Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội theo hiến pháp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.34 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ NGỌC HÀ

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA NGUYÊN TẮC
SUY ĐOÁN VÔ TỘI THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT HÀNH CHÍNH – HIẾN PHÁP
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THÁI DƯƠNG

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Tiến sĩ Trần Thái Dương – thầy giáo kính mến đã hết lòng giúp
đỡ, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa Pháp luật Hành chính – Hiến pháp và cán bộ Thư viện trường Đại học


Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 04 tháng 08 năm 2016
Tác giả

Lê Thị Ngọc Hà


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ
từ Giảng viên hướng dẫn là TS. Trần Thái Dương. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau
có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số
nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và
cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian
lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả
luận văn của mình.
XÁC NHẬN CỦA
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

Hà Nội, ngày 04 tháng 08 năm 2016
Tác giả

Lê Thị Ngọc Hà



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................................... 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn.............................................. 8
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn ............................................................. 8
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn……...……………………………….9
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn ..................... 9
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.............................................. 10
8. Bố cục của luận văn.................................................................................. 10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI .............................. 11
1.1. Khái quát về bảo vệ quyền con người .................................................... 11
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người ..................... 11
1.1.2. Nội dung bảo vệ quyền con người ....................................................... 19
1.2.3. Cơ chế bảo vệ quyền con người .......................................................... 22
1.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội ................................................................... 29
1.2.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội................................................. 29
1.2.2. Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội .................................................. 31
1.2.3. Điều kiện bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ................................... 39
1.2.4. Vị trí, vai trò của nguyên tắc suy đoán vô tội trong bảo vệ quyền con
người ............................................................................................................ 45
1.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp một số nước trên thế giới và
kinh nghiệm cho Việt Nam........................................................................... 50
1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp một số nước trên thế giới 50
1.3.2. Kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................. 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG I……………………………………………………56
Chương 2. NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG HIẾN PHÁP

VIỆT NAM VÀ VIỆC THI HÀNH HIẾN PHÁP ..................................... 57
2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển nguyên tắc suy đoán vô tội qua
các Hiến pháp Việt Nam .............................................................................. 57


2.1.1. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1946 đến trước Hiến pháp năm 1959 .... 57
2.1.2. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1959 đến trước Hiến pháp năm 1980 .... 59
2.1.3. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1980 đến trước Hiến pháp năm 1992 .... 60
2.1.4. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1992 đến trước Hiến pháp năm 2013 .... 61
2.1.5. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 2013 đến nay......................................... 64
2.2. Nội dung, ý nghĩa bảo vệ quyền con người của quy định về nguyên tắc
suy đoán vô tội theo Hiến pháp năm 2013 .................................................... 66
2.2.1. Nội dung quy định nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp năm
2013 ............................................................................................................. 66
2.2.2. Ý nghĩa bảo vệ quyền con người của quy định về nguyên tắc suy đoán
vô tội theo Hiến pháp năm 2013 ................................................................... 69
2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ....... 72
2.3.1. Nội dung quy định nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 ................................................................................................. 72
2.3.2. Các quy định bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 ......................................................................................... 73
2.4. Một số ý kiến đề xuất về bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc
suy đoán vô tội theo Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay ................................... 80
2.4.1. Tiếp tục thi hành Hiến pháp năm 2013; quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về nguyên tắc suy đoán vô tội ......... 80
2.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và
nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư tranh tụng…………………………...82
2.4.3. Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc
suy đoán vô tội ............................................................................................. 84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 88

KẾT LUẬN ................................................................................................. 89


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất, là đạo luật tổng
quát, những quy định trong Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân
được cụ thể hóa trong các luật liên quan. Khi khái niệm quyền con người
được nhận thức là giá trị chung của nhân loại thì cùng với đó, hầu như tất cả
các quốc gia đều đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc bảo vệ
quyền con người. Bảo vệ quyền con người là hoạt động có nội dung rộng lớn,
phong phú, đa dạng, liên quan đến trách nhiệm chính trị, pháp lý, xã hội của
nhiều chủ thể, là trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan, cán bộ công chức,
viên chức nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, cá nhân và của cả cộng đồng. Từ góc độ tổ chức quyền lực nhà nước,
bảo vệ quyền con người được thực hiện qua hoạt động lập pháp, hành pháp,
tư pháp; thông qua cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, là
hoạt động áp dụng pháp luật trong việc quản lý, ghi nhận và xử lý các hành vi
xâm phạm quyền con người của các chủ thể trong hệ thống quản lý của quốc
gia. Đây chính là vấn đề được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm
và khẳng định là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên. Bảo vệ quyền con người
thông qua nguyên tắc hiến pháp là việc hiến định, đặt nền tảng cho toàn bộ hệ
thống pháp luật cũng như việc thực hiện pháp luật để quyền con người được
tôn trọng, đảm bảo hiện thực hóa, chống lại các hành vi xâm phạm; phát triển
các điều kiện kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho con người được hưởng thụ
các quyền của mình.
Trong số các nội dung bảo vệ quyền con người thì bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi đó là một lĩnh

vực khó khăn, phức tạp và nhạy cảm, liên quan đến những quyền cơ bản, thiết
thực nhất của người bị buộc tội như quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền
tự do đi lại, cư trú… An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, các quyền và lợi
ích hợp pháp của mọi người được bảo vệ là nhu cầu khách quan của xã hội, là
mục tiêu tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước mà trực tiếp ở đây là
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Nhu cầu đó của xã hội đặt ra nhiệm vụ


2

đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ nền công lí.
Nhưng mặt khác, việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử để xác
định sự thật khách quan của vụ án cũng tiềm ẩn nguy cơ xâm hại các quyền
của người bị buộc tội. Do vậy, có thể khẳng định rằng trong các nguyên tắc
bảo vệ quyền con người ở lĩnh vực tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô
tội được coi là phương tiện pháp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm
chống lại những vi phạm có thể xảy ra đối với quyền con người của người bị
buộc tội.
Từ góc độ pháp luật, nguyên tắc suy đoán vô tội có thể được xem xét ở
cả 3 phương diện: là nguyên tắc trong luật nhân quyền quốc tế, là nguyên tắc
hiến định (được ghi nhận trong hiến pháp) và được quy định cụ thể hoá thành
nguyên tắc pháp luật tố tụng hình sự. Xét trên khía cạnh luật nhân quyền quốc
tế, nguyên tắc suy đoán vô tội được đánh giá là một trong những thành tựu
văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Việt Nam đã gia nhập
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị từ ngày 24/9/1982. Trước
yêu cầu bảo vệ quyền con người và xu thế hội nhập quốc tế ngày càng mạnh
mẽ, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ ràng, riêng biệt về “các quyền con người” bên cạnh các quyền công
dân, khắc phục tình trạng quyền con người chỉ được thể hiện trong quyền
công dân như bản Hiến pháp trước đó. Đi cùng với xu hướng ấy, quy định tại

Điều 31 Hiến pháp năm 2013 thể hiện nguyên tắc suy đoán vô tội đã chính
thức được thừa nhận là nguyên tắc hiến định. Trong đời sống xã hội, suy đoán
vô tội không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn được coi là vấn đề mang tính triết
học, nhân văn học… sâu sắc. Bởi lẽ giải phóng con người, tôn trọng những
quyền cơ bản của con người là khát vọng của cả nhân loại và mục tiêu mà
khoa học pháp lý, triết học, nhân văn học… hướng tới. Ngày nay, nguyên tắc
suy đoán vô tội đã và đang trở thành một nguyên tắc có ý nghĩa rộng lớn, bao
quát nhiều lĩnh vực đồng thời cũng được xem xét, nghiên cứu ở nhiều cấp độ
khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Đây cũng là một trong
những nội dung thể hiện rõ nét trách nhiệm của quốc gia trong việc thực hiện
các cam kết quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.


3

Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội cần
được thể hiện một cách toàn diện, đầy đủ, thống nhất trong các lĩnh vực pháp
luật, từ luật nhân quyền quốc tế, luật hiến pháp và luật tố tụng hình sự và
được đảm bảo thực thi trong toàn bộ hệ thống pháp luật và hoạt động thực tế
của bộ máy nhà nước, nhất là hoạt động của các cơ quan tư pháp, các thiết chế
bổ trợ tư pháp…. Với những quy định mới của Hiến pháp năm 2013 về
nguyên tắc suy đoán vô tội, nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay đang đặt ra là
cần phải cụ thể hóa các quy định cũng như tinh thần, tư tưởng của Hiến pháp
vào các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Bộ luật hình sự, Bộ luật
tố tụng hình sự… tạo thành hệ thống đồng bộ về cơ sở pháp lí cho việc triển
khai nguyên tắc vào thực tiễn đời sống xã hội. Bên cạnh đó, Nhà nước và xã
hội cũng cần hết sức lưu tâm tạo ra và củng cố các điều kiện bảo đảm cho
nguyên tắc được hiện thực hoá, trong đó có việc nâng cao nhận thức của các
cơ quan, cán bộ công chức nhà nước và người dân về nội dung, ý nghĩa bảo
vệ quyền con người của nguyên tắc suy đoán vô tội. Trên thực tế hoạt động tư

pháp hình sự, thời gian qua ở Việt Nam đã có không ít những vụ oan, sai vi
phạm nghiêm trọng các quyền của người bị buộc tội, gây bức xúc trong xã
hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước
nói chung và nhất là đối với hệ thống tư pháp nói riêng. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng đó là do nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được đề
cao, thấm sâu vào hoạt động của bộ máy tố tụng hình sự, chưa trở thành nhận
thức đầy đủ của mọi người dân.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về bảo vệ quyền con người thông qua
nguyên tắc suy đoán vôi tội theo Hiến pháp năm 2013 là việc làm mang ý
nghĩa to lớn cả về lí luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học
nghiên cứu về quyền con người, bảo vệ quyền con người và nguyên tắc suy
đoán vô tội ở những góc độ, cấp độ khác nhau. Có thể chia các công trình
khoa học có đối tượng nghiên cứu liên quan đến đối tượng nghiên cứu của
luận văn thành hai nhóm như sau:


4

Nhóm 1: Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về quyền con người
và bảo vệ quyền con người.
- Viện khoa học xã hội Việt Nam, Quyền con người: tiếp cận đa ngành
và liên ngành luật học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010.
Đây là công trình nghiên cứu về quyền con người trên phạm vi rộng lớn,
dưới góc độ của nhiều ngành khoa học, bao gồm cả khoa học nhân văn ở
những phạm vi, mức độ khác nhau, trong đó 14 ngành khoa học nghiên cứu
có đối tượng nghiên cứu chính hoặc có một số vấn đề nghiên cứu liên quan
đến quyền con người. Đồng thời, các tác giả cũng chỉ ra mối liên hệ, sự đan
xen, lồng ghép, bổ sung, làm tiền đề cho nhau của những phương diện nghiên

cứu trên về quyền con người tạo thành ra mối liên hệ mang tính liên ngành
trong nghiên cứu về quyền con người.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Quyền con người trong
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam,
2014. Cuốn sách đề cập quyền con người dưới góc độ pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia. Khi nghiên cứu về quyền con người dưới góc độ pháp luật
quốc tế, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu theo từng nhóm cụ thể của quyền
con người, từ cơ sở đó đối chiếu, so sánh với quy định của pháp luật Việt
Nam.
- Hoàng Công (2014), “Hiến pháp năm 2013 và vấn đề quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.66
– 70.
Tác giả nghiên cứu Hiến pháp năm 2013 với các chế định về bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, chỉ ra sự phát triển của Hiến pháp năm
2013 trong việc tiếp thu cao nhất các ý kiến đóng góp của nhân dân phù hợp
với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người nhằm đảm bảo tốt hơn
quyền con người. Đồng thời tác giả chỉ ra rằng, để bảo đảm quyền con người,
quyền công dân thì về mặt pháp lý cần được quy định cụ thể trong tất cả các
đạo luật và văn bản pháp luật có liên quan.


5

- Vũ Hoàng Công (2013), “Bảo đảm và thực hiện quyền con người ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản (12), tr. 39 –
44.
Tác giả chỉ ra những thành tựu và hạn chế của Việt Nam trong việc tôn
trọng và bảo đảm quyền con người trong giai đoạn hội nhập quốc tế và chỉ ra
những thuận lợi và khó khăn, thách thức trên con đường phát triển hơn nữa
quyền con người. Trên cơ sở phân tích ba cấp độ mà các nhà nước cần tuân

theo trong giải quyết vấn đề quyền con người đó là: tôn trọng, bảo vệ quyền
con người; bảo đảm trong thực tế các quyền con người và không ngừng thúc
đẩy quyền con người tác giả đã đưa ra hương hướng và giải pháp trong giải
quyết vấn đề quyền con người trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu
rộng ở Việt Nam.
- Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm, “Cơ chế bảo vệ quyền con người ở
một số nước ASEAN và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Trang thông tin của
Tạp chí dân chủ và pháp luật, tại địa chỉ:
/>truy cập ngày 15/6/2016.
Tác giả nghiên cứu khái quát về ASEAN, những điểm chung và khác
biệt giữa các quốc gia trong khối ASEAN về lịch sử, chế độ chính trị, cách
thức tổ chức bộ máy nhà nước, điều kiện kinh tế và chỉ ra rằng mỗi quốc gia
đều đối diện với những thách thức về vấn đề quyền con người và bảo vệ
quyền con người. Đồng thời tác giả phân tích, tổng hợp và đưa ra các cơ chế
trong nước bảo vệ quyền con người ở các nước ASEAN trên cơ sở đó rút ra
một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên cơ sở phù hợp với văn hóa,
thể chế chính trị, hệ thống pháp luật… và những cam kết quốc tế của Việt
Nam trong lĩnh vực nhân quyền.
Nhóm hai: Các công trình khoa học nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán
vô tội.
- Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011.


6

Cuốn sách làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc suy đoán vô
tội trong pháp luật tố tụng hình sự; phân tích làm rõ thực trạng sự thể hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp
dụng ở Việt Nam; nghiên cứu, so sánh với những quy định tương ứng trong

pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị
hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự; đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về suy đoán vô tội và
nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam; qua đó, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay.
- Nguyễn Thái Phúc (2006), “Nguyên tắc suy đoán vô tội”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, (11), tr. 72-83.
Tác giả nghiên cứu về cội nguồn lịch sử của nguyên tắc suy đoán vô tội,
các quy định, nội dung của nguyên tắc và đưa ra những kiến nghị, sửa đổi bổ
sung nhằm hoàn thiện nguyên tắc suy đoán vô tội.
- Vũ Gia Lâm (2014), “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình
sự”, Tạp chí Luật học, (1), tr.38-44.
Tác giả nghiên cứu nguyên tắc suy đoán vô tội chủ yếu dưới góc độ là
nguyên tắc của tố tụng hình sự trong mối quan hệ với các chế định khác của
tố tụng hình sự, đó là quyền im lặng, quy định về quyền thu thập chứng cứ,
thủ tục tố tụng hình sự… Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra phương hướng sửa đổi,
bổ sung những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nguyên tắc
suy đoán vô tội và cả những quy định có liên quan.
- Nguyễn Văn Quảng (2014),“Hiến pháp năm 2013 với nguyên tắc suy
đoán vô tội và trách nhiệm triển khai thi hành của ngành Kiểm sát nhân dân”,
Tạp chí Kiểm sát, (6), tr.2-5,15.
Bài viết đề cập quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp
năm 2013 trên cơ sở so sánh và phân tích những điểm mới, điểm tiến bộ so
với quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội tại Hiến pháp năm 1992. Từ đó,
tác giả phân tích những yêu cầu mà nguyên tắc suy đoán vô tội đặt ra cho
Ngành kiểm sát nhân dân: những trách nhiệm mới trong quá trình thực thi


7


Hiến pháp; trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo vệ quyền
con người, quyền công dân; những yêu cầu nhiệm vụ cụ thể và công tác
nghiên cứu khoa học, đào tạo bồi dưỡng trong ngành.
- Phạm Hồng Phong (2014), Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp
năm 2013, Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.77-80.
Tác giả bài viết phân tích nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp
năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 và mối quan hệ của nguyên tắc suy đoán
vôi tội với các chế định khác như: bồi thường cho người oan sai, các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và yêu cầu của việc hoàn thiện các quy
định về biện pháp ngăn chặn theo hướng bảo đảm tốt hơn việc thực hiện
quyền công dân của bị can, bị cáo.
Các công trình nêu trên thường nghiên cứu nguyên tắc suy đoán vô tội
và bảo vệ quyền con người một cách độc lập hoặc tách rời nhau. Đa số các
công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền con người được công bố trong thời
gian vừa qua chủ yếu tiếp cận vấn đề bảo vệ quyền con người một cách tổng
hợp trên các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và hoạt động tư
pháp… hoặc có công trình nghiên cứu quyền con người dưới góc độ pháp luật
quốc tế với việc tìm hiểu các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia hoặc
cũng có một số nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ quyền con người
trong phạm vi hẹp hơn là lĩnh vực tư pháp hình sự. Tuy nhiên, có thể khẳng
định được rằng hầu như chưa có công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền con
người thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội và tiếp cận nguyên tắc này dưới
góc độ chuyên ngành luật Hiến pháp cũng như mối liên hệ thống nhất giữa
luật hiến pháp với các luật chuyên ngành khác, nhất là luật tố tụng hình sự.
Phần lớn các công trình nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán vô tội được nhìn
nhận dưới góc độ chuyên ngành luật tố tụng hình sự, đề cập những nội dung
cụ thể của nguyên tắc, mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội với các
chế định khác của luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Đặc biệt, những nghiên
cứu hiện có cũng chưa đi sâu làm rõ được vai trò của nguyên tắc này trong

việc bảo vệ quyền con người. Một số bài báo khoa học viết về nguyên tắc suy
đoán vô tội, tuy cũng tiếp cận dưới góc độ luật hiến pháp nhưng chỉ dừng lại


8

ở việc phân tích các quy định liên quan trong Hiến pháp năm 2013, hơn nữa ở
phạm vi của một bài báo khoa học thì nội dung nghiên cứu chưa thật sự đầy
đủ và sâu sắc.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con
người thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu ở Việt Nam.
Tuy nhiên, luận văn cũng tham khảo kinh nghiệm bảo vệ quyền con người
thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp và pháp luật ở một số
nước trên thế giới.
+ Về thời gian: Luận văn đề cập khái quát bảo vệ quyền con người thông
qua nguyên tắc suy đoán vô tội theo các bản Hiến pháp Việt Nam qua các giai
đoạn: 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. Đặc biệt, luận văn tập trung làm rõ nội
dung, ý nghĩa nguyên tắc này theo nội dung quy định và tinh thần, tư tưởng
được thể hiện trong Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 2013.
+ Về chuyên ngành: Luận văn tiếp cận vấn đề chủ yếu từ góc độ chuyên
ngành luật hiến pháp, phân tích nội dung quy định hoặc tinh thần, tư tưởng
của Hiến pháp về nguyên tắc suy đoán vô tội với tính cách là nền tảng pháp lí
cho toàn bộ hệ thống pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó một
mặt, luận văn cũng bám sát tinh thần nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp
luật nhân quyền quốc tế với tính cách là chuẩn mực phổ biến của cộng đồng
nhân loại, mặt khác nhìn nhận việc quy định cụ thể hoá nguyên tắc này trong
pháp luật tố tụng hình sự là để thực thi Hiến pháp của Nhà nước nhằm thể

hiện thái độ tôn trọng, trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm quyền được suy đoán vô
tội của người bị buộc tội.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lí luận và pháp luật,
thống nhất nhận thức về bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc suy
đoán vô tội được quy định trong Hiến pháp và sự cụ thể hóa ở các đạo luật;


9

qua đó đề xuất một số ý kiến để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
nguyên tắc suy đoán vô tội ở Việt Nam hiện nay.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nhằm giải đáp 3 câu hỏi nghiên cứu cơ bản sau:
- Bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội được
nhận thức dựa trên cơ sở lí luận nào?
- Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận
nguyên tắc suy đoán vô tội theo những nội dung nào?
- Cần làm gì để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người thông qua
nguyên tắc suy đoán vô tội đã được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật tố
tụng hình sự?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ
quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc
suy đoán vô tội nói riêng, tác giả đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau
để thực hiện luận văn:
- Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ các vấn đề thuộc cơ sở
lí luận của bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội như:

khái niệm, đặc điểm, vai trò nguyên tắc suy đoán vô tội, khái niệm, nội dung,
các điều kiện bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội
theo Hiến pháp…
- Phương pháp lịch sử, so sánh pháp luật được sử dụng trong các nội
dung nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển nguyên tắc suy đoán vô
tội qua các bản hiến pháp Việt Nam; vấn đề bảo vệ quyền con người qua
nguyên tắc suy đoán vô tội theo hiến pháp, pháp luật các nước trên thế giới.
- Phương pháp tổng hợp, khái quát hoá được sử dụng khi tác giả luận
văn dựa trên cơ sở lí luận đã được nhận diện cũng như các vấn đề của thực
tiễn đặt ra hiện nay nêu những nhận định, đánh giá hay rút ra các bài học kinh
nghiệm, phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao ý thức xã


10

hội nhằm bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc suy đoán vô tội theo
Hiến pháp. Phương pháp dự báo khoa học cũng được tác giả luận văn sử dụng
ở mức độ thích hợp khi chỉ ra xu hướng phát triển của pháp luật trong thời
gian tới nhằm bảo vệ hiệu quả quyền được suy đoán vô tội của mọi người.
Trong phần lớn các nội dung nghiên cứu của luận văn, các phương pháp
nghiên cứu trên đây được sử dụng kết hợp và linh hoạt.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Góp phần phát triển cơ sở lí luận về bảo vệ quyền con người thông qua
nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp;
- Phân tích, đánh giá quá trình phát triển bảo vệ quyền con người thông
qua nguyên tắc suy đoán vô tội theo các bản hiến pháp Việt Nam;
- Làm rõ nội dung, các điều kiện bảo vệ quyền con người thông qua
nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp năm 2013.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:

- Đề xuất một số ý kiến về bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc
suy đoán vô tội theo Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người học ở
các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam trong chuyên ngành luật hiến pháp, luật
nhân quyền, tư pháp hình sự; các cán bộ công tác thực tiễn, nhất là những
người tiến hành và tham gia tố tụng cũng như những bạn đọc khác quan tâm
đến lĩnh vực khoa học này.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được chia làm hai chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người thông qua nguyên
tắc suy đoán vô tội.
Chương 2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp Việt Nam và
việc thi hành Hiến pháp.


11

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
1.1. Khái quát về bảo vệ quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Ngày nay, hầu hết các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới, ở mọi trình
độ phát triển đều khẳng định cam kết tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm nhân
quyền. Nhưng việc thừa nhận nhân quyền không phải đơn giản như vậy. Tiến
bộ hay thiếu tiến bộ về nhân quyền của một quốc gia mới trở thành một chủ
đề quan hệ quốc tế trong khoảng một nửa thế kỷ nay. “Trước Chiến tranh thế
giới thứ II, phản ứng trước những vụ tàn sát các nhóm thiểu số trong phạm vi

một quốc gia chỉ được thể hiện dưới hình thức các tuyên bố lịch sự là không
ủng hộ. Thậm chí những vụ vi phạm bớt trắng trợn hơn không được coi là chủ
đề thích hợp để có thể đối thoại ngoại giao”.1
Với ý nghĩa là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân
loại, đến nay, quyền con người được thừa nhận là giá trị cao quý của toàn thể
cộng đồng nhân loại. Khái niệm quyền con người (human right) là khái niệm
được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, nhiều cấp độ, vì vậy có nhiều định nghĩa
khác nhau về quyền con người.
Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về
quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu như sau:
“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng
nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều
có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người.”2
1

, ngày truy cập: 08/7/2016.
Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.
Chính trị quốc gia, tr.41.
2


12

Điều 1 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 khẳng
định:
“Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và
quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm và cần

phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu."3
Tại Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”, có một thuật ngữ
khác cũng được sử dụng, đó là “nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt
nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh “human rights” và có thể được dịch là quyền
con người (thuần Việt) hoặc nhân quyền (Hán – Việt). Theo Đại từ điển tiếng
Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con người” 4. Ở Việt Nam các định nghĩa
về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra
cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường
được hiểu là: “Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế”. 5
Như vậy, khái niệm quyền con người được nhìn nhận ở cả hai cấp độ:
cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. Ở cấp độ quốc tế, nội dung của pháp luật
quốc tế về quyền con người được ghi nhận và sử dụng như một công cụ trong
giáo dục quyền con người, thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản
của con người của các quốc gia thành viên. Pháp luật quốc tế về quyền con
người tác động, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia về quyền
con người. Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chính trị, văn
hóa… mà việc tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người sẽ được thực hiện
ở những mức độ khác nhau. Hệ thống pháp luật của quốc gia được xây dựng,
sửa đổi, bổ sung theo hướng hài hòa với các chuẩn mực quốc tế về quyền con
người, là phương tiện truyền tải pháp luật quốc tế về quyền con người, là điều
kiện đảm bảo cho pháp luật quốc tế về quyền con người được thực hiện.

3

, Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ (2011), “Các công ước cơ bản về
quyền con người”, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.2.
4
Viện ngôn ngữ học (1999), “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nxb. Văn hóa - Thông tin, tr.1239.

5
Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.
Chính trị quốc gia, tr.42.


13

Khái niệm quyền con người cũng được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau, tuy nhiên khi xem xét quyền con người là hình thức pháp lý của mối
liên hệ cá nhân - nhà nước và xã hội, thì khái niệm quyền con người có thể
được xem xét dưới khía cạnh là sự ghi nhận chính thức trong Hiến pháp thành
văn của các quốc gia dân chủ hiện đại, là giá trị xã hội được khẳng định trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
* Nguồn gốc của quyền con người
Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai
quan điểm trái ngược nhau, đó là học thuyết về quyền tự nhiên và học thuyết
về quyền pháp lý:
- Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) cho
rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra
đều được hưởng. Quyền con người mang tính bẩm sinh nghĩa là sinh ra đã có,
không cần có sự đảm bảo của Nhà nước hay những thiết chế của pháp luật,
theo đó những quyền cơ bản của con người như quyền sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc… là những quyền tự nhiên của con người. Các
quyền con người đó cũng không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền
thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng
đồng hay nhà nước nào; và không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có thể ban
phát hay tước bỏ các quyền con người.
Từ thời Cổ đại, ở Hy Lạp, nhà triết học Zeno (333 - 264 TCN) đã
phát biểu rằng, không ai sinh ra đã là một nô lệ hết cả, địa vị nô lệ là do
họ bị tước đoạt tự do vốn có của con người. Tư tưởng này sau đó được

nhiều triết gia tái khẳng định và phát triển, trong đó tiêu biểu nhất là
Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704) và Thomas Paine
(1731-1809) 6.
- Một học thuyết khác về quyền con người là học thuyết về quyền pháp
lý (legal right), cho rằng các quyền con người không phải là những gì bẩm
sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do nhà nước xác định và pháp điển
6

Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.
Chính trị quốc gia, tr.44.


14

hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa.
Theo học thuyết này quyền con người phải được sự đảm bảo của Nhà nước
thông qua Hiến pháp và pháp luật, nếu không thì chưa được coi là quyền con
người. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý: phạm vi, giới hạn và ở góc
độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý
chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống
văn hóa… của các xã hội.
Hai học giả tiêu biểu cho học thuyết về quyền pháp lý có thể kể đến
là Edmind Burke (1729-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Hai
người cùng cho rằng ý tưởng về các quyền tự nhiên là vô nghĩa và chẳng
có quyền nào lại không thể chuyển nhượng được.7
Hai học thuyết chủ yếu trên đây đứng từ các góc độ khác nhau để xem
xét quyền con người, nếu như học thuyết quyền tự nhiên xem xét từ khía cạnh
đạo đức luân lý, thì học thuyết thứ hai xuất phát từ khía cạnh pháp lý. Với học
thuyết thứ nhất thì quyền con người đứng trên nhà nước, theo học thuyết thứ
hai thì quyền con người nằm trong phạm vi của luật pháp, không có luật pháp

thì không thể có quyền con người. Hai học thuyết trên đã tuyệt đối hóa hai
khía cạnh khác nhau cơ bản nhất của quyền con người, do đó đều có những
hạn chế nhất định. Vì vậy, quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn bất cứ
thuyết nào đều không phù hợp.
Thực tế pháp luật tại các quốc gia cho thấy, hầu hết các văn kiện pháp
luật của các quốc gia đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý, thì
trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và một số văn
kiện pháp luật ở một số quốc gia, quyền con người được khẳng định một cách
rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể chuyển nhượng được của
các cá nhân.
Sự khác biệt như vậy có thể lý giải được dựa trên mục đích, vị trí của
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Mỗi quốc gia quản lý xã hội bằng
công cụ hữu hiệu là pháp luật, việc ghi nhận quyền con người là quyền pháp
7

Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.
Chính trị quốc gia, tr.45.


15

lý nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật vào đời sống xã hội, cụ thể
hóa các quyền con người vào pháp luật và tổ chức thực hiện bằng pháp luật.
Còn pháp luật quốc tế hướng tới việc bảo vệ những giá trị chung của con
người, bảo đảm những quyền tối thiểu của con người trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… được ghi nhận và đảm bảo tại tất cả các
quốc gia. Đồng thời, với những cá nhân sinh sống trên đất nước khác, họ
không phải là công dân của nước sở tại thì cần sự bảo hộ của chính nhà nước
mình thông qua tiêu chuẩn chung của pháp luật quốc tế và hiệp định quốc tế
được ký kết. Vì vậy, tác giả luận văn ủng hộ quan điểm quyền con người là

các quyền tự nhiên mà mỗi cá nhân sinh ra đều đã được hưởng, nhưng để bảo
đảm và thực hiện các quyền này thì không thể bỏ qua hay xem nhẹ phương
diện pháp lý của quyền con người.
* Quyền con người có một số đặc điểm cơ bản và không thể phủ nhận đó là:8
- Tính phổ biến (universal)
“Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được
áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người.” 9
Trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ngày
04/7/1776 có đoạn thừa nhận tính phổ biến của quyền con người như sau:
“Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều
bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm
phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc.” 10
Cách định nghĩa về quyền con người của Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc được trích dẫn ở trên cũng khẳng định tính chuẩn mực chung (phổ quát)
của các quyền con người, việc nhấn mạnh tính chất này của quyền con người
làm căn cứ cho sự đồng thuận, cũng như thuận tiện cho việc vận động các
quốc gia tôn trọng tiêu chuẩn chung về quyền con người trong hoạt động lập
pháp và thực tiễn.

8

ngày truy cập 01/7/20116.
ngày truy cập 01/7/20116.
10
ngày truy cập
02/7/2016.
9


16


Các khái niệm về quyền con người đều thừa nhận rằng mỗi người đều
được hưởng các quyền con người của mình không phân biệt chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị, quốc gia, xã hội, tài sản, dòng dõi
hay bất kỳ lý do gì. Khi quyền con người được nhận thức như là những giá trị
chung của con người, là những nhu cầu và mục đích mà xã hội loài người
hướng tới thì tính phổ biến của quyền con người là không thể phủ nhận.
Quyền con người là những quyền được gắn liền với mỗi cá nhân nhưng mang
tính phổ quát.
“Phải hiểu rằng bản chất của sự bình đẳng về quyền con người không có
nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền mà là bình đẳng về tư cách
chủ thể và cơ hội hưởng thụ quyền con người”11.
- Tính không thể chuyển nhượng (inalienable)12
Quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan hay quan chức nhà nước, trừ những
trường hợp đặc biệt. Mọi giới hạn, hạn chế hay tước bỏ quyền của một cá
nhân đều phải do luật quy định và chỉ nhằm để bảo vệ lợi ích chính đáng,
tương xứng của cộng đồng hay của cá nhân khác.
- Tính không thể phân chia (indivisible)
Các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc
không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ
hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân
phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Xét về lĩnh vực điều chỉnh, có
thể phân quyền con người thành các nhóm quyền chính trị, nhóm quyền dân
sự và nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Các nhóm quyền này phản ánh
những nhu cầu khác nhau của con người, việc phân chia hệ thống các quyền
con người thành ba nhóm phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ tính không
thể tách rời được và sự phụ thuộc tương hỗ giữa tất cả các quyền con người.
Không thể có được các quyền chính trị và dân sự nếu một người không có
được những điều kiện kinh tế tối thiểu cho cuộc sống. Việc bảo đảm các giá

11

Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.
Chính trị quốc gia, tr.45.
12
ngày truy cập 01/7/2016.


17

trị, mục tiêu về kinh tế và đời sống xã hội không được phép làm thiệt hại các
quyền dân sự và các quyền chính trị.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated and interdependent)
Thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một
phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một
quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm
các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Tính chất
này nằm trong mối quan hệ với tính không thể phân chia được phân tích ở
trên.
“Thực tế cho thấy, việc vi phạm một trong những quyền thường sẽ ảnh
hưởng đến sự tôn trọng của nhiều các quyền khác”13.
Ngoài những đặc điểm nêu trên, các văn kiện quốc tế còn đưa ra một số
đặc điểm khác của quyền con người đó là: “quyền con người được thành lập
trên sự tôn trọng nhân phẩm và giá trị của mỗi người” 14, “được đảm bảo ở
cấp độ quốc tế, được pháp luật bảo vệ, quyền con người bảo vệ các cá nhân và
ở mức độ nào đó còn bảo vệ quyền lợi của một nhóm người, tính không thể bị
tước bỏ”15.
1.1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người
Theo Từ điển tiếng Việt, bảo vệ được hiểu là: “chống lại mọi sự xâm

phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn.”16
Trên cơ sở đó, bảo vệ quyền con người được hiểu là: Việc xác lập và
thực hiện những bảo đảm pháp lí cần thiết nhằm chống lại hoặc ngăn chặn
hay khắc phục hậu quả của các hành vi xâm phạm quyền con người.
- Khi nghiên cứu về chủ thể có trách nhiệm bảo vệ quyền con người thì
phải hiểu rằng: Quyền con người là những quyền được gắn với con người cụ
thể (cá nhân) nhưng bảo vệ quyền con người không thể chỉ do một cá nhân tự
nhận thức và thực hiện mà cần phải được thực hiện dựa trên sự tôn trọng nhân
13

ngày truy cập 01/7/20116.
ngày truy cập 01/7/20116.
15
ngày truy cập 01/7/20116.
16
Viện ngôn ngữ học (2003), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.40.
14


18

phẩm và giá trị của mỗi người, nhận thức của cộng đồng xã hội và bằng
quyền lực của Nhà nước. Quyền con người là một giá trị cao cả và bảo vệ
quyền con người là tất yếu, là trách nhiệm của cả cộng đồng nhưng trước hết
phải nói đến vai trò của Nhà nước - chủ thể quan trọng nhất trong xã hội, có
trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền con người.
Có nhiều điều khoản quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc
bảo vệ quyền con người trong Tuyên ngôn Liên hợp quốc về quyền và nghĩa
vụ của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và
bảo vệ các quyền con người và những tự do cơ bản đã được thừa nhận rộng

rãi do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 9 tháng 12 năm 1998 bởi
Nghị quyết số 53/14417, đó là:
Điều 12: “Nhà nước thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để đảm bảo
sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền cho tất cả mọi người, cá nhân….”
Điều 14: “Nhà nước có trách nhiệm xây dựng luật pháp, tư pháp, hành
chánh hoặc các biện pháp thích hợp để thúc đẩy sự hiểu biết của tất cả mọi
người…..”
Điều 15: “Quốc gia có trách nhiệm thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc giảng dạy các quyền con người,…”
Bảo vệ quyền con người trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà
nước, song cũng là quyền và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân; điều này
đã được khẳng định tại Tuyên ngôn Liên hợp quốc về quyền và nghĩa vụ của
các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ các
quyền con người và những tự do cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi:
Điều 16: “Cá nhân, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức liên quan, có
vai trò quan trọng trong việc góp phần làm cho công chúng nhận thức được
quyền con người và quyền tự do căn bản….”
- Xét về nội dung, bảo vệ quyền con người được xem là một trong ba
hình thức thể hiện nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con
người. Theo đó, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền con
17

ngày truy cập 24/7/2016.


19

người thể hiện ở ba hình thức cụ thể: nghĩa vụ tôn trọng (obligation to
respect), nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect), nghĩa vụ thực hiện
(obligation to fulfil).

Như vậy, bảo vệ quyền con người là nội dung thể hiện sự chủ động của
Nhà nước trong thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn sự vi
phạm quyền con người của các bên thứ ba, xây dựng những cơ chế phòng
ngừa, xử lý những hành vi vi phạm; tạo ra phương thức, công cụ để con người
bảo vệ quyền tự do của mình khi quyền bị xâm hại.
- Khi xem xét vai trò to lớn của nhà nước trong việc bảo vệ quyền con
người thì có nhiều biện pháp, cách thức khác nhau được thực hiện, trong đó,
với nội dung của luận văn là nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người thông
qua nguyên tắc suy đoán vô tội là nội dung cần phải làm rõ. Theo đó: bảo vệ
quyền con người thông qua nguyên tắc có nghĩa là việc thiết lập những tư
tưởng, định hướng có tính nền tảng cho toàn bộ hệ thống pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý cao nhất cho tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và các thiết chế
xã hội khác, từ đó điều chỉnh các quan hệ xã hội, thiết lập trật tự xã hội theo
chuẩn mực chung về quyền con người. Thứ hai: cùng với việc tạo cơ sở pháp
lý cho việc thực hiện nguyên tắc là nhiệm vụ tổ chức thực hiện nguyên tắc
trong việc xác định thẩm quyền và phân định trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân hoạt động phù hợp với nội dung nguyên tắc. Thứ ba là tiến
hành kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm nguyên tắc để đảm bảo cho các
nguyên tắc được thiết lập nhằm bảo vệ quyền con người được thực hiện và
tôn trọng trên thực tế.
1.1.2. Nội dung bảo vệ quyền con người
Quyền con người là một khái niệm mở, có thể thay đổi theo sự phát triển
của con người và xã hội loài người. Quyền con người được coi là những giá
trị chung, phổ quát cho mọi xã hội nhưng nhận thức về quyền con người và
những cơ chế đảm bảo quyền con người cũng khác nhau trong từng thời kỳ.
Do vậy, việc đảm bảo thực hiện quyền con người là một quá trình liên tục,
phát triển theo sự phát triển của nhân loại và rất đa dạng phụ thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh xã hội khác nhau. Nghiên cứu từ góc độ luật Hiến pháp, với



20

việc xác định trách nhiệm to lớn của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con
người thì nội dung bảo vệ quyền con người bao gồm những nghĩa vụ sau của
Nhà nước:
Thứ nhất: Xác lập và hoàn thiện các cơ sở pháp lý về quyền con người
Điều 3 Tuyên bố Liên hợp quốc về quyền và nghĩa vụ của các cá nhân,
các nhóm và các tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con
người và những tự do cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi năm 1998, Được Đại
Hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết số 53/144 ngày
9/12/1998 quy định như sau:
“Pháp luật quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc và những
trách nhiệm quốc tế khác của quốc gia đó trên lĩnh vực quyền con người và
những tự do cơ bản là khuôn khổ pháp lý mà ở đó quyền con người và những
tự do cơ bản phải được thực hiện và hưởng thụ, đồng thời, trong khuôn khổ
đó, mọi hoạt động được đề cập đến trong Tuyên bố này liên quan đến việc
thúc đẩy, bảo vệ và thực hiện hiệu quả những quyền và tự do trên phải được
tiến hành.”18
Như vậy, có thể thấy pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu trong
việc bảo vệ quyền con người. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp
luật trong việc bảo vệ quyền con người cần thể chế hóa quyền con người
thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, tạo thành đảm bảo pháp lý
nhằm bảo vệ quyền con người.
Thứ hai: thực hiện các biện pháp phòng ngừa vi phạm quyền con người
Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa phòng ngừa vi phạm quyền
con người được thực hiện ở toàn diện các mặt, bằng nhiều biện pháp khác
nhau như:
- Tuyên truyền, thúc đẩy sự hiểu biết của tất cả mọi người về các quyền
con người trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
- Nhà nước bảo đảm và hỗ trợ các cơ quan, tổ chức để thúc đẩy và bảo

vệ quyền con người và các quyền tự do căn bản.
18

ngày truy cập 24/7/2016.


×