Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.47 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MAI THỊ ANH THƯ

HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG
LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TỪ THỰC TIỄN
TẠI TỈNH HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thủy

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được Luận văn thạc sĩ, lời đầu tiên, em xin chân
thành cảm ơn tới:
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học và thư viện Trường Đại học Luật Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp cho em trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong Khoa Luật hiến
pháp và Luật hành chính nói chung và các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn
Luật hành chính nói riêng, những người đã giảng dạy và giúp đỡ em trong
quá trình học tập.


Đặc biệt, em xin cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Thủy, người đã tận tình
hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành Luận văn thạc sĩ.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày.......tháng......năm 2016
Học viên

Mai Thị Anh Thư


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực kế hoạch và đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên” là do bản thân tự
thực hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm
sản phẩm của riêng mình. Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo TS. Nguyễn Thị Thủy. Những
phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được trích dẫn và nêu rõ
nguồn trong phần tài liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính
xác thực và nguyên bản của luận văn này.

Hà Nội, ngày ..... tháng .... năm 2016
NGƯỜI CAM ĐOAN
Học viên

Mai Thị Anh Thư


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................................................ 6
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 6
5. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................ 7
6. Những điểm mới của luận văn................................................................. 7
7. Cơ cấu của luận văn ................................................................................ 8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH
TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU
TƯ ................................................................................................................. 9
1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư ............................................ 9
1.1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành ...................................... 9
1.1.2. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch
và đầu tư ...................................................................................................... 16
1.2. Vai trò của thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư trong
quản lý nhà nước về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư ......................................... 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG LĨNH VỰC KẾ
HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TẠI TỈNH HƯNG YÊN....................................... 24
2.1. Đánh giá pháp luật hiện hành về hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư................................................................................. 24
2.1.1. Xây dựng và phê duyệt kế hoạch thanh tra ......................................... 26
2.1.2. Thời hạn thanh tra.............................................................................. 28
2.1.3. Thẩm quyền của các chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra chuyên
ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư ............................................................... 30
2.1.4. Nghĩa vụ của đối tượng thanh tra ....................................................... 39


2.1.5. Nội dung của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và

đầu tư ........................................................................................................... 40
2.1.6. Trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực
kế hoạch và đầu tư ....................................................................................... 43
2.1.7. Về xử lý sau thanh tra......................................................................... 45
2.2. Thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
tại tỉnh Hưng Yên......................................................................................... 47
2.2.1. Những kết quả đạt được của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên từ năm 2010 đến nay .................. 47
2.2.2. Các hạn chế, vướng mắc của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên từ năm 2010 đến nay và nguyên
nhân ............................................................................................................. 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 69
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO 70
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH LĨNH
VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ ............................................................... 70
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư................................................................................. 70
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành ............... 70
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và
đầu tư ........................................................................................................... 77
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành
kế hoạch và đầu tư........................................................................................ 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................... 82
KẾT LUẬN................................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
trên thế giới có những diễn biến phức tạp, Việt Nam phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức, theo đó nhiều yêu cầu đòi hỏi mới được đặt ra đối với
hoạt động quản lý nhà nước. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời ban hành
nhiều Nghị quyết, chính sách cùng các giải pháp cụ thể nên trong năm 2015,
nước ta vẫn có những chuyển biến tích cực và rõ nét, đạt nhiều kết quả so với
mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 trên các
mặt: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh; Thực hiện mạnh mẽ các đột phá chiến lược, tái cơ
cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả
và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng cao hơn năm 2014; Nâng cao
hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Hoạt động quản lý nhà nước có phạm vi rộng lớn, bao trùm tất cả các
mặt hoạt động của đời sống xã hội, theo nhiều ngành, nhiều cấp. Với những
thành tựu trên, không thể không kể đến những đóng góp quan trọng của
ngành kế hoạch và đầu tư thông qua các hoạt động chính bao gồm: tham mưu
tổng hợp về chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; quy
hoạch phát triển, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực
cụ thể; đầu tư trong nước, đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của
Việt Nam ra nước ngoài; khu kinh tế; quản lý nguồn vốn ODA và viện trợ phi
chính phủ nước ngoài; đấu thầu; thành lập, phát triển doanh nghiệp và khu
vực kinh tế tập thể, hợp tác xã; các dịch vụ công có liên quan.
Tỉnh Hưng Yên là tỉnh giáp ranh thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ nên có thể đón nhận và tận dụng những cơ hội phát triển
của vùng, đặc biệt là các kết cấu hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường cao
tốc, sân bay, cảng biển đã được đầu tư xây dựng. Tốc độ tăng trưởng hàng
năm đạt mức tăng trưởng khá, bình quân 5 năm 2010 - 2015 đạt 7,85% và cao
hơn mức bình quân của cả nước. Công nghiệp, xây dựng tăng mạnh, chiếm tỉ
trọng cao trong cơ cấu kinh tế: Công nghiệp – xây dựng 48,98%; Nông



2

nghiệp 13,54%; Thương mại – dịch vụ 37,47%. Năm 2015, GDP bình quân
đầu người 40,4 triệu đồng/năm; tổng thu ngân sách đạt 7,859 tỉ đồng1, vượt kế
hoạch Trung ương giao. Tuy nhiên, Hưng Yên còn phải đối mặt với không ít
khó khăn cho quá trình phát triển như thực trạng nền kinh tế còn yếu, GDP
bình quân đầu người thấp so với một số tỉnh trong vùng, số lao động qua đào
tạo thấp, thiếu kinh nghiệm hội nhập... Vì vậy, trong thời gian tới, tỉnh Hưng
Yên nói chung và cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
nói riêng phải nỗ lực hơn nữa, phát huy những tiềm năng sẵn có, xây dựng
định hướng và giải pháp đúng đắn để phát triển nhanh, bền vững, hội nhập
với xu thế phát triển của khu vực và toàn quốc.
Hiện nay, Nhà nước chuyển dần từ phương thức quản lý can thiệp trực
tiếp bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý xã hội bằng pháp luật, thông
qua các công cụ quản lý vĩ mô điều chỉnh cho mọi thành phần kinh tế hoạt
động, phát triển và thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là chủ
yếu. Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư tại
tỉnh Hưng Yên theo phương hướng, nhiệm vụ công tác chủ yếu của ngành
thanh tra thường chú trọng đến thanh tra việc chấp hành Luật Doanh nghiệp,
pháp luật về đầu tư, việc thực hiện Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách nhà nước...
Kết quả của công tác thanh tra là phát hiện những bất cập, hạn chế nảy sinh
trong cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, xử lý các vi phạm hành chính trong
phạm vi thẩm quyền, trên cơ sở đó kịp thời ngăn chặn vi phạm, thu hồi tiền,
tài sản về cho Nhà nước đồng thời đưa ra các kiến nghị phù hợp với các cơ
quan có thẩm quyền khác, qua đó hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư.
Tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Hoạt động thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên” với mong

muốn hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
ngày càng được coi trọng đúng mức, đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả, từ đó

1

Nghị quyết số 12/2016/NQ-HĐND “Về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020”của HĐND tỉnh Hưng
Yên.


3

góp phần giúp tỉnh Hưng Yên có thêm ưu thế về trình độ quản lý so với các
địa phương khác trong cả nước để thu hút đầu tư và phát triển về mọi mặt.
Kế hoạch và đầu tư là lĩnh vực khá rộng và bao gồm nhiều vấn đề
chuyên sâu, vì vậy trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn thạc sỹ, tác giả
không tham vọng làm rõ, nghiên cứu sâu sắc tất cả các vấn đề. Dựa trên
những cơ sở lý luận của hoạt động thanh tra chuyên ngành, những quy định
của pháp luật hiện hành về hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu
tư, tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành
kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên mà cụ thể là qua hoạt động thanh tra
chuyên ngành của Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư để từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật trong
lĩnh vực này và các giải pháp để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, trước hết vấn đề hoạt động thanh tra chuyên
ngành được tìm hiểu qua các giáo trình chuyên ngành hành chính. Trong đó:
- Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2009 của
Trường Đại học Luật Hà Nội có trình bày Chương II về hoạt động thanh tra,
tuy nhiên hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ được trình bày hết sức sơ
lược, bao gồm định nghĩa thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra năm

2004 và một số đặc điểm của thanh tra chuyên ngành.
- Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam năm 2012 của Trường Đại học
Luật Hà Nội nhắc đến hoạt động của thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân
nói chung với tư cách là một biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản
lý hành chính nhà nước, hoạt động thanh tra chuyên ngành nói riêng không
được đề cập.
- Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam năm 2013 của PGS.TS Nguyễn
Cửu Việt đã dành riêng Chương XX để nói về vấn đề thanh tra nhà nước.
Trong đó nhắc đến thanh tra chuyên ngành là một loại hoạt động thanh tra nhà
nước và trình bày về thủ tục thanh tra chuyên ngành theo quy định của Luật
Thanh tra năm 2010.


4

Nhìn chung, có thể nói vấn đề hoạt động thanh tra chuyên ngành trong
các giáo trình hiện nay hoặc là không còn cập nhật, hoặc chưa được quan tâm
chú trọng. Nếu có được trình bày thì chủ yếu ở dạng dẫn chiếu lại các quy
định của pháp luật mà chưa nêu được những cơ sở lý luận cho hoạt động
thanh tra chuyên ngành và chưa có nhiều phân tích, bình luận kèm theo.
Luật Thanh tra năm 2010 được Quốc hội thông qua có các quy định về
thanh tra chuyên ngành theo hướng mở rộng, tăng cường hoạt động của thanh
tra chuyên ngành. Quy định trên buộc các cơ quan thanh tra, cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành phải đổi mới lề lối làm việc,
nâng cao chất lượng, trách nhiệm trong công tác thanh tra, đầu tư hiện đại hóa
hoạt động thanh tra. Sau khi Luật mới có hiệu lực, đã có khá nhiều tác giả đi
vào nghiên cứu về vấn đề tổ chức và hoạt động của thanh tra, trên cả bình
diện lý luận và thực tiễn, có thể kể đến một số công trình:
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh
tra chuyên ngành ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” năm 2012 của tác giả

Nguyễn Thị Thục đề cập đến vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động của thanh
tra chuyên ngành, từ đó nêu các phương hướng và giải pháp đổi mới hoạt
động của cơ quan thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên do luận văn trình bày cả
vấn đề về tổ chức nên chưa thể tập trung đi sâu vào nghiên cứu về hoạt động
thanh tra chuyên ngành. Hơn nữa, không nhiều thực trạng và giải pháp đổi
mới được đưa ra về hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung phù hợp với
đặc trưng của hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư.
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh
tra xây dựng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” năm 2013 của tác giả Đỗ
Thị Khánh Linh làm rõ khái niệm Thanh tra chuyên ngành xây dựng và đi sâu
phân tích về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng. Luận văn
thạc sỹ luật học “Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội” năm 2015
của tác giả Lê Thị Thu Hiền nghiên cứu về lý luận và thực tiễn công tác thanh
tra chuyên ngành về môi trường, đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả
hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực môi trường của một cơ quan


5

cụ thể trên một địa bàn cụ thể. Hai công trình này nghiên cứu này bước đầu
cũng nêu được một số cơ sở lý luận của hoạt động thanh tra chuyên ngành tuy
nhiên hoạt động thanh tra chuyên ngành ở những lĩnh vực khác nhau lại mang
những đặc trưng rất riêng.
Ngoài ra còn có thể kể đến các bài viết của các tác giả:
- Bài viết “Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy định
pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hải
Yến đăng trên Tạp chí thanh tra số 06/2014 nêu cụ thể 5 vấn đề còn khó khăn,
vướng mắc trong hoạt động thanh tra chuyên ngành: việc lập kế hoạch thanh
tra; việc gửi kế hoạch thanh tra; việc sử dụng con dấu của Đoàn thanh tra

chuyên ngành; về việc thực hiện quyền thanh tra; về trình tự, thủ tục và các
hoạt động khác trong hoạt động thanh tra chuyên ngành. Bài viết từ năm 2014
nên cho đến nay có vấn đề còn nguyên tính thời sự, cũng có vấn đề đã có nghị
định hoặc thông tư mới giải quyết.
- Bài viết “Các yếu tố đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của đối
tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra” của hai tác giả
Nguyễn Đình Bính và Trần Thị Bình Minh đăng trên Tạp chí Thanh tra số
03/2015 trình bày về 5 yếu tố có ảnh hưởng chủ yếu đến việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh
tra, bài viết có những định hướng cơ bản nhằm giải quyết khâu yếu nhất trong
hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng hiện nay.
Nói tóm lại, các công trình, bài viết trên đã có những đóng góp nhất
định cả về mặt lý luận và thực tiễn cho công tác nghiên cứu về hoạt động
thanh tra, tuy nhiên phần trình bày về hoạt động thanh tra chuyên ngành gói
gọn trong một phần nhỏ của công trình hay chỉ là những bài viết ngắn, việc
tiếp tục mở rộng nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động thanh tra chuyên ngành
trong một lĩnh vực mới trên một địa bàn cụ thể là cần thiết. Trên cơ sở kế thừa
kết quả nghiên cứu về hoạt động thanh tra chuyên ngành của các công trình
nghiên cứu trước, Luận văn sẽ tập trung phân tích về hoạt động thanh tra
chuyên ngành kế hoạch và đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.


6

3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Theo Nghị định 216/2013/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động thanh tra
ngành kế hoạch đầu tư, các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ngành Kế
hoạch và Đầu tư gồm: cơ quan thanh tra nhà nước là Thanh tra Bộ Kế hoạch
và Đầu tư; Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư; cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành Kế hoạch và Đầu tư là Tổng cục Thống kê

và Cục Thống kê. Tuy nhiên do Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê có hoạt
động đặc thù riêng về lĩnh vực thống kê, có thể nói các cơ quan này chỉ chủ
yếu phụ thuộc về mặt tổ chức với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên trong khuôn
khổ của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên
quan đến hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước thực hiện chức năng
thanh tra ngành kế hoạch và đầu tư cũng như hoạt động thanh tra chuyên
ngành của Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư trong phạm vi được ủy quyền
hoặc phân cấp quản lý nhà nước của Sở Kế hoạch và Đầu tư tại địa bàn tỉnh
Hưng Yên. Từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng thi hành pháp luật
thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư, nguyên nhân của các tồn tại, hạn
chế và đưa ra các đề xuất, biện pháp nhằm đẩy mạnh vai trò của thanh tra
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp triết học Mác – Lênin:
- Phương pháp duy vật biện chứng nhằm dẫn dắt nội dung luận văn đi
từ lý luận hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư đến
thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên, qua thực tiễn đánh giá, kiến nghị để bổ sung, sửa
đổi một số quy định của pháp luật.
- Phương pháp lịch sử dùng để phân tích các quy định của pháp luật về
hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung trước khi có Luật Thanh tra
2010, sau khi luật mới có hiệu lực và có các văn bản hướng dẫn luật liên quan
đến hoạt động thanh tra chuyên ngành, quy định pháp luật về tổ chức và hoạt
động của thanh tra chuyên ngành trong một lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể
để thấy sự quan tâm ngày càng đúng mức đến hoạt động này.


7

- Phương pháp phân tích – tổng hợp sử dụng để tổng hợp và phân tích
các số liệu kết quả Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng Yên từ năm

2010 đến nay, qua đó làm rõ những điểm phù hợp và chưa phù hợp của các
quy định pháp luật trên thực tiễn nhằm đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của hoạt
động thanh tra chuyên ngành.
Kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống kê, so sánh,
tổng kết thực tiễn.
5. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Một là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về hoạt động
thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Đồng thời, nghiên cứu,
nắm vững chính sách pháp luật, các quy định hiện hành về hoạt động thanh
tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
Hai là tìm hiểu, phân tích, tổng kết việc thực hiện hoạt động thanh tra
chuyên ngành kế hoạch và đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Đánh giá thực
trạng từ đó làm rõ những hạn chế, bất cập và đề xuất một số giải pháp nhằm
khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả hoạt động đó.
- Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có các
nhiệm vụ sau đây:
+ Làm rõ quan niệm về hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực kế hoạch đầu tư.
+ Nêu và phân tích thực trạng hoạt động thanh tra chuyên ngành kế
hoạch đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên.
+ Từ những phân tích, đánh giá đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành kế hoạch đầu tư
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng và trên cả nước nói chung.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là bước kế thừa và tiếp tục nghiên cứu vấn đề hoạt động
thanh tra chuyên ngành trong một lĩnh vực mới tại một địa bàn cụ thể, do vậy
luận văn có những đóng góp mới sau đây:



8

- Góp phần làm sáng tỏ cở sở lý luận về hoạt động thanh tra chuyên
ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
- Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
- Tổng kết thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế
hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên từ khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu
lực đến nay.
- Đề xuất các giải pháp để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và nâng
cao hơn nữa hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn được kết cấu như sau:
Chương I. Những vấn đề lý luận về hoạt động thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
Chương II. Thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên
Chương III. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư


9

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
CHUYÊN NGÀNH TRONG LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động
thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
1.1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành
* Hoạt động thanh tra

“Thanh tra” xuất phát từ nguồn gốc Latinh (Inspectare) có nghĩa là
“nhìn vào bên trong”, chỉ một sự xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của
một số đối tượng nhất định. Theo Từ điển Pháp luật Anh - Việt “thanh tra”
được giải thích là hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị
thanh tra. Theo Từ điển Luật học (tiếng Đức) giải thích “thanh tra là sự tác
động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao
nhằm đạt được mục đích nhất định - sự tác động có tính trực thuộc”. Theo từ
điển tiếng Việt “thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm quyền) là kiểm tra,
xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp2”; thanh tra
thường đi kèm với một chủ thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ thanh tra”,
“đoàn thanh tra”, “đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất định”.
Từ những nghĩa như vậy, thanh tra với ý nghĩa động từ là khái niệm để
chỉ hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ quan, tổ chức, người được giao
nhiệm vụ, quyền hạn nhằm: “xem xét và phát hiện, ngăn chặn với những gì
trái với quy định3” của các tổ chức, cá nhân là đối tượng của thanh tra.
Theo kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Hoàn
thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước” do TS. Trần Đức Lượng, nguyên Phó tổng Thanh tra Chính phủ làm
chủ nhiệm thì khái niệm thanh tra được xác định như sau: Thanh tra là một
chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc
làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi
một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định,
2
3

Từ điển tiếng Việt Viện ngôn ngữ học NXB TP.HCM, TP.HCM 2002, Trang 838
Từ điển tiếng Việt NXBKHXH Hà Nội 1994


10


nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố
tích cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Từ một số khái niệm trên cho thấy thanh tra có những đặc điểm sau:
Một là, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước.
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý
nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước.Thanh tra là một phạm trù
lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trò của Nhà nước trong kiểm soát nhà nước,
kiểm soát xã hội. Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất
yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà những hoạt động đơn lẻ và
thực hiện những chức năng chung. Việc xem xét, định hướng, đánh giá kết
quả quản lý là một phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một
bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra đường lối, chủ trương,
quy định thẩm quyền của cơ quan thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông
tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của quản lý
Nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình thực hiện
các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ
quan có thẩm quyền4. Quản lý Nhà nước và thanh tra có cái chung là nhân
danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý.
Song xem xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là những
công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước.
Là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước
bởi quản lý, nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh cách thức,
phương pháp quản lý của chủ thể quản lý Nhà nước. Trong chu trình đó,
thanh tra phản ánh và bảo vệ mục đích của quản lý. Một thể chế hành chính
4


Thanh tra Chính phủ (2014), Tài liệu phục vụ thi nâng ngạch Thanh tra viên chính, Cổng thông tin điện tử

Thanh tra chính phủ, tr.75.


11

và cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động có tính hiệu quả của
thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu kỷ cương trong
hoạt động quản lý nhà nước. Lê nin đã nhiều lần nhấn mạnh: Nhà nước xã hội
chủ nghĩa sẽ hạn chế được nguy cơ tham nhũng, tệ quan liêu, tăng cường
được kỷ cương xã hội khi những người cộng sản thực hiện tốt công tác thanh
tra, kiểm soát5.
Hai là, thanh tra luôn mang tính quyền lực nhà nước.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt
chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng
của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm
thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về
quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt
pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được
Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.
Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực
nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh
tra (ở đây được dùng với tính chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng
này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành
hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng các quyền đó.
Khi nhấn mạnh tính quyền lực của các tổ chức thanh tra, Lê nin nói: “Thanh
tra thiếu quyền lực là thanh tra suông”.

Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương thức
tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra
với đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không
thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực trên đều dẫn đến
hạ thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.

5

Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (2012), “Thanh tra và pháp luật về
thanh tra”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (06), tr.6.


12

Ba là, thanh tra có tính độc lập tương đối.
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm
này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy
quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ
quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một
cơ quan chuyên trách6. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý
nhà nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh
giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Tính độc lập trong quá trình thanh tra được thể hiện ở các điểm như:
Tự mình tổ chức thực hiện các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định; Ra các kết luận, kiến nghị,
quyết định xử lý theo các quy định của pháp luật về thanh tra, chịu trách
nhiệm về quyết định thanh tra của mình. Tuy nhiên tính độc lập chỉ mang tính
chất tương đối vì các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của

Thủ truởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ;
chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên.
Hoạt động thanh tra được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, theo đó
được hiểu theo 3 cách như sau:
- Quan điểm thứ nhất, tiếp cận theo nghĩa rộng nhất thì hoạt động thanh
tra như là một bộ phận của hoạt động quản lý nhà nước.
- Quan điểm thứ hai, được tiếp cận dưới góc độ hoạt động chủ yếu của
các cơ quan thanh tra nhà nước.
- Quan điểm thứ ba, hiểu theo nghĩa hẹp thì hoạt động thanh tra chính
là hoạt động thanh tra trực tiếp của các cơ quan thanh tra nhà nước thông qua

6

Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (2012), “Thanh tra và pháp luật về

thanh tra”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (06),tr.8.


13

Đoàn thanh tra và hoạt động thanh tra phát sinh khi có quyết định thanh tra
đến khi có kết luận thanh tra.7
Mục đích của hoạt động thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật, trong đó: Phòng ngừa là mục đích chủ yếu,
trực tiếp của hoạt động thanh tra; Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các
biện pháp khắc phục là mục đích quan trọng của hoạt động thanh tra; Phát
huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước; Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức, cá nhân là mục đích gián tiếp nhưng có tác động quan
trọng tới hiệu quả quản lý.
Các yếu tố tác động đến hoạt động thanh tra bao gồm:
- Yếu tố bên trong (chủ quan): Chỉ đạo của người ra quyết định thanh
tra; Tổ chức Đoàn thanh tra; Quy trình thanh tra; Năng lực chuyên môn và
năng lực cảm xúc của cán bộ thanh tra.
- Yếu tố bên ngoài (khách quan): Bối cảnh thực hiện cuộc thanh tra;
Nhận thức và sự phối hợp của đối tượng thanh tra và các bên liên quan; Các
quy định pháp luật do nhà nước ban hành liên quan đến cuộc thanh tra; Các
yếu tố khác phát sinh đặc thù từng cuộc thanh tra; Các yếu tố liên quan đến
công tác xây dựng lực lượng.
Xét trên tổng thể thì kết quả thanh tra bao gồm ba khía cạnh: Đạt mục
tiêu cụ thể của cuộc thanh tra; Tác động đến đối tượng thanh tra và tác động
đến xã hội; Cảm xúc và hành động sau thanh tra của cán bộ thanh tra và đối
tượng thanh tra. Nếu chỉ đạt được một trong ba khía cạnh này thì kết quả
chung của cuộc thanh tra chưa được coi là đã đạt được.
Xuất phát từ quan niệm coi thanh tra là chức năng thiết yếu của Nhà
nước, do đó, hoạt động thanh tra bao gồm:

7

/>
1_t104c2751n1513tn.aspx, ngày truy cập 08/7/2016.


14

+ Hoạt động thanh tra hành chính (hướng vào bản thân bộ máy quản lý);
+ Hoạt động thanh tra chuyên ngành (hướng vào xã hội, các đối tượng
quản lý);

Bên cạnh đó, hoạt động này cũng bao gồm các hoạt động thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật phòng,
chống tham nhũng.
* Hoạt động thanh tra chuyên ngành
Ngành là khái niệm chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất - kinh
doanh có cùng cơ cấu kinh tế - kĩ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động có
mục đích giống nhau8. Sự phân chia các mặt hoạt động xã hội thành “ngành”
là kết quả phân công lao động xã hội xảy ra đồng thời với quá trình phát triển
sản xuất và chuyên môn hoá các loại hoạt động khác nhau của con người. Tuỳ
theo các cách phân loại sản phẩm chung - riêng, rộng - hẹp khác nhau mà
người ta chia ra các ngành, phân ngành, ngành chuyên sâu... Sự phân công lao
động xã hội phần nhiều quy định sự phân công lao động quản lý. Các cơ quan
quản lý ngành (Bộ) có chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển, quản lý phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng và thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật, tức là hoạt động mang tầm vĩ mô nhằm
hướng quản lý nhà nước của Bộ mình đi đúng hướng, đúng mục đích và có
hiệu quả. Thanh tra ngành cũng nằm trong bối cảnh này. Điều đó có nghĩa là,
hoạt động thanh tra chuyên ngành xuất phát từ yêu cầu quản lý đối với toàn
diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, đóng góp vào việc tăng cường trật tự,
kỉ cương, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, là một tất yếu khách quan
trong quản lý nhà nước ở các bộ, ngành (càng nhiều ngành thì tổ chức thanh
tra càng rộng và diện hoạt động càng chuyên sâu).
Do thanh tra luôn gắn liền với hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước và phục vụ cho quản lý nhà nước, là một trong ba khâu không thể thiếu
của chu trình quản lý nhà nước nên tùy thuộc vào mỗi lĩnh vực, hoạt động

8

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội



15

thanh tra có những yêu cầu, mục đích, nội dung hoạt động phù hợp với từng
lĩnh vực quản lý nhà nước.
Về đặc điểm, ngoài những đặc điểm của hoạt động thanh tra nói chung,
thanh tra chuyên ngành còn mang những đặc điểm thể hiện tính chất đặc
trưng của nó như sau:
Thứ nhất, thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra nhà nước
mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ của ngành, lĩnh vực chuyên môn. Tính
chất này chi phối toàn bộ hoạt động thanh tra của mỗi ngành, lĩnh vực, biểu
hiện cụ thể qua:
Hoạt động quản lý điều hành của Thủ trưởng các cơ quan thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành phải căn cứ vào tính chất của ngành, lĩnh
vực chuyên môn đó. Thanh tra chuyên ngành chính là hoạt động xem xét,
đánh giá việc chấp hành pháp luật, những quy định liên quan chặt chẽ đến
chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc nói riêng. Vì vậy, người tiến hành hoạt động
thanh tra chuyên ngành phải có kiến thức chuyên môn về ngành, lĩnh vực đó,
vận dụng những kiến thức để đưa ra những kết luận chính xác.
Tiến hành thanh tra đối với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhà
nước chuyên ngành chính là nhằm hướng tới mục tiêu thực hiện các nội dung
quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực chuyên môn. Những kiến
nghị của thanh tra chuyên ngành bao giờ cũng thể hiện tính chất chuyên môn
– kỹ thuật, từ việc đánh giá đặc điểm, tình hình đến việc đánh giá ưu điểm,
khuyết điểm, nguyên nhân. Quyết định xử lý và hậu quả pháp lý luôn gắn liền
với tính chất chuyên môn – kỹ thuật.
Thứ hai, đối tượng của thanh tra chuyên ngành là các cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân thực hiện các hoạt động liên quan và trong phạm vi quản lý
của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực đó.

Hoạt động thanh tra chuyên ngành được thực hiện không dựa trên mối
liên hệ phụ thuộc về tổ chức mà xuất phát từ thẩm quyền quản lý theo ngành,
lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Vì vậy, đối tượng thanh tra chuyên
ngành chủ yếu là các đơn vị kinh tế, tổ chức và cá nhân trong xã hội.


16

Qua việc tìm hiểu sự ra đời và một số đặc điểm của hoạt động thanh tra
chuyên ngành, chúng ta có thể hiểu, hoạt động thanh tra chuyên ngành là
hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh
vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên
ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh
vực đó. Hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ xem xét, đánh giá đối tượng
thanh tra trên một hoặc một số mặt hoạt động nhất định liên quan đến thẩm
quyền của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành.
1.1.2. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế
hoạch và đầu tư
Dựa vào định nghĩa, đặc điểm của hoạt động thanh tra và hoạt động
thanh tra chuyên ngành, trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư có thể hiểu khái
niệm thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư như sau: Thanh tra
chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư là hoạt động thanh tra do các cơ
quan và cá nhân có thẩm quyền thực hiện chức năng thanh tra ngành kế
hoạch và đầu tư tiến hành nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư có một
số đặc điểm cơ bản sau:
Hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư luôn gắn với
hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước và phục vụ cho quản lý nhà nước

trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư được tiến hành
trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sở Kế hoạch và
Đầu tư về: Quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Phân bổ,
quản lý và sử dụng vốn đầu tư phát triển; Đấu thầu; Đầu tư trong nước, đầu tư
nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; Tiếp nhận, quản lý và sử dụng nguồn hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ và
viện trợ phi chính phủ nước ngoài; Quản lý và hoạt động đối với khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghệ cao và các loại hình


17

khu kinh tế khác; Doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh; Hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã; Thống kê.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư do các cơ quan
thực hiện chức năng thanh tra ngành kế hoạch và đầu tư, thanh tra viên, người
được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra
ngành Kế hoạch và Đầu tư tiến hành, thực hiện quyền lực nhà nước trong các
hoạt động thanh tra.
Đối tượng của thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư vừa là đối
tượng thanh tra vừa là chủ thể quản lý, đó là các cơ quan, tổ chức, cá nhân
Việt Nam hoặc nước ngoài có hoạt động trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Sở Kế hoạch và Đầu tư
theo ủy quyền hoặc phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư được tiến hành
dưới hai hình thức: Thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất.
Thanh tra theo kế hoạch được tiến hành theo kế hoạch đã được phê
duyệt hàng năm với mục đích như hoạt động thường xuyên, định kỳ, tập trung
vào những lĩnh vực, vấn đề trọng tâm nhằm đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm

vụ đặt ra và kịp thời ngăn ngừa những vi phạm có thể xảy ra.
Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá
nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền giao.
Để thực hiện các nội dung thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư,
các cơ quan thanh tra kế hoạch và đầu tư thường tiến hành theo phương thức
chung của hoạt động thanh tra, đó là Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên độc
lập. Đoàn thanh tra và Thanh tra viên hoạt động theo quy định của pháp luật
về thanh tra. Khi tiến hành thanh tra phải có quyết định thanh tra của Thủ
trưởng cơ quan thanh tra kế hoạch và đầu tư hoặc cơ quan quản lý nhà nước
về kế hoạch và đầu tư. Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và người ra quyết định thanh tra về quyết định và biện


18

pháp xử lý của mình. Khi xử lý vi phạm, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra
viên phải thực hiện đầy đủ trình tự theo quy định của pháp luật.
1.2. Vai trò của thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu
tư trong quản lý nhà nước về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
Với những đặc điểm nêu trên, hoạt động thanh tra chuyên ngành kế
hoạch và đầu tư có một số vai trò quan trọng sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư là chức
năng thiết yếu của quản lý nhà nước trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
Có thể hiểu quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
mang tính quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự
xã hội nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Với khái niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu về quản lý nhà nước và

xét theo giai đoạn tác động quản lý thì quản lý nhà nước có 3 chức năng cơ
bản sau đây: ra quyết định quản lý; tổ chức thực hiện quyết định quản lý;
kiểm tra việc thực hiện quyết định quản lý.
Kiểm tra được hiểu là hình thức tác động có hướng đích nhằm quan sát
cả hệ thống để phát hiện những sai lệch so với yêu cầu đề ra, tìm ra nguyên
nhân và từ đó có những giải pháp phù hợp đảm bảo để đối tượng bị quản lý tự
điều chỉnh hoạt động để đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định.
Nhưng ở một cấp độ nào đó, thực tiễn điều hành và quản lý nói chung, đặc
biệt quản lý nhà nước nói riêng đòi hỏi một loại phương thức kiểm tra không
chỉ dừng lại ở chỗ phát hiện sai lệch của đối tượng bị quản lý so với yêu cầu
đề ra mà còn phải tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của sự sai
lệch đó. Chính từ việc tìm nguyên nhân và quy trách nhiệm cùng những yếu
tố khác đã làm nảy sinh những yêu cầu mới đối với chính hoạt động kiểm tra
như phải thu thập và xử lý; nhận xét và đánh giá, phân tích tổng hợp nguyên
nhân, dữ liệu, số liệu nhiều hơn, phức tạp hơn, loại hình kiểm tra như vậy hay
nói cách khác phương thức kiểm tra như vậy rất gần với hoạt động thanh tra.
Thực chất thanh tra là một phương thức của kiểm tra, là công cụ của quản lý.
Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước các cơ quan quản lý


19

nhà nước nhất thiết phải tiến hành việc hoạt động thanh tra thực hiện các
quyết định mà mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu được trong
quá trình hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy thanh tra được xác định là
chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước.9
Xuất phát từ vai trò của thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành kế
hoạch và đầu tư là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước trong lĩnh vực kế
hoạch và đầu tư. Vai trò của thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư cũng
gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của ngành kế hoạch và

đầu tư. Tiêu biểu nhất có thể lấy dẫn chứng từ hoạt động cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp của Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và
Đầu tư. Hoạt động này đang diễn ra theo cơ chế “tiền đăng - hậu kiểm”. Cơ
quan đăng ký kinh doanh chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ và người
đăng ký kinh doanh chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung đăng ký.
Cơ chế này nhằm đơn giản hóa mọi thủ tục, theo hướng thành lập chỉ là đăng
ký với nhà nước để khai sinh ra doanh nghiệp, doanh nghiệp được tự do sáng
tạo, chủ động kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm. Sau đó,
khi doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh thì phải tuân thủ một
loạt các quy định - khung pháp lý điều chỉnh hành vi của họ. Doanh nghiệp có
quyền tự do kinh doanh và Nhà nước sẽ kiểm tra, giám sát và xử lý nếu doanh
nghiệp vi phạm.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy thủ tục kiểm soát thành lập chặt chẽ
nhưng luật không nghiêm, thực thi lỏng lẻo thì cũng sẽ doanh nghiệp trục lợi,
dù có duy trì thủ tục tiền kiểm phức tạp, việc các doanh nghiệp vi phạm, trục
lợi như doanh nghiệp ma, buôn bán hóa đơn vẫn diễn ra phổ biến. Vì vậy hiện
nay ở giai đoạn thành lập, Nhà nước chỉ tiền kiểm ở chỗ kiểm tra tư cách xem
người thành lập là ai, có bị cấm tham gia thành lập không, có địa chỉ thật
không, góp vốn ban đầu chỉ nên dừng lại ở đăng ký, khi thời hạn góp vốn mà
doanh nghiệp không thông báo kèm theo giấy tờ chứng minh đã góp đủ vốn
thì cơ quan quản lý phải vào cuộc kịp thời để xử lý tránh trường hợp vốn ảo,
9

Thanh tra Chính phủ (2014), Tài liệu phục vụ thi nâng ngạch Thanh tra viên chính, Cổng thông tin điện tử
chính phủ, tr.98.


20

gây hệ lụy xấu cho xã hội nói chung và các đối tác khách hàng của doanh

nghiệp có vốn ảo này nói riêng. Nhà nước tập trung hơn vào khâu hoàn thiện
thể chế chính sách, tạo khung pháp lý rõ ràng với những chế tài đủ mức răn
đe, đồng thời kiện toàn bộ máy kiểm tra, giám sát xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm. Trong đó, Thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư với nội dung
thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh
bao gồm: Việc chấp hành các quy định về thành lập, đăng ký kinh doanh
doanh nghiệp; Việc chấp hành các nội dung trong Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp; Việc chấp hành các quy định về tổ chức bộ máy, quản lý, điều
hành hoạt động của doanh nghiệp; Việc chấp hành các quy định về cung cấp,
công bố thông tin đăng ký doanh nghiệp... chính là chức năng không thể thiếu
và có vai trò ngày càng quan trọng của bộ máy đó.
Thứ hai, hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực kế hoạch và
đầu tư.
Hiệu lực quản lý của Nhà nước phần lớn tuỳ thuộc vào nội dung, chất
lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định quản lý nhà nước. Hiệu
lực quản lý nhà nước cũng bị ảnh hưởng ngay cả khi nội dung, chất lượng
quyết định quản lý đã bảo đảm các yêu cầu cơ bản, nhưng lại thiếu biện pháp
bảo đảm cho quyết định đó được thực hiện. Để các quyết định quản lý nhà
nước được các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành quyết định,
phải đề ra quy trình thực hiện quyết định. Trong quy trình đó không thể thiếu
được hoạt động thanh tra, kiểm tra.10
Pháp luật về kế hoạch và đầu tư là những quy định đòi hỏi sự tuân thủ
các các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư với các hoạt động của mình sẽ góp phần đánh giá,
nhận xét tình hình và kết quả thực hiện, kiểm nghiệm lại chính nội dung và
chất lượng của những quy định đó. Trong trường hợp nội dung và chất lượng
các quy định được thực tế kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp, nhưng đối tượng
10


Thanh tra Chính phủ (2014), Tài liệu phục vụ thi nâng ngạch Thanh tra viên chính, Cổng thông tin điện tử
chính phủ, tr.98.


×