Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÌM HIỂU QUỐC HIỆU VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.71 KB, 20 trang )

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................1
A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................1
B. NỘI DUNG TIỂU LUẬN...............................................................................3
I. Định nghĩa Quốc hiệu......................................................................................................3
II. Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử..................................................................3
III. Ý nghĩa Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử...................................................5
1. Mang ý nghĩa chủ quyền quốc gia và chủ quyền lãnh thổ của mình, đặc trưng cho nền
văn hóa................................................................................................................................5
2. Thể hiện các yếu tố chính trị cho vùng đất hay cư dân chủ thể của quốc hiệu vào thời
kỳ độc lập............................................................................................................................8
3. Trong thời cận và hiện đại, quốc hiệu thường biểu lộ thể chế chính trị hay ước muốn
chính trị của quốc gia........................................................................................................11
IV. Ý nghĩa Quốc hiệu Việt Nam hiện nay........................................................................14
1. Về mặt chính trị.............................................................................................................14
2. Về mặt bản chất.............................................................................................................15
4. Về mặt ngoại giao.........................................................................................................17
5. Về tính thẩm mỹ............................................................................................................18

C. KẾT LUẬN...................................................................................................19

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội



Khoa Quản trị Văn phòng

A. LỜI MỞ ĐẦU
Giao tiếp là hoạt động bản chất của vạn vật nhằm sinh tồn. Trong xã hội loài
người thì hoạt động giao tiếp giúp con người trao đổi thông tin, nhận thức, tư
tưởng, tình cảm để bày tỏ mối quan hệ, cách ứng xử, thái độ giữa con người với
con người. Đối với nền văn minh văn hóa thì không thể thiếu hoạt động giao tiếp
nói cách khác không có hoạt động giao tiếp thì không tồn tại nền văn minh văn
hóa của loài người. Nền văn minh nhân loại, nền văn hóa mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia được hun đúc qua các thời kỳ lịch sử đã tạo ra sự giao tiếp của con người với
thế giới, với vạn vật, với chính mình. Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện
bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhưng dù được dùng bằng
phương thức nào thì hoạt động giao tiếp luôn luôn phải được đặt trong bối cảnh
nhất định, được thực hiện bởi các nghi thức nhất định để đạt được mục tiêu đặt ra.
Nhà nước ra đời với những chức năng quyền uy đặc biệt. Để thể hiện quyền
uy của mình nhà nước không thể không kiến tạo những hình thức để thể hiện
điều đó. Những hình thức đó chính là “nghi thức nhà nước’’, nghi thức nhà nước
có thể được hiểu là những phương thức giao tiếp trong hoạt động quản lý nhà
nước nói chung được quy định tại các văn bản pháp luật của Nhà nước theo tập
quán truyền thống dân tộc hoặc quốc tế mà các bên tham gia quan hệ thủ tục
quản lý nhà nước phải tuân theo. Nội dung của nghi thức nhà nước bao gồm
những vấn đề liên quan tới tổ chức hội nghị hội họp, tiếp đón khách, kỹ năng
giao tiếp của cán bộ công nhân viên chức nhà nước và những vấn đề liên quan
đến cách thức thể hiện và sử dụng các biểu tượng quốc gia.
Hầu hết mỗi dân tộc mỗi quốc gia trên thế giới từ xa xưa đã lựa chọn cho
mình những biểu tượng nhất định và nó thay đổi theo từng thời gian phát triển
của quốc gia để phù hợp hơn. Những biểu tượng đó có thể là quốc hiệu, quốc kỳ,
quốc hoa… Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước thì quốc hiệu – một biểu
tượng Quốc gia Việt Nam gắn bó chặt chẽ với lịch sử. Quốc hiệu là một trong

những biểu tượng của quốc gia các nước, là tên gọi của mỗi nước, biểu tượng
quốc gia để chỉ các yếu tố cấu thành mang chất lượng tượng trưng cho một quốc
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

1

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

gia. Chính vì là một trong bốn biểu tượng quốc gia Việt Nam: “ Quốc huy, Quốc
kỳ, Quốc ca, Quốc hiệu, Quốc thiều’’ nên quốc hiệu cũng là yếu tố không thể
thiếu, mang những đặc điểm của các quốc gia dân tộc, thể hiện chủ quyền và cấu
thành nên quốc thể. Quốc hiệu Việt Nam là một biểu tượng quốc gia, là yếu tố
để khẳng định vị thế cũng như chủ quyền của một nước, tìm hiểu theo chiều dài
lịch sử dựng nước và cứu nước của dân tộc ta.
Sau đây là bài tiểu luận của em về “Tìm hiểu ý nghĩa của Quốc hiệu Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử. Phân tích ý nghĩa Quốc hiệu Việt Nam hiện nay’’.
Trong quá trình làm bài của em không thể thiếu sai sót mong cô bổ sung và góp
ý kiến cho em. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2015
Sinh viên

Ngô Văn Thuận

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A


2

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

B. NỘI DUNG TIỂU LUẬN
I. Định nghĩa Quốc hiệu
Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một đất nước. Quốc hiệu là một biểu
tượng của một nước nên không thể thiếu được thể hiện chủ quyền, mang những
đặc điểm của quốc gia dân tộc đó. Vì vậy Quốc hiệu có nhiều ý nghĩa và vai trò
quan trọng như :
- Nó biểu lộ chủ quyền của quốc gia trên vùng lãnh thổ của mình. Nó có
thể khác với tên địa lý được gắn cho vùng đất hay vùng dân cư.
Ví dụ: Chiêm Thành là tên Việt nam gọi người Chàm, tên Giao Chỉ
thường dùng để chỉ người Cổ Việt trong vùng Bắc Việt Nam ngày xưa, nó
khác với quốc hiệu Văn Lang thường được gắn cho thời kỳ tiền sử. Đó là
phương tiện địa lý của quốc hiệu.
- Quốc hiệu cũng thường biểu lộ các yếu tố chính trị cho vùng đất hay cư
dân chủ thể của quốc hiệu. Nó là danh xưng chính thức được dùng trong
ngoại giao và bang giao quốc tế.
Ví dụ: Cho đến trước năm 1804 Việt Nam luôn luôn có hai quốc hiệu:
một quốc hiệu dùng trong nước như Đại Cồ Việt, Đại Việt nhưng mặt khác
người Trung Hoa láng giềng phương Bắc lại gọi là An Nam.
- Trong thời cận và hiện đại, quốc hiệu thường biểu lộ thể chế chính trị
hay ước muốn chính trị của quốc gia.
Ví dụ: Quốc hiệu có thể nhấn mạnh về chế độ chính trị như chế độ xã

hội hay cộng sản như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hay chế độ
cộng hòa như Việt Nam Cộng Hòa. Đối Với Việt Nam, chúng ta có đầy đủ
những quốc hiệu theo địa lý hay chính trị theo dòng lịch sử vẻ vang của dân
tộc.
II. Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Quốc hiệu Việt Nam có những thay đổi qua từng giai đoạn lịch sử của dân
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

3

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

tộc. Dưới đây là danh sách Quốc hiệu Việt nam qua từng thời kỳ.
- Năm 2879 trước Tây Lịch: Kinh Dương Vương làm vua nước XÍCH QỦY
- Năm 690-258 trước CN: Vua Hùng Vương đặt tên nước là VĂN LANG
- Năm 257 - 208 trước CN : An Dương Vương chiếm Văn Lang, lập nước
ÂU LẠC đóng đô ở Cổ Loa.
- Năm 208- 111 trước CN: Triệu Đà (Zhao Tuo) tướng nhà Tần chiếm Âu
Lạc, lập nước NAM VIỆT.
- Năm 111 trước CN đến 542 sau CN: Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ. Việt
Nam lúc đó gọi là Giao Châu và được coi như một quận thuộc Trung Hoa, do
các thái thú cai quản nên không có quốc hiệu. Năm 40-43, Hai bà Trưng lên làm
vua nhưng không thấy ghi quốc hiệu.
- Năm 542-602: Lý Bôn tự xưng Lý Nam Đế lập nước VẠN XUÂN, đóng
đô ở Long Biên.

- Năm 679-938: Nhà Đường lập AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ. Tên AN NAM có
từ đây.
- Năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở đầu thời kỳ độc lập
của nước ta nhưng phảỉ đợi đến năm 968 Đinh Tiên Hoàng dẹp được 12 sứ quân,
thống nhất đất nước, mới đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Năm 972, Trung
Hoa chính thức công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập nhưng vẫn phong
cho Vua Đinh Tiên Hoàng làm GIAO CHỈ QUẬN VƯƠNG.
- Tuy vậy Trung Hoa tiếp tục gọi Đại Cồ Việt là An Nam và coi như là một
phiên thuộc. Năm 1054, Lý thánh Tông đổi quốc hiệu là ĐẠI VIỆT. Năm
1164.Trung Hoa đổi tên GIAO CHỈ thành AN NAM QUỐC và phong cho vua
Lý Anh Tông làm AN NAM QUỐC VƯƠNG.
- Năm 1400-1407 Nhà Hồ đặt quốc hiệu là ĐẠI NGU.
- Năm 1407-1804 : Quốc hiệu ĐẠI VIỆT được dùng trong nhiều thời kỳ.
- Năm 1804: Trung Hoa công nhận quốc hiệu Việt Nam.
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

4

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

- Năm 1831, Vua Minh Mạng đổi thành ĐẠI NAM.
- 9/3/1945-24/8/1945: Việt Nam.
- 2/9/1945- 2/7/1976: Việt Nam DÂN CHỦ CỘNG HÒA.
- 8/3/1949- 26-10-1955: QUỐC GIA Việt Nam.
- 26-10-1955 đến 30-4-1975: Việt Nam CỘNG HÒA.

- 2/7/1976: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
III. Ý nghĩa Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Theo phần định nghĩa về quốc hiệu và căn cứ vào quốc hiệu qua các thời kỳ
mà chúng ta có thể chia quốc hiệu mang ba ý nghĩa đặc trưng.
1. Mang ý nghĩa chủ quyền quốc gia và chủ quyền lãnh thổ của mình,
đặc trưng cho nền văn hóa.
Lịch sử của nhiều quốc gia dân tộc như Trung Quốc, Nhật, Việt, thường bắt
đầu bằng những huyền thọai. Chính trong những truyện truyền kỳ thần thọai, tuy
có thể do người đời sau sáng tác ra, nhưng đã lưu truyền trong nhiều ngàn năm
nên có thể ẩn chứa những dấu vết văn hóa lịch sử.Giống như vậy, quốc hiệu Việt
Nam trong thời huyền sử cũng ẩn chứa những dấu vết của nền văn hóa Cổ Việt
thời xa xưa và khẳng định chủ quyền của mình.
a. Quốc hiệu Văn Lang (690-258 TCN)
- Theo những thư tịch cổ sử thì vào đời các vua Hùng, chưa có văn tự rõ
ràng. Văn Lang có nghĩa là quốc gia của những người có văn học, chứng tỏ
không thua kém dân phương Bắc.
- Văn Lang được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam. Quốc gia này có
kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực
Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia
này tồn tại cho đến năm 258 TCN.
- Ðầu thời kỳ đồ đồng, những bô lạc người Việt sống ở miền Bắc và phía
Bắc trung tâm Việt Nam. Tính ra có khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

5

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội


Khoa Quản trị Văn phòng

trên vùng cao nguyên Miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng Hà, hơn 12 nhóm
Âu Việt sống nơi miền Ðông Bắc. Ðể tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống
lụt lội, chống lại kẻ thù Họ có khuynh hướng gom tụ lại thành một nhóm to lớn
hơn. Trong số những bộ lạc Lạc Việt, Văn Lang là mạnh nhất . Những bộ lạc
Lạc Việt được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người cầm đầu tự
xưng là Hùng Vương (các vui Hùng).
- Cách thứ nhất cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới
nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này
nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời
Hùng Vương hàng ngàn năm. Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc
mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích
này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau
thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng
Vương là cũng không ngoài ý nghĩa này.
- Cách thứ hai cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới
có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai
chữ "tân lang" (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của
cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục
nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, "tân lang" là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ
mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của
Văn Lang rất nhiều thế kỉ.
- Cách thứ ba cho rằng: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp
bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải
thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành Ngữ âm học lịch sử. Theo
đó thì: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những
con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này
là kết quả nghiên cứu của ngành. Theo đó thì: Văn là người, nhóm người, tộc

người, cộng đồng người,… Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên
(trong âm Hán - Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

6

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

Khmer).
Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những
con sông. Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách thứ ba được
củng cố thêm bởi kết quả của hàng loạt những cuộc khai quật khảo cổ dọc theo
lưu vực sông Hồng và sông Mã.
b. Quốc hiệu Âu Lạc (257-208 TCN)
- Ðời nhà Thục An Dương Vương Âu Việt đã đuổi được Trung hoa và lấy
tên Âu Lạc (năm 208 trước CN).
- Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (chữ Hán: 郎郎) được dựng lên, từ liên kết các
bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương
Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một
phần Đông nam Quảng Tây (Trung Quốc).
- Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN),
Triệu Đà (quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc
kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lác bị xóa sổ.
- Tên nước Âu Lạc bao gồm hai thành tố Tây Âu và Âu Lạc, phản ánh sự
liên kết giữa hai nhóm người Tây Âu và Lạc Việt, lãnh thổ Âu Lac cũng được xá

nhập bởi hai vùng lãnh thổ Văn Lang và Âu Lạc. Với quốc hiệu Văn Lang đã
khẳng định chủ quyền của Việt Nam, đây là một đất nước chưa bị các ách đô hộ
xâm chiếm, có tên trong lịch sử. Thời kỳ của các vị vua Hùng, thời kỳ đầu xây
dựng đất nước với khí thế hào hùng của đất Việt sự sinh sôi nảy nở của 100 cái
trứng nở thành 100 người con mang sức mạnh tinh thần cũng như thể lực để rồi
khai hoang tạo ra các miền trù phú tươi tốt. Với quốc hiệu Âu Lạc cũng cho ta
liên tưởng nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng nếu dịch theo tên quốc hiệu thì “ Lạc
“ là tên một loài chim hoặc cũng có thể hiểu rằng là một loại lúa và “ Âu Lạc” là
chỉ nền nông nghiệp cũng như Văn Lang, nền nông nghiệp là chính và là cơ sở
hình thành đất nước.

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

7

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

=>Như vậy ở hai Quốc hiệu của hai nhà nước Văn Lang và Âu Lạc thể hiện
đặc trưng cho nền văn hóa lúa nước,là cái nôi của nền văn minh lúa nước, theo
tiếng Hán là nông nghiệp. Đây được coi là nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam
thời sơ khai dựng nước.
2. Thể hiện các yếu tố chính trị cho vùng đất hay cư dân chủ thể của
quốc hiệu vào thời kỳ độc lập.
Sau thời kỳ dựng nước của các Vua Hùng với quốc hiệu “ Văn Lang” và
“Âu Lạc” khi đã có tên trên lãnh thổ lần lượt các thế lực đô hộ phương Bắc

bắt đầu xâm chiếm nước ta và dần có những Quốc hiệu mới được hình thành
do các vị tướng đánh giặc và lập nên và cũng đồng thời gắn liền với chế độ
chính trị khác nhau nhưng cũng khẳng định được chủ quyền của đất nước
tuy vẫn còn sự phụ thuộc chế độ đo hộ, phong kiến.
a. Quốc hiệu Vạn Xuân (544-602)
- Vạn Xuân (chữ Hán: 郎郎) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ
độc lập ngắn ngủi khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý
dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến
năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.
- Bàn về quốc hiệu " Vạn Xuân", Đại Việt Sử kí đã cho rằng " với quốc
hiệu mới, người đứng đầu nhà nước Vạn Xuân có ý mong xã tắc được bền
vững muôn đời". Lí Bí là người Việt Nam đầu tiên xưng làm hoàng đế, định
niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi Bắc, lấy Việt đối sách với
Hoa đã khẳng định ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình
vươn lên, phát triển đất nước độc lập và tự chủ. Đó là sự ngang nhiên phủ
định quyền làm " làm bá chủ toàn thiên hạ" của hoàng đế phương Bắc, vạch
rõ sơn hà, cương vực và là sự khẳng định dứt khoát rằng " nòi giống Việt
phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết
giành quyền làm chủ vận mệnh của mình”.
b. Quốc hiệu Đại Cồ Việt (968-1053)

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

8

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội


Khoa Quản trị Văn phòng

- Nếu Vạn Xuân có thể là quốc hiệu đầu tiên của dân Việt thì Đạị Cồ
Việt là quốc hiệu chính thức đầu tiên trong thời kỳ nước ta đã dành được độc
lập. Sau khi dẹp xong 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua năm 968, đặt
quốc hiệu là Đại Cồ Việt.
- Ý nghĩa quốc hiệu Đại Cồ Việt:
+ "Đại" theo nghĩa chữ Hán là lớn, "Cồ" trong tiếng Việt cổ cũng là
lớn.Đinh Tiên Hoàng muốn ghép 2 chữ cả Hán và Việt để khẳng định nước
Việt là nước lớn, dù đọc theo ngôn ngữ nào.
+ Ý nghĩa này còn được thể hiện ở hai câu đối (vẫn còn trong đền vua
Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư): “Cồ Việt quốc đương Tống Khai Bảo Hoa Lư
đô thị Hán Trường An”. Nghĩa là : “Nước Cồ ngang hàng nhà Tống của nhà
Hán”.
c. Quốc hiệu Đại Việt (1054-1804)
- Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói
nhiều ngày mới tắt, nhà Lý liền cho đổi tên nước là Ðại Việt và quốc hiệu
Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần…
- Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh
của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt
(lãnh thổ nước ta lúc này về phái Nam đã tới Huế).
- Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời
Tây Sơ (1788-1802). Chữ “Đại” được sử dụng trong các quốc hiệu.
- Ý nghĩa của quốc hiệu Đại Việt không có gì khác với Quốc hiệu Đại
Cồ Việt. Tên Đại Việt được viết trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi có viết:
“Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân,
được phong sang Việt Nam làm tổ Bách Việt”, nhưng trong Bình Ngô đại
cáo ông lại viết: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hóa đã
lâu”, ở thế kỷ XV.


Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

9

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

d. Quốc hiệu Đại Ngu (1400-1407)
- Đại Ngu là quốc hiệu Việt Nam đời nhà Hồ. Sau khi đảo chánh nhà
Trần, Hồ Quý Ly lên làm vua.
- Năm 1407, nhà Minh, dù đã sắc phong cho Hồ Hán Thương làm An
Nam Quốc Vương năm 1403, vẫn đem quân xâm lăng Đại Ngu, bắt gia đình
Hồ Quý Ly, xóa quốc hiệu Đại Ngu, thi hành chính sách đồng hóa triệt để.
- Quốc hiệu “Đại Ngu” bắt nguồn từ truyền thuyết cho rằng họ Hồ là con
cháu Ngu Thuấn- một vị vua của Trung Hoa cổ đại, nổi tiếng vì đã đem lại
sự bình yên và thịnh vượng cho dân chúng. Chữ “Ngu”có nghĩa là “sự yên
vui, hòa bình”. “Đại Ngu thể hiện ước vọng của nhà Hồ về một giang sơn
bình yên và rộng lớn. Trong lịch sử đã ghi nhận những đóng góp to lớn của
nhà Hồ nhằm thực hiện mong muốn này. Ngay từ cuối thời Trần, Hồ Quý Ly
đã thực hiện những cải cách sâu sắc, nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng của
xã hội. Sau khi ông lên ngôi, đã đẩy mạnh các cuộc cải cách này và đem lại
nhiều đổi thay cho đất nước về các mặt kinh tế, văn hóa và xã hội.
Dưới quốc hiệu Đại Ngu, người Việt cũng được chứng kiến những thành tựu
về khoa học – kỹ thuật: phát minh súng thần cơ, thuyền chiến hai tầng, hệ
thống thủy lợi quy củ, công trình kiến trúc hoành tráng… Tuy nhiên, sự bình
yên thịnh vượng mà quốc hiệu Đại Ngu hướng tới chỉ tồn tại trong 7 năm

ngắn ngủi. Trước cuộc xâm lược của nhà Minh, nhà Hồ đã bị sụp đổ vào 41407, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của quốc hiệu Đại Ngu.
e. Quốc hiệu Việt Nam (1804-1884)
- Ngay từ khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã cử sứ thần sang Trung Hoa
xin nhà Thanh phong vương và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, với lý lẽ rằng
“Nam” là “An Nam”, “Việt” là “Việt Thường”. Nhà Thanh từ chối vì cho
rằng Nam Việt là tên nước của Triệu Đà ngày trước, bao gồm cả vùng Lưỡng
Quảng Trung Quốc. Thanh triều cho đổi chữ Việt ra trước thành tên Việt
Nam.

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

10

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

- Tháng giêng năm 1804, nhà Thanh sai sứ thần sang Thăng Long tuyên
phong Gia Long làm Việt Nam Quốc Vương. Vua Gia Long chính thức đặt
quốc hiệu là Việt Nam.
- Ý nghĩa của quốc hiệu Việt Nam thể hiện ý chí độc lập, tự do của dân
tộc.
Đất nước Việt Nam phát triển sau các cuộc Nam tiến trong 700 năm.
- Tuy nhiên, tên gọi "Việt Nam" có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ
cuối thế lỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề “Việt Nam thế chí” (nay không
còn) hay ở trong Cuốn “Dư địa chí” viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi
(1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”.

- Về ý nghĩa từ Việt Nam, nhiều giả thuyết cho rằng từ Việt Nam kiến
tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
f. Quốc hiệu Đại Nam (1820-1840)
-Vua Gia Long thăng hà vào năm 1820. Vua Minh Mạng nối ngối (18201840) với chính sách trung ương tập quyền, Vua Minh Mạng đã đưa Việt
Nam thành một quốc gia lớn rộng và tương đối hùng mạnh trong vùng Đông
Nam Á.
- Năm 1938,Vua Minh Mạng quyết định đổi quốc hiệu từ Việt Nam sang
Đại Nam – Đại Nam là một nước lớn.
3. Trong thời cận và hiện đại, quốc hiệu thường biểu lộ thể chế chính trị
hay ước muốn chính trị của quốc gia.
Từ năm 1945, khi phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển
mạnh mẽ thì phong trào giả phóng đất nước của Việt Nam cũng dâng trào
lên mạnh mẽ với những cuộc đấu tranh giành độc lập, tự chủ hay nhu cầu áp
dụng những chủ nghĩa mới, những hình thức chính trị mới. Cho nên từ đấy
mỗi khi nắm được chính quyền và đất nước, các nhà cầm quyền tìm cách
thay đổi quốc hiệu bằng cách thêm vào quốc hiệu Việt Nam những từ để nêu
rõ đường hướng chính trị của mình.
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

11

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

a. Quốc hiệu Việt Nam dân chủ cộng hòa
- Đến cuối năm 1944 đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai đã gần

bước vào giai đoạn kết thúc, bọn phát xít Đức bị hồng quân Liên Xô tiêu
diệt, phát xít Nhật thì hoang mang cực độ cả trên mặt trận Thái Bình Dương
cũng như trong đất nước Việt Nam.
- Ngày 14-8-1945, Nhật Bản đầu hàng. Ngay sau đó, Hồ chí Minh và
Mặt Trận Việt Minh phát động lệnh Tổng khởi nghĩa dành chính quyền trong
cả nước
- Ngày 19-8-1945, ta cướp chính quyền tại Hà Nội, giải phóng thủ đô.
- Ngày 30-8-1945, Bảo Đại tuyên bố thoái vị.
- Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tại
Quảng trường Ba Đình- Hà Nội, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Đây là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954 và miền Bắc
Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng
9 năm 1945 (ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Với quốc hiệu này
đã khẳng định rằng nước Việt Nam là nước độc lập, tự do, tự chủ.
Sau năm 1945, sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thì tiền Việt
Nam cũng được phát hành và ghi tên quốc hiệu trên đó.
- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Pháp và Quốc gia Việt
Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954-1975,
chính thể này lại phải đối đầu với Việt Nam Cộng Hoà được thành lập tại
miền Nam Việt Nam.
- Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phá tan xiềng xích
nô lệ của Pháp - Nhật, từ một nước thuộc địa chúng ta giành độc lập tự do,
giành chính quyền cách mạng. Mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đông thời
cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa trên thế
giới mở ra kỷ nguyên mới cho nước ta là kỷ nguyên độc lập dân tộc thông
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

12


Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

nhất đất nước, nhân dân được quyền làm chủ vận mệnh dân tộc của
mình. Việt Nam dân chủ cộng hòa là tên nước mà chủ tịch Hồ Chí Minh và
toàn Đảng mong muốn rằng nhân dân ta có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, xây dựng nước Việt dân chủ tiến bộ, công bằng tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
- Quốc hiệu này chỉ rõ rằng Đảng Cộng sản tuy nắm chính quyền nhưng
vẫn nhờ vào sự đoàn kết dân tộc để lôi kéo các thành phần khác trong xã hội
và lãnh đạo cách mạng đi lên thắng lợi dành độc lập cho dân tộc Việt Nam.
b. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976 đến nay)
- Đó là lý do mà sau 30-4-1975. Việt Nam dân chủ cộng hòa nắm thực
quyền trong cả nước Việt Nam nhưng vẩn duy trì chính phủ bù nhìn Cộng
Hòa Miền Nam Việt Nam và cả hai chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng xin gia nhập Liên Hiệp Quốc nhưng
bị khước từ.
- Năm 1976, Hà Nội tiến hành gỉải tán chính phủ lâm thời Cộng hòa
miền nam Việt Nam, thực hiện cuộc “hiệp thương thống nhất nước nhà về
mặt nhà nước”.
- Ngày 2-7-1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
quyết định đổi tên nước là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà
nội. Và quốc hiệu này được sử dụng đến tận bây giờ. Quốc hiệu Việt Nam
trên tiền (từ năm 1976 đến nay). Đây là Quốc hiệu mang ý nghĩa trọn vẹn
vừa độc lập, tự do, thống nhất nước nhà và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo hạnh
phúc của nhân dân căn cứ vào lợi ích và quyền hạn của công dân, đi theo

hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Quốc hiệu còn có ý nghĩa thể hiện nước Việt
Nam là một nước độc lập có chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, là
nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, là một nước dân chủ, là nhà nước của
dân, do dân và tất cả thuộc về nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân dựa trên nền tảng của giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

13

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

tri thức, xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quốc hiệu Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam còn khẳng định Nhà nước Việt Nam có hình thức
thể chế là cộng hòa xã hội chủ nghĩa, có chế độ chính trị dân chủ thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ.
Trên đây là toàn bộ quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam cũng như các Quốc hiệu của từng thời kỳ lịch sử của ông cha ta.
IV. Ý nghĩa Quốc hiệu Việt Nam hiện nay
Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa biểu thị
chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao;
biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng
nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc.
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn, nước ta từng có những quốc
hiệu như Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu, Việt

Nam, Đại Nam, Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 30/4/1975, miền Nam được
giải phóng non sông quy về một mối. Từ ngày 2.7.1976, trong kỳ họp đầu tiên
của Quốc hội khóa VI nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định đổi
thành quốc hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cho đến ngày nay. Hiến
pháp năm 1980 và hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa nó
trở thành chính thức cả về pháp lý và trên thực tế. Tên quốc hiệu “Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” có ý nghĩa rất quan trọng về cả mặt chính trị, ngoại
giao, pháp lý và bản chất Nhà nước Việt Nam hiện nay. Bên canh đó tên Quốc
hiệu còn có ý nghĩa về mặt thẩm mỹ đối với các văn bản quy phạm pháp luật
hay văn bản hành chính của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan tư pháp, cơ
quan lập pháp, cơ quan có thẩm quyền ban hành.
1. Về mặt chính trị
- Quốc hiệu hiện nay khẳng định Nhà nước Việt Nam có hình thức chính thể
là cộng hòa xã hội chủ nghĩa, có chế độ chính trị dân chủ và là nhà nước đơn
nhất, quyền lực thuộc về tay nhân dân dưới sự quản lý của nhà nước và sự lãnh
đạo của Đảng duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

14

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

- Theo điều 4 Hiến pháp 1992, Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư

tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiếp pháp và pháp luật.
- Hiện nay chế độ chính trị của Việt Nam theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý nhân dân làm chủ thông qua Quốc hội Việt Nam. Đảm bảo tính
dân chủ trong đất nước dưới sự giám sát của Quốc hội, của Hội đồng nhân dâ,
của Đảng, tổ chức chính trị… nhằm quyền dân chủ thuộc về tay nhân dân.
Ví dụ: trong việc sửa đổi Hiến Pháp vừa qua tại Đại hội Đảng lần thứ XIII,
Đảng và Nhà nước đã thực hiện trưng cầu ý kiến của người dân, xem xét để đưa
ra quyết định sửa đổi phù hợp. Hay trong hoạt động chất vấn trực tiếp của đại
biểu Quốc hội với Cơ quan quyền lực nhà nước đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo
của người dân thể hiện tính dân chủ rõ rệt.
2. Về mặt bản chất
Quốc hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được thể hiệm qua:
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ của dân, do dân và vì dân. Nhà nước pháp quyền thể hiện trực tiếp sức
mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây là nhà
nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân, một nhà nước dựa trên
nền dân chủ, vì công lý. Theo điều 2 Hiến pháp 1992, “Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân vì nhân dân.”
- Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền đảm bảo
quyền lực nhà nước thống nhất từ trung ương tới địa phương, đảm bảo tam
quyền phân lập: pháp, hành pháp và tư pháp. Theo điều 2 Hiến pháp 1992,
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc lập pháp, hành pháp, tư pháp.”

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

15


Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

- Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo tất cả quyền lực thuộc
về tay nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân và nông dân làm và đội ngũ trí
thức làm nền tảng.
- Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa là nhà nước thống nhất của các dân
tộc. Quốc gia Việt Nam bao gồm 54 dân tộc anh em sinh sống trên toàn bộ lãnh
thổ Việt Nam đa số là dân tộc kinh bên cạnh còn nhiều dân tộc khác như Mông,
Dao, Khơ-me, Tày, Nùng, Thái,… Tuy có sự khác nhau về địa lý, về điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội nhưng ở mỗi dân tộc lại có phong tục tập quán, lễ hội,
trang phục đã tạo đặc trưng và bản sắc dân tộc Việt Nam đa dạng phong phú
nhưng thống nhất. Theo điều 5 Hiến pháp 1992, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, là “Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên
đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.Các dân tộc
có quyền dùng tiếng nói, chữ viết giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những
phong tục, tập quán truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và
tinh thành của đồng bào dân tộc thiểu số.”
- Đảm bảo quyền lực giữa nhân dân và nhà nước, thực hiện theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì giữa hai bên
có quyền và nghĩa vụ với nhau được nghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng Hiến
pháp và pháp luật. Nhà nước luôn quan tâm đến quyền của nhân dân. Theo điều
6 Hiếp pháp 1992 “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của

nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Nhà nước
quản lý công dân bằng pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân, bên cạnh đó nhân dân là chủ thể của Nhà nước thực hiện nghĩa vụ của
mình.
- Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo và không ngừng
phát huy quyền làm chủ của nhân dân về mọi mặt. Theo điều 3 Hiến Pháp
1992,” Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt
Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

16

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; nghiêm trụ mọi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân.’’
3. Về mặt pháp lý
- Quốc hiệu nước ta đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992. Cụ thể hóa
Hiến pháp, tại Thông tư liên tích số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP và Thông tư số
01/2011/TT-BNV về hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản cũng đã
quy định quốc hiệu trở thành một trong các thành phần của văn bản. Vì vậy, việc
ghi quốc hiệu còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng, là sự tôn trọng Hiếp pháp và
pháp luật.
- Quốc hiệu còn thể hiện chủ quyền của đất nước Việt Nam, theo thể chế

chính trị độc lập, dân chủ, khẳng định với các nước trên thế giới nền chính trị và
thể chế của Việt Nam theo chủ nghĩa xã hội.
- Nước cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập tự chủ, có
chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
4. Về mặt ngoại giao
- Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo cho việc hòa bình hợp tác
cùng phát triển với các nước bạn. Theo điề 14 Hiến pháp “Nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” với các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ
chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp
tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.”
- Với mục đích là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
thì chúng ta cần sự giúp đỡ của anh em bạn bè thế giới.

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

17

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

5. Về tính thẩm mỹ
Bắt buộc trong các văn bản cần phải cần phải có Quốc hiệu thiếu quốc hiệu,

văn bản không chỉ thiếu tính trang trọng mà đối với những văn bản quản lý nhà
nước trở thành bất hợp pháp. Quốc hiệu trên văn bản hành chính nhà nước. Hiện
nay có nhiều ý kiến cho rằng nên đổi lại quốc hiệu Việt Nam thành Việt
Nam dân chủ cộng hòa cho phù hợp với Việt Nam nhưng cũng có nhiều ý kiến
cho rằng giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như thế phù hợp
với nền chính trị của nước ta hơn.

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

18

Bài Tiểu luận


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Khoa Quản trị Văn phòng

C. KẾT LUẬN
Đất nước Việt Nam trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử và phát triển từ thời
ông cha ta ngày xưa cũng đã biết đặt tên nước hay còn gọi là quốc hiệu theo đặc
điểm của địa lý lãnh thổ, nền văn hóa dân tộc … Theo thời gian sự phát triển của
các chế độ chính trị quốc hiệu cũng được thay đổi để phù hợp với sự phát triển
của đất nước và nền chính trị hiện tại. Có thể nói quốc hiệu là một biểu tượng có
vị trí đặc biệt quan trọng của quốc gia không chỉ riêng đối với nước ta mà đối
với toàn thế giới. Quốc hiệu không chỉ thể hiện nét văn hóa của dân tộc còn cho
thấy chế độ chính trị còn khẳng định chủ quyền của quốc gia. Hồ Chủ tịch đã
từng nói “Dân ta phải biết sử ta cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” nhưng
thực tế bây giờ rất ít bạn trẻ có niềm đam mê với sử ngay bản thân em cũng thế
nhưng qua bài tiểu luận này em đã hiểu thêm về lịch sử nước nhà biết thêm được

nhiều điều để phục vụ trong học tập cũng như công việc của em sau này. Với sự
giúp đỡ của giáo viên bộ môn và các kiến thức trong sách và ngoài sách em đã
hoàn thành xong bài tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Ngô Văn Thuận

Ngô Văn Thuận – Lớp CĐLT QTVPK14A

19

Bài Tiểu luận



×