọng của quần chúng và những đòi hỏi bức xúc ở cơ sở tập hợp trí tuệ
8


của CNVCLĐ tham gia xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật, tổ chức
kiểm tra giám sát có hiệu quả việc thực hiện pháp luật và các chế độ chính
sách đối với người lao động, thực sự chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp của
CNVCLĐ các cấp Công đoàn phải quán triệt sâu sắc và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo các quan điểm, tư tưởng, nghị quyết Đại hội X của Đảng, đặc biệt là
nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X về
tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động, tổ chức
hoạt động nhằm thu hút ngày càng đông đảo CNVCLĐ tự giác gia nhập và
tham gia hoạt động công đoàn, quan tâm hơn nữa công tác bồi dưỡng để phát
triển Đảng trong CNVCLĐ, tăng cường tình đoàn kết quốc tế giữa giai cấp

công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam với giai cấp công nhân và tổ chức
công đoàn thế giới” .
4.Quan điểm của công đoàn Giáo dục Việt Nam
Trong ngành giáo dục - đào tạo, tổ chức công đoàn cơ sở giữ một vị trí
rất quan trọng: vừa thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của Công đoàn vừa
tham gia tổ chức các cuộc vận động lớn của ngành và của nhà trường, vừa tổ
chức phong trào thi đua “Hai tốt” vừa là trung tâm đoàn kết, là người bạn thân
thiết, tin cậy đồng hành cùng đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên xây
dựng trường học tiên tiến, xây dựng đoàn thể vững mạnh. Trong thời kỳ hiện
nay, những người lãnh đạo công tác Công đoàn là người có bản lĩnh, có tầm
nhìn chiến lược và phải người là người biết đặt quyền lợi tập thể lên trên hết.
Đồng thời cần phải có sự tháo vát, luôn cập nhật những thông tin mới nhất để
tránh xa rời thực tế hoặc lệch hướng vai trò của mình.
Để nâng cao chất lương hoạt động Công đoàn nhằm đảm bảo cho Công
đoàn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, góp phần phát triển kinh
tế xã hội, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động, làm
cho đoàn viên Công đoàn, gắn bó với tổ chức Công đoàn. Mọi hoạt động của
Công đoàn cơ sở trường học đều phải hướng tới phục vụ trường học, tạo điều
kiện cho nhà trường giải quyết những khó khăn, chăm lo, xây dựng đào tạo
9


đội ngũ cán bộ, giáo viên, phát huy quyền chủ động, sáng tạo của Công đoàn
viên, khắc phục những biểu hiện quan liêu, bảo thủ trong công tác Công đoàn.
5.Công đoàn cơ sở
Công đoàn cơ sở là Tổ chức cấp cơ sở của công đoàn được thành lập tại
đơn vị sử dụng lao động có từ 5 công đoàn viên trở lên tự nguyện tham gia,
gia nhập, được công đoàn cấp trên quyết định công nhận. Công đoàn cơ sở có
tư cách pháp nhân, là đại diện chính thức của tập thể người lao động, thực
hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động, tập thể

lao động trong đơn vị.
Công đoàn cơ sở thành viên là công đoàn trực thuộc công đoàn cơ sở
được thành lập ở các đơn vị thành viên của Công ty, viện, trường, các ban,
ngành Trung ương, địa phương và các công đoàn chưa có công đoàn ngành
địa phương.
Công đoàn cơ sở thành viên là tổ chức công đoàn được công đoàn cơ sở
thành lập, phân cấp quản lý hoặc uỷ quyền một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
phù hợp với vai trò, nhiệm vụ của công đoàn cơ sở thành viên nhằm phát huy
tính chủ động, sáng tạo của cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ, chức năng
của tổ chức công đoàn.
Công đoàn cơ sở thành viên có tư cách pháp nhân, được sử dụng con
dấu, được mở tài khoản tại ngân hàng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng đơn
vị, công đoàn cơ sở thành viên được công đoàn cơ sở trực tiếp phân cấp quản
lý tài chính, tài sản (nếu có).

10


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tổ chức công đoàn,công đoàn cơ sở
-Khái niệm về tổ chức công đoàn: Công đoàn là tổ chức chính trị - xã
hội do người lao động Việt Nam thành lập trên cơ sở tự nguyện và được tổ
chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
-Khái niệm công đoàn cơ sở: Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Công đoàn
2012, Công đoàn cơ sở là tổ chức cơ sở của Công đoàn, tập hợp đoàn viên
công đoàn trong một hoặc một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, được công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở công nhận theo quy định của pháp luật và Điều
lệ Công đoàn Việt Nam.
2. Sự ra đời và phát triển của tổ chức Công đoàn Việt Nam

Sau Đại chiến thế giới lần thứ I, thực dân Pháp tiến hành ồ ạt đợt khai
thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) ở nước ta. Đây là lúc giai cấp công nhân
Việt Nam tăng nhanh về số lượng và chuyển biến mau lẹ về chất lượng. Đến
cuối năm 1929, số công nhân chuyên nghiệp đã lên tới 22.000 người với cơ
cấu thuần nhất, sống tập trung và phân bố đều trên địa bàn kinh tế cả nước.
Ảnh hưởng từ Cách mạng tháng 10 Nga và sau đó đặc biệt là với sự
truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào
công nhân Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, hoàn thành bước chuyển
biến từ tự phát sang tự giác, từ đó, sự hình thành và phát triển của tổ chức
công đoàn Việt Nam gắn chặt với cuộc vận động thành lập Đảng. Có thể nói,
từ khi Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội được thành lập (tháng 61925) đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) cũng là lúc xuất
hiện các tổ chức công đoàn đầu tiên trong lịch sử phong trào công nhân nước
ta. Các cuộc bãi công từ 1925 đã thể hiện rõ nét ý thức giai cấp, mục đích
chính trị của cuộc tranh đấu. Từ những tổ chức tương tế buổi đầu đã dần dần
xuất hiện các Công hội đỏ bí mật. Năm 1919, sau khi tham gia vụ binh biến
Hắc Hải bị trục xuất về nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lập ra Công hội đỏ
Sài Gòn với nhiều cơ sở ở nhà máy đèn chợ Quán, xưởng Ba Son. Trong cuộc
11


bãi công lịch sử ở Ba Son(tháng 8-1925), số hội viên Công hội đỏ ở Sài Gòn
lên tới 300 người, ghi một dấu son trong lịch sử công nhân Việt Nam.
Cùng lúc ấy, một số công nhân và thuỷ thủ Việt Nam làm việc ở Pháp
và Trung Quốc được kết nạp vào Tổng công đoàn thống nhất Pháp và Hải
viên Công hội (Công nhân tàu biển). Từ mùa thu 1928, khi Kỳ bộ Bắc kỳ của
Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội phát động phong trào vô sản
hoá thì Công hội đỏ càng lớn mạnh nhất là ở Bắc kỳ- trung tâm của phong
trào công nhân nước ta.
Sau cuộc bãi công A-vi-a (tháng 6-1929) thắng lợi, đồng chí Nguyễn
Đức Cảnh đã triệu tập Hội nghị Công hội đỏ Bắc kỳ lần thứ I vào ngày 28-71929 tại số nhà 15 Phố Hàng Nón (Hà Nội). Hội nghị quyết định ra báo Lao

động, tạp chí Công hội đỏ để đẩy mạnh công tác công vận.
Công hội đỏ trong cao trào 1930-1931 đã có cơ sở mạnh mẽ khắp trong
nước và đi đầu trong các cuộc bãi công mở đường cho việc thành lập Xô Viết
Nghệ Tĩnh. Tháng 8-1930, thay mặt Đông phương Bộ của Quốc tế cộng sản,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chỉ định Công hội đỏ Việt Nam cử đại biểu đi
dự Đại hội Công hội đỏ quốc tế lần thứ VI ở Mát-xcơ-va. Khi ấy thông qua
Công hội đỏ, đồng chí Trần Phú đã đi khảo sát phong trào công nhân Nam
Định Hải phòng, Hòn Gai& để viết bản Luận cương chính trị lịch sử. Được cử
làm trưởng ban Công vận trung ương, ngày 20-1-1931 tại Sài Gòn, đồng chí
Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng đã triệu tập Hội nghị công nhân
Đông Dương lần thứ I vạch ra phương hướng tổ chức và đấu tranh cho phong
trào công nhân và công đoàn.
Trong thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) hưởng ứng
phong trào Đông Dương đại hội và đòi tự do cơm áo hoà bình dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Đông Dương hàng ngàn cuộc bãi công của nửa triệu
công nhân tham gia đã nổ ra liên tiếp ở các thành phố lớn trong cả nước. Đầu
năm 1937 công nhân đấu tranh sôi sục đòi quyền tự do lập nghiệp đoàn ở Hà
Nội, Sài Gòn, Vinh& Mặc dù bọn phản động thuộc địa ngăn cản, nhiều nghiệp
đoàn vẫn được thành lập và tự do hoạt động, báo chí vẫn tự do xuất bản và
12


công khai tuyên truyền Chủ nghĩa Mác- Lênin. Chưa giành được toàn bộ
quyền tự do nghiệp đoàn, công nhân Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội lập các Hội
ái hữu ở khắp nơi.
Tháng 9-1939, Đại chiến Thế giới lần thứ II bùng nổ, các tổ chức của
công nhân và công bộ công đoàn phải rút vào bí mật.
Trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tám (1939-1945), Hội công
nhân cứu quốc - một lực lượng quan trọng của Mặt trận Việt Minh được thành
lập nhất là ở Bắc và Trung Bộ. Hội công nhân cứu quốc vừa bí mật đấu tranh

đòi quyền lợi hằng ngày, vừa tổ chức các đội võ trang làm nòng cốt cho cuộc
nổi dậy ở đô thị.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân lao động Việt Nam từ chỗ
là dân nô lệ mất nước đã đứng lên làm chủ đất nước, chủ xí nghiệp. Ngày 2-91945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà- nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Để thực sự thống nhất về tổ chức công đoàn, Hội nghị cán bộ công nhân
cứu quốc họp ngày 20-5-1946 quyết định đổi Hội công nhân cứu quốc thành
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Ngày 20-7-1946, tại thủ đô Hà Nội, Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam chính thức tuyên bố thành lập đánh dấu bước
ngoặt của phong trào công đoàn Việt Nam với một tổ chức thống nhất và ổn
định thật sự trong cả nước.
Tháng 1-1949, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ I họp ở Thái
Nguyên đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Tôn Đức Thắng
làm Chủ tịch danh dự và đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch.
Trong sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp
giải phóng miền Nam (1954-1975), công đoàn Việt Nam lớn mạnh vượt bậc.
Ngày 14-9-1957, Quốc hội nhất trí thông qua Luật công đoàn qui định vai trò,
trách nhiệm, quyền hạn của công đoàn Việt Nam.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960), trong Đại hội
công đoàn Việt Nam lần thứ II (tháng 2-1961), Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam đổi tên thành Tổng công đoàn Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới.
13


Tháng 2-1974, tiến hành đại hội Đại biểu lần thứ III.
Khi nước nhà đã thống nhất từ năm 1978 đến nay công đoàn Việt Nam
đã tiến hành 5 lần đại hội: Đại hội lần thứ IV (tháng 5-1978) và tiếp theo Đại
hội công đoàn Việt Nam lần thứ V (tháng 11-1983), Đại hội công đoàn lần VI
(tháng 10-1988), Đại hội công đoàn lần VII (tháng 11-1993), Đại hội công
đoàn lần VIII (tháng 11-1998). Đặc biệt tại Đại hội công đoàn lần VI, đại hội

quyết định đổi tên Tổng công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam nhằm xác định rõ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động
công đoàn không thể chú trọng đến đối tượng công nhân- viên chức trong các
cơ quan, doanh nghiệp nhà nước mà phải mở rộng đến mọi công nhân lao
động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cả doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Để định hướng và xây dựng nền tảng cho hoạt động công đoàn trong
giai đoạn mới, Nhà nước ta đã ban hành Luật công đoàn được Quốc hội thông
qua ngày 30-6-1990 thay cho Luật công đoàn 1957; đồng thời các kỳ Đại hội
đại biểu toàn quốc của Công đoàn Việt Nam đã thông qua Điều lệ Công đoàn
Việt Nam, và Điều lệ Công đoàn Việt Nam hiện hành được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX thông qua vào ngày 13/10/2003. Đại hội lần IX công
đoàn Việt Nam đã thành công tốt đẹp, với sứ mệnh lịch sử của mình công
đoàn sẽ tiếp tục là một nhân tố không thể thiếu được trong công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu không ngừng cho sự
nghiệp công đoàn, cho việc bảo vệ quyền lợi của người lao động.
3. Nội dung hoạt động của công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp tại
Việt Nam
+ Công tác đoàn viên
- Đoàn viên là cái gốc của tổ chức, có phát triển được nhiều đoàn viên,
thì tổ chức mới được củng cố và phát triển. Đoàn viên có mạnh, có hoạt động
thì tổ chức mới mạnh.
- Muốn phát triển được nhiều đoàn viên, công đoàn cơ sở phải tuyên
truyền, làm cho người lao động hiểu rõ tổ chức: Vị trí, vai trò, tính chất, chức
14


năng, quyền và nhiệm vụ của đoàn viên, để họ tự nguyên gia nhập công đoàn.
- Công đoàn cơ sở phải tổ chức hoạt động và tạo điều kiện, phân công
đoàn viên tham gia hoạt động; động viên và hướng các hoạt động vào mục

tiêu giáo dục, bồi dưỡng, đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính trị, tinh
thần và kinh tế, giữ mối liên hệ mật thiết giữa đoàn viên và cán bộ công đoàn,
giữa đoàn viên và tổ chức công đoàn.
- Đôn đốc và kiểm tra sự hoạt động của đoàn viên, quản lý đoàn viên
trong một cơ sở tổ công đoàn; giúp tổ đoàn viên hoạt động.
+ Nội dung hoạt động của tổ công đoàn
- Giúp công nhân, lao động giao kết Hợp đồng lao động với chủ doanh
nghiệp, tổ chức cho công nhân, lao động tham gia xây dựng các điều khoản
trong thỏa ước lao động tập thể. Vận động đoàn viên giúp đỡ nhau chống lại
những vi phạm nhân phẩm thân thể của người sử dụng lao động. Đặc biệt
giúp nhau nâng cao tay nghề để hoàn thành tốt những định mức lao động đã
ký trong Hợp đồng lao động.
- Tổ công đoàn tổ chức tốt Đại hội công nhân, viên chức, hội nghị cán
bộ công chức cơ quan, hội nghị của người lao động (ở doanh nghiệp ngoài
nhà nước) và thực hiện tốt các quy chế dân chủ, các nghị định về thực hiện
quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp và cơ quan. Tổ chức để đoàn viên,
công nhân, viên chức, lao động trao đổi xây dựng nội dung thảo ước lao động
tập thể, trước khi thông qua Đại hội công nhân, viên chức. Giúp nhau các kiến
thức về chuyên môn, nghiệp vụ nghề ngiệp; làm việc luôn có năng suất, chất
lượng công tác cao, đó là tiền đề, là điều kiện để người lao động giữ vững
việc làm tăng thu nhập. Tổ công đoàn vận động, tổ chức đoàn viên hoạc tập
lẫn nhau làm kinh tế gia đình, làm giàu hợp pháp.
- Hoạt động tham gia quản lý và tổ chức cho công nhân, lao động tham
gia quản lý tổ công đoàn. Tổ công đoàn cần vận động tổ chức, đoàn viên thực
hiện chương trình công tác của công đoàn cơ sở, công đoàn bộ phận. Tổ chức
tốt Đại hội công nhân, viên chức ở các tổ, hội nghị người lao động ở doanh
nghiệp ngoài nhà nước, hội nghị cán bộ, công chức đối với cơ quan hành
15



chính sự ngiệp, thảo luận, đóng góp ý kiến vào các điều khoản trong thỏa ước
lao động tập thể khi có chủ trương của công đoàn cơ sở. Tham gia xây dựng
các nội quy, quy chế quản lý doanh nghiệp, cơ quan đơn vị (các vấn đề liên
quan đến công nhân, viên chức, lao động). Đồng thời giám sát việc thực hiện
Hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và các quy chế đã ký kết và ban
hành tại đơn vị.
- Nắm bắt kịp thời tâm tự của đoàn viên và lao động:
+ Vận động mọi người trong tổ giúp nhau giải quyết những vướng mắc
trong cuộc sống, thăm hỏi khi ốm đau, động viên chia sẻ khi vui buồn, hoạn
nạn, đề nghị trợ cấp hoặc quyên góp giúp đỡ khi gặp khó khăn hoạn nạn. Tập
hợp phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên và lao động lên công đoàn
cấp trên, cơ quan chuyên môn giải quyết. Dựa vào tập thể, cấp trên để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp chính đáng của mọi thành viên trong tổ.
+ Xây dựng tổ công đoàn thực sự trở thành “tổ ấm” của mọi người.
- Tuyên truyền và phổ biến đến đoàn viên.
+ Mọi chế độ, chính sách, pháp luật, các nội quy, quy chế của đơn vị có
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động. Tổ chức hoặc đề nghị
công đoàn cấp trên tổ chức mọi thành viên trong tổ tìm hiểu và nghiêm chỉnh
chấp hành không chỉ ở đơn vị mà cả ngoài xã hội, gia đình.
+ Đề xuất tạo điều kiện để mọi thành viên trong tổ nâng cao đờ sống
vật chất, tinh thần, nâng cao hiểu biết về Hợp đồng lao động, thỏa ước lao
động, cơ chế dân chủ, hội nghị cán bộ công chức của tổ theo định kỳ; tư vấn
pháp luật và nghề nghiệp cho đoàn viên.
- Phân công đoàn viên.
+ Phân công theo dõi, chịu trách nhiệm từng mặt hoạt động của tổ công
đoàn. Khi phân công phải căn cứ vào năng lực, nhiệt tình, điều kiện công việc
của đoàn viên, đặc điểm của tổ mà phân công theo nhóm hoặc từng cá nhân
thực hiện một hoặc hai việc của tổ công đoàn.
+ Nội dung hoạt động của công đoàn bộ phận
- Bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và lao động ở đơn

16


vị mình: Việc làm, nâng cao thu nhập. Để có thể giữ vững được việc làm, tìm
ra việc để làm và tăng thu nhập; tăng cường phát huy sáng kiến, sắp xếp đổi
mới tổ chức, làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn, giúp người lao
động hiểu và ký hợp đồng lao động, thỏa thuận các điều khoản trong thỏa ước
lao động tập thể.
- Vận động tổ chức đoàn viên và lao động tham gia quản lý, hưởng ứng
các phong trào thi đua do công đoàn cơ sở phát động, tham gia xây dựng thực
hiện quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị.
- Thường xuyên tuyên truyền phổ biến các chế độ chính sách, luật pháp
của Đảng và Nhà nước và quy chế của cơ quan, đơn vị liên quan đến đoàn
viên và lao động.
- Vận động đoàn viên và lao động đi học tập nâng cao chuyên môn,
nghiệp vụ, nâng cao năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới
của ngành và đơn vị.
- Thường xuyên quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần của đoàn viên
và lao động.
+ Nội dung hoạt động của Ban Chấp hành công đoàn cơ sở
- Ban Chấp hành là cơ quan lãnh đạo của công đoàn cơ sở, điều hành
công việc giữa hai nhiệm kỳ Đại hội công đoàn cơ sở.
* Nội dung hoạt động của Ban Chấp hành bao gồm:
+ Tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội công đoàn cơ sở.
+ Tổ chức thực hiện Nghị quyết của công đoàn cấp trên, Nghị quyết
của Đảng ủy cơ sở.
+ Vận động đoàn viên và lao động thực hiện tốt phong trào thi đua và
các cuộc vận động của ngành, địa phương và đơn vị.
- Thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách
đối với đoàn viên và lao động, tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện.

- Xây dựng và thực hiện quy chế hoạt động công đoàn cơ sở, tham gia
xây dựng quy chế quản lý của cơ quan, đơn vị.
- Chỉ đạo hoạt động của công đoàn bộ phận và tổ công đoàn nhằm xây
17


dựng công đoàn cơ sở vững mạnh.
- Quy định trách niệm cho mỗi ủy viên Ban Chấp hành công đoàn cơ sở
phụ trách các ban chuyên đề hoặc làm chủ tịch công đoàn bộ phận và tổ
trưởng công đoàn.
- Thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo và chế độ kiểm tra việc thực
hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở.
- Tổ chức thực hiện tốt nội dung xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh.
+ Nội dung hoạt động của Tổ trưởng công đoàn.
- Tổ trưởng công đoàn là người trực tiếp làm việc, sinh hoạt hàng ngày
với đoàn viên và lao động.
- Là người đại diện trực tiếp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên và lao động trong tổ; người trực tiếp chịu trách nhiệm giải
quyết các vướng mắc của đoàn viên trong tổ, trực tiếp triển khai các hoạt
động của tổ công đoàn; thực hiện nghiêm túc các chế độ chính sách của Đảng,
Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
- Tổ trưởng công đoàn hoạt động tích cực, có hiệu quả thì tổ công đoàn
mới mạnh.
- Tổ trưởng công đoàn cần tập trung vào nội dung sau:
+ Tìm hiểu, nghiên cứu nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, các
chính sách, pháp luật của nhà nước và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, công tác
ở tổ, chương trình kế hoạch của công đoàn cấp trên.
+ Tổ chức thực hiện các nội dung hoạt động của tổ công đoàn gồm các
mặt công tác.
+ Tổ chức hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của

đoàn viên, lao động trong tổ.
+ Tổ chức thực hiện công tác tham gia quản lý của tổ công đoàn.
+ Tổ chức thực hiện việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
nâng cao giác ngộ giai cấp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công tác của
người lao động mới có trình độ và tri thức, nâng cao năng lực làm chủ cho
đoàn viên và lao động.
18


+ Phân công đoàn viên hoạt động.
+ Nội dung hoạt động của chủ tịch công đoàn cơ sở
- Đối với chủ tịch công đoàn cơ sở phải phấn đấu đạt được những yêu
cầu sau:
+ Nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nhất là những chính sách liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
đoàn viên, lao động và tổ chức công đoàn.
+ Có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ thuộc lĩnh vực công tác. Nắm
vững nhiệm vụ, tình hình công tác, ở doanh nghiệp, đơn vị. năm chắc lý luận,
nghiệp vụ công tác công đoàn; có kinh nghiệm vận động, thuyết phục, tập hợp
và tổ chức cho quần chúng hoạt động
+ Có tác phong quần chúng và phương pháp tổ chức quần chúng hoạt
động; có uy tín đối với quần chúng.
- Nội dung hoạt động của chủ tịch cần tập trung vào một số nội dung
sau:
+ Tập trung nghiên cứu nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; Nghị quyết của Công đoàn cấp trên;
nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp và đơn vị.
+ Tập trung chỉ đạo, xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh.
+ Chỉ đạo, tổ chức thực hiện hoạt động đại diện bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng; chăm lo đời sống của đoàn viên và lao động; xây dựng

quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp phần nâng cao năng suất chất
lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh và công tác ở đơn vị.
+ Đại diện cho đoàn viên và lao động tham gia quản lý và tổ chức cho
đoàn viên và lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị.
- Tổ chức chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức
chính trị, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương trong sản xuất kinh
doanh, công tác; năng lực làm chủ của đoàn viên và lao động.
- Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng
nâng cao năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng tổ chức và hoạt động
19


công đoàn.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của công đoàn cơ sở, tổ
chức triển khai có hiệu quả chương trình, kế hoạch đề ra.
- Chỉ đạo các ủy viên Ban Chấp hành, các ban chuyên đề, tổ công đoàn
và công đoàn bộ phận thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của công
đoàn cơ sở đã được thông qua.
- Sơ kết, tổng kết, báo cáo định kỳ
- Lưu ý đối với chủ tịch công đoàn cơ sở trong công tác chỉ đạo tổ chức
thực hiện nhiệm vụ của công đoàn: Mọi hoạt động đều 5 rõ (Rõ việc, rõ người
thực hiện, rõ cách làm, rõ thời gian hoàn thành, rõ mức độ kết quả). Cán bộ
công đoàn phải là người gương mẫu, khiên tốn hòa mình với quần chúng. Vừa
là người “sáng tác” vừa là “đạo diễn” và vừa là “diễn viên”.
4.Vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp tại Việt
Nam hiện nay
Công đoàn cơ sở có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong doanh
nghiệp và với người lao động. Một tổ chức công đoàn cơ sở hoạt động hiệu
quả có thể giúp cân đối lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động,
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Lâu nay, các chủ doanh nghiệp có rất ngần ngại việc thành lập công
đoàn cơ sở. Có nhiều doanh nghiệp cho rằng hoạt động của công đoàn cơ sở
vừa tốn kém thời gian, nhân lực …Trong khi đó, người lao động cũng không
mặn mà với việc tham gia công đoàn cơ sở. Họ cho rằng, điều này chỉ tốn thời
gian, phải đóng đoàn phí, trong khi quyền lợi thì hầu như không có. Tuy
nhiên, nếu tổ chức công đoàn cơ sở thực sự phát huy được tối đa vai trò và
năng lực của mình thì những lợi ích mà công đoàn mang lại thật sự vô cùng
lớn cho cả doanh nghiệp cũng như người lao động.
*Mang lại lợi ích cho người lao động
- Công đoàn cơ sở tham gia giám sát doanh nghiệp trong việc ký kết
Hợp đồng lao động cho người lao động.
- Công đoàn cơ sở chủ động phối hợp cùng doanh nghiệp xây dựng
20


thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, đôn đốc doanh nghiệp mua bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động.
- Công đoàncơ sở là nơi giải quyết những khúc mắc của người lao
động với doanh nghiệp, tham gia ý kiến với doanh nghiệp trong việc tổ chức
bữa ăn ca cho người lao động. Bên cạnh đó, Công đoàn cơ sở còn đóng góp ý
kiến với doanh nghiệp về môi trường làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi của người lao động; đề nghị doanh nghiệp kiểm tra lại hệ thống
thông gió, chống nóng, hạn chế tiếng ồn và trang bị đầy đủ thiết bị bảo hộ lao
động theo đúng công việc cho người lao động.
*Mang lại lợi ích cho doanh nghiệp
- Công đoàn cơ sở tham gia hỗ trợ người sử dụng lao động xây dựng
nội quy lao động, bảng lương, thỏa ước lao động tập thể.
- Khi doanh nghiệp phải thay đổi cơ cấu hoặc cải tiến công nghệ, công
đoàn có thể giúp doanh nghiệp sắp xếp lao động một cách hợp lý để phát huy
tối đa hiệu quả

của nguồn lực lao động, cũng như chấm dứt hợp đồng lao động đối với
những trường hợp không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Đã có rất
nhiều trường hợp, do thiếu tổ chức công đoàn cơ sở, hoặc có nhưng bị xem
nhẹ, nhiều doanh nghiệp đã miễn cưỡng giải quyết tranh chấp như phải nhận
người lao động trở lại làm việc (trong trường hợp bị thua kiện). Nghiêm trọng
hơn là những vụ đình công lôi kéo thêm nhiều người khác tham gia đã gây ra
thiệt hại không nhỏ cho Doanh nghiệp.
- Khi có tranh chấp xảy ra như đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động, kỷ luật lao động, đình công… công đoàn cơ sở sẽ tổ chức đối thoại
nhằm dung hòa lợi ích của người lao động với người sử dụng lao động trên tư
cách là một chủ thể độc lập, trung gian giải quyết tranh chấp lao động.
- Khi có tổ chức công đoàn cơ sở, doanh nghiệp sẽ có "người" giám sát
thực hiện các quy định của pháp luật về chế độ của người lao động, từ đó sẽ
hạn chế mạnh tai nạn lao động, công nhân hoặc người lao động bỏ việc, làm
việc không hết trách nhiệm, không tôn trọng cam kết, thoả ước lao động...
21


*Mang lại hiệu quả cao trong doanh nghiệp hiện nay
Với chức năng, vị trí của mình, phần lớn các công đoàn cơ sở trong
doanh nghiệp đã phát huy tốt vai trò, đồng hành cùng sự phát triển của doanh
nghiệp trong thời gian qua.
Nhiều doanh nghiệp, chủ sử dụng lao động đã có cách nhìn, đánh giá
cao về công đoàn, phối hợp tích cực, chặt chẽ tạo nên mối quan hệ lao động
hài hòa, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, giúp doanh nghiệp phát
triển một cách bền vững.
Trong đó phải kể đến các công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp Nhà
nước sau chuyển đổi đã có sự chuyển mình kịp thời theo mô hình sản xuất
mới của doanh nghiệp.
Để đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn, trong thời gian

qua, nhiều công đoàn cơ sở đã đổi mới phương pháp hoạt động, sáng tạo
trong công tác vận động đoàn viên, công nhân lao động phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật, hăng say lao động sản xuất, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành,
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nên nhiều doanh nghiệp đã vượt qua khó
khăn, sản xuất kinh doanh có lãi, việc làm, tiền lương, tiền công của đoàn
viên, công nhân lao động ổn định, đời sống công nhân lao động được nâng
lên. Đồng thời đội ngũ cán bộ công đoàn ở các doanh nghiệp đã phát huy tốt
vai trò của mình, chủ động nắm vững pháp luật và đứng về phía người lao
động trên quan điểm pháp luật, nhờ đó quyền và lợi ích chính đáng của người
lao động được chăm lo, bảo vệ; phong trào sản xuất kinh doanh được đẩy
mạnh, góp phần tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động cũng
nhưng nâng cao sức cạnh tranh, uy tín, hình ảnh, thương hiệu của doanh
nghiệp trên thị trường. Qua vinh danh doanh nghiệp, doanh nhân hàng năm,
những đơn vị được tỉnh,Trung ương vinh danh đều đã có tổ chức công đoàn
và được đánh giá là đơn vị công đoàn cơ sở vững mạnh, vững mạnh xuất sắc.
5. Các mặt tích cực của công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay
-Hoạt động công đoàn cơ sở khu vực nhà nước có nhiều thuận lợi, các
22


nội dung hoạt động được triển khai khá toàn diện; có trên 90% công nhân
viên chức,lao động gia nhập tổ chức công đoàn; 70% công đoàn cơ sở có quy
chế hoạt động của ban chấp hành và quy chế phối hợp hoạt động giữa ban
chấp hành công đoàn với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Tỷ
lệ công đoàn cơ sở vững mạnh bình quân hàng năm đạt trên 80%.
-Hoạt động công đoàn cơ sở khu vực ngoài nhà nước gặp nhiều khó
khăn, song trong những năm qua với sự hướng dẫn, hỗ trợ của công đoàn cấp
trên không ít công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp đã thương lượng và ký được
thỏa ước lao động tập thể có điều khoản có lợi cho người lao động; chủ động

tổ chức đối thoại và duy trì chế độ làm việc định kỳ giữa ban chấp hành công
đoàn với ban giám đốc để phản ánh kịp thời những kiến nghị của công nhân
lao động, nên đã kịp thời phòng ngừa giải quyết có hiệu quả tranh chấp lao
động. Đã vận động được nhiều người lao động gia nhập công đoàn, tỷ lệ công
đoàn cơ sở đạt vững mạnh hàng năm đạt 49%.
- Công đoàn cơ sở kết hợp với chủ doanh nghiệp đã tổ chức được các
phong trào thi đua, các hoạt động xã hội tạo sân chơi cho các đoàn viên.
-Mô hình tổ chức của công đoàn cơ sở hiện nay cơ bản đã đáp ứng
được việc tập hợp công nhân, viên chức, lao động gia nhập tổ chức công đoàn
và tham gia hoạt động của công đoàn cơ sở, từng bước thích ứng với những
chuyển đổi của các loại hình đơn vị, doanh nghiệp. Tính đến tháng 11/2010 cả
nước có 106.116 công đoàn cơ sở với 7.098.829 đoàn viên công đoàn.
-Đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở đa số có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt
tình, được đoàn viên tín nhiệm. Thông qua hoạt động thực tiễn, nhiều cán bộ
công đoàn đã trưởng thành nhanh chóng, tự học hỏi, nắm vững chính sách,
pháp luật, nêu cao vai trò đại diện cho tập thể lao động, có bản lĩnh đấu tranh
vì lợi ích của người lao động.
6.Các mặt hạn chế của công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp Việt
Nam
-Bên cạnh nhiều công đoàn cơ sở hoạt động có hiệu quả, vẫn có một số
đơn vị chưa phát huy được vai trò, vị trí của mình, do vậy chưa tạo được niềm
23


tin cho doanh nghiệp và chưa làm cho doanh nghiệp hiểu được vai trò quan
trọng của tổ chức công đoàn, nên chưa tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn
hoạt động.
-Vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa mặn mà, nhiều doanh nghiệp có tư
tưởng xem có tổ chức công đoàn như là một trong những tiêu chí để xét khen
thưởng, còn công đoàn hoạt động ra sao thì chủ doanh nghiệp không quan

tâm...
-Có những trường hợp đã thành lập tổ chức công đoàn nhưng không tạo
điều kiện để công đoàn tổ chức sinh hoạt, quá thời gian quy định vẫn chưa tổ
chức Đại hội.
-Mặt khác, cơ chế hiện nay Chủ tịch công đoàn cơ sở nhận lương từ
chủ doanh nghiệp nên rất khó khăn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, người lao động.
-Vai trò của công đoàn còn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của
công đoàn cơ sở.
-Phần lớn hoạt động của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp chưa
thực sự thu hút người lao động, chưa vận động công nhân lao động hưởng
ứng tích cực, hiệu quả các phong trào thi đua, bên cạnh đó đội ngũ cán bộ
công đoàn bán chuyên trách còn yếu và thiếu năng lực hoạt động công đoàn.
-Vai trò, vị thế của công đoàn cơ sở trong việc đại diện ký kết Thỏa ước
lao động tập thể, đối thoại tại nơi làm việc, xây dựng Nội quy lao động... chưa
được thể hiện rõ.Sự chỉ đạo của các cấp công đoàn chưa đồng bộ, thiếu các
giải pháp cụ thể. Sự phối hợp giữa công đoàn cấp huyện và công đoàn ngành
địa phương, công đoàn các khu công nghiệp trên địa bàn chưa tốt dẫn đến
chồng chéo.
-Chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở dàn trải, hình thức. Một số văn bản
hướng dẫn chậm được ban hành, hoặc chưa sát với thực tiễn. Đánh giá xếp
loại công đoàn cơ sở, năng động vững mạnh của công đoàn cấp trên chưa
phản ánh đúng chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở; chưa coi trọng việc
tổng kết thực tiễn và tập huấn, bồi dưỡng cán bộ hoạt động ở công đoàn cơ
24


sở.
-Công đoàn cơ sở được giao nhiều nhiệm vụ, quyền hạn, nhưng không
có điều kiện thực hiện. Lợi ích giữa đoàn viên và người lao động chưa gia

nhập công đoàn không có nhiều sự khác biệt, vì vậy chưa thu hút được đông
đảo công nhân lao động tham gia tổ chức công đoàn và đoàn viên chưa tích
cực tham gia hoạt động công đoàn.
-Đội ngũ cán bộ công đoàn cấp trên trực tiếp ở nhiều nơi thiếu về số
lượng, hạn chế về chất lượng nên chưa thực hiện tốt vai trò đại diện và chỉ
đạo, hướng dẫn công đoàn cơ sở. Đội ngũ cán bộ chuyên trách công đoàn cơ
sở quá thiếu, chủ yếu là kiêm nhiệm và thường xuyên biến động.
-Trong phương thức hoạt động còn có trường hợp ra mệnh lệnh, hách
dịch, cửa quyền, quan liêu, độc đoán, chưa coi trọng thuyết phục, giáo dục,
vận động, phát huy tính tự nguyện, tích cực, năng động, sáng tạo của quần
chúng. Vẫn nặng về hội họp, ra nhiều văn bản, nghị quyết mà thiếu sự kiểm
tra, đôn đốc.
-Các hoạt động phong trào tại công đoàn cơ sở chưa đáp ứng nhu cầu
tham gia và hưởng thụ của đoàn viên, gắn kết mặt xã hội của các đoàn viên.
Nhiều nơi thực hiện theo yêu cầu của cấp trên, chưa chú ý đến yêu cầu
nguyện vọng của đoàn viên ở cơ sở.
-Vai trò đại diện của tổ chức công đoàn cơ sở trong thương lượng tập
thể còn yếu. Việc thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể ở khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI có tỷ lệ thấp và chất
lượng còn hạn chế, việc đàm phán thương lượng còn mang nặng tính hình
thức.
-Trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, các kỹ năng, nội dung và phương thức hoạt động của công
đoàn cơ sở chưa được xác định chính xác, trọng tâm.
-Công đoàn cơ sở thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước còn lúng túng
về nội dung và phương pháp hoạt động. Việc tuyên truyền giáo dục về đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở nhiều đơn vị không có
25



×