Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.29 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO CẨM NHUNG
NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN THỊ HUỆ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Cao Cẩm Nhung


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. ............................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu. ............................................................................................. 2
3. Phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. .......................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 4
5. Những điểm mới của luận văn. ............................................................................... 5
6. Kết cấu của luận văn. .............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN. ...................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
..................................................................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. .......................... 6
1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiêt hại .................................................. 6
1.1.1.2 Trách nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. ........................................ 7
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. ........................... 8
1.1.3. Ý nghĩa quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. ............................................................................................................................ 9
1.2 Khái quát chung về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
của cá nhân. ............................................................................................................... 11
1.2.1. Cá nhân và năng lực chủ thể của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam .. 11
1.2.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.15
1.2.3 Ý nghĩa của việc quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của cá nhân. .............................................................................................. 20


1.3. Lược sử các quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân tại Việt Nam. ................................................................................ 22
1.3.1. Thời kỳ phong kiến. ......................................................................................... 22
1.3.2. Thời kỳ thực dân- phong kiến.......................................................................... 24
1.3.3. Thời kỳ sau cách mạng T8- 1945 đến nay....................................................... 24
1.4. Quy định của một số nước trên thế giới về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân. ....................................................................... 28
1.4.1. Pháp luật dân sự Nhật Bản. ............................................................................ 28
1.4.2. Pháp luật dân sự Pháp. ................................................................................... 30
1.4.3. Pháp luật dân sự Đức. .................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NĂNG
LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA
CÁ NHÂN. ................................................................................................................ 33
2.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái
pháp luật của người chưa thành niên gây ra.............................................................. 33
2.2.1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái
pháp luật của cá nhân dưới 15 tuổi gây ra. .............................................................. 36
2.2.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái
pháp luật của cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. ............................................. 49
2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt hại của người mất năng lực
hành vi dân sự. .......................................................................................................... 51
2.4. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân do tài sản gây ra. .................. 54
2.5. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. ..... 59


CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN VÀ
ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN................................................................................ 62
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam hành về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân. .......................................................... 62
3.1.1 Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại trong trường hợp người đủ 18
tuổi trở lên gây thiệt hại chưa có tài sản bồi thường. ............................................... 62
3.1.2. Người phải bồi thường chết. ........................................................................... 64
3.1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người giám hộ .................................... 65
3.1.4. Vấn đề xác định tài sản của con chưa thành niên để xác định trách nhiệm BTTH.
................................................................................................................................... 67

3.1.5. Trách nhiệm BTTH đối với hành vi trái pháp luật của người bị bệnh tâm thần.
................................................................................................................................... 69
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân. .......................................................... 70
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 78
DANH MUC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 79


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản của cá nhân, tổ chức là quyền cơ bản được công ước quốc tế về quyền con
người và pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới ghi nhận. Hiến pháp Việt Nam
2013 đã có sự ghi nhận khá toàn diện về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân tại chương II của Hiến pháp. Theo đó, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ đảm bảo theo hiến pháp và pháp luật. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng
quyền của người khác và khi thực hiện quyền của mình không được xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. BLDS 2005 cũng đã có những quy định
cụ thể hóa vấn đề này như Điều 32, Điều 37 về bảo vệ các quyền nhân thân, Điều
169 bảo vệ về quyền sở hữu...Khi một người có hành vi xâm phạm đến quyền nhân
thân, quyền tài sản của cá nhân, tổ chức được Nhà Nước bảo vệ thì một trong những
trách nhiệm mà họ phải gánh chịu là phải bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng
sớm được đề cập trong các văn bản pháp luật trước đây nhưng phải đến khi ban
hành BLDS 1995 nó mới được hệ thống hóa thành một chế định riêng trong BLDS.
Đến BLDS 2005 chế định này được quy định tại chương XXI, phần thứ ba của Bộ
luật. BLDS 2005 đã quy định khá đầy đủ, hệ thống về trách nhiệm BTTH như căn

cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường, cách xác định thiệt hại, mức bồi thường, quy định về thời hạn thời hiệu và
các trường hợp BTTH cụ thể... Việc xác định người phải chịu trách nhiệm BTTH là
một nội dung rất quan trọng trong quan hệ bồi thường thiệt hại. Để xác định chủ thể
chịu trách nhiệm bồi thường thì vấn đề đặt ra là phải xác định chủ thể nào có hành
vi gây thiệt hại trên thực tế và chủ thể nào có “ khả năng” chịu trách nhiệm BTTH.
Ngoài ra, xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường còn liên quan đến việc xác
định tư cách tố tụng trước Tòa án.


2

Người gây thiệt hại là người bất kỳ: người đã thành niên, người đầy đủ năng
lực hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi, người mất năng lực hành vi, người
có năng lực hành vi chưa đầy đủ, người không có năng lực hành vi. Trong BLDS
còn quy định các loại tài sản cũng gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản. Tuy
nhiên, người chịu trách nhiệm bồi thường thì không đồng nhất với các chủ thể kể
trên, đặc biệt hiện nay tài sản gây thiệt hại BLDS mới dự liệu chủ sở hữu, người
chiếm hữu... phải chịu trách nhiệm bồi thường, nhưng một số trường hợp như tài
sản của vợ chồng, tài sản của người chưa thành niên gây thiệt hại thì chưa được xác
định cụ thể.
Như vậy, trong quan hệ BTTH chủ thể gây thiệt hại không phải lúc nào cũng
là chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Sau nhiều năm thực hiện các quy
định của BLDS về trách nhiệm BTTH cho thấy một số Tòa án vẫn đang còn lúng
túng trong việc xác định tư cách chủ thể trong vụ án BTTH ngoài hợp đồng, một số
Tòa án còn xác định sai chủ thể có trách nhiệm BTTH. Một mặt là do quy định của
pháp luật còn chưa cụ thể, mặt khác thực tế việc gây thiệt hại là hết sức đa dạng,
trong khi nhận thức và nghiệp vụ xác định của một số cán bộ tòa án vẫn còn những
hạn chế... Xuất phát từ lý do trên, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ quy định của
BLDS về năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân là vấn đề

có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một nội dung quan trọng vì
vậy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học và bài viết về vấn đề này trong
đó có đề cập đến năng lực chịu trách nhiệm BTTH:
- PGS.TS Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại ngài hợp đồng về
tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb Hà Nội, Hà nội.
- PGS.TS Trần Thị Huệ, TS.Vũ Thị Hải Yến, TS.Vũ Thị Hồng Yến (2011),
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng từ quy định của pháp luật đến thực tiễn, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.


3

- TS Trần Thị Huệ (chủ biên), Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra theo
pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính Hà Nội 2013.
- Lê Mai Anh (1997), Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng trong BLDS, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- TS Nguyễn Minh Tuấn, “Trách nhiệm liên đới BTTH ngoài hợp đồng do
người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây ra”- Tạp chí luật học số 5/1998.
- Nguyễn Thị Thúy Hằng (2013) “Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá
nhân có năng lực hành vi dân sự”, tạp chí Tòa án nhân dân (số 9/2013).
- TS Phạm Kim Anh (2008) “Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, các
tổ chức khác trực tiếp quản lý trong pháp luật Việt nam”- Tạp chí khoa học pháp lý
(số 1/2008).
- Nguyễn Văn Cương, Chu Thị Hoa (2005) “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (số 4/2005).
Các công trình nghiên cứu khoa học nói trên đã phân tích những vấn đề
chung về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, về năng lực chịu trách nhiệm BTTH

trong một số trường hợp. Tuy nhiên các đề tài trên mới chỉ dừng lại ở mức khái quát
chung về năng lực chịu trách nhiệm BTTH hoặc đã có những phân tích cụ thể hơn
nhưng ở vào thời điểm BLDS 1995 đang có hiệu lực thi hành hoặc mới chỉ phân
tích một, một số trường hợp cụ thể trong năng lực chịu trách nhiệm BTTH, mà chưa
đề cập đến một cách toàn diện, hệ thống các mức độ năng lực chịu trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân.
3. Phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu.
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu lý luận về trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng, về năng lực chủ thể từ đó làm rõ các điều kiện về năng lực chịu trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân.
Thứ hai, luận văn nghiên cứu pháp luật thực định về năng lực chịu trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại của cá nhân


4

theo quy định của BLDS 2005. Đối với năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng của các chủ thể khác không thuộc phạm vi của luận văn.
Mục đích nghiên cứu.
Những nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân thông qua
việc nghiên cứu lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Từ những nghiên cứu về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân, luận
văn đưa ra một số kiến nghị nhằm tháo gỡ một số khó khăn trong quá trình áp dụng
BLDS và văn bản liên quan về xác định năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng của cá nhân.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu làm sáng tỏ năng lực chủ thể từ đó làm cơ sở cho việc nghiên
cứu sâu hơn về mặt lý luận năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá

nhân, các điều kiện ảnh hưởng đến năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng của cá nhân.
Nghiên cứu về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân được BLDS
2005 quy định và văn bản hướng dẫn thi hành theo các mức độ khác nhau căn cứ
vào độ tuổi của cá nhân.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng của cá nhân, chỉ ra những hạn chế từ đố đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac- Lê Nin, hệ
thống quan điểm, lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ chí Minh về
nhà nước và pháp quyền xã hội củ nghĩa.
Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp bình luận...trong quá
trình nghiên cứu đề tài.


5

5. Những điểm mới của luận văn.
Nghiên cứu sâu sắc lý luận về năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng của cá nhân, phân tích rõ các điều kiện ảnh hưởng đến năng lực chịu trách
nhiệm BTTH của cá nhân. Phân tích những điểm hạn chế, bất cập về quy định năng
lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân của BLDS 2005, đồng thời
qua tham khảo quy định pháp luật quốc tế luận văn đưa ra một số định hướng hoàn
thiện. Đề tài hoàn thành là công trình mang tính hệ thống về năng lực chịu trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân và một số định hướng hoàn thiện.


6

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC
CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN.
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiêt hại
Khái niệm thiệt hại: Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Đại từ điển tiếng Việt,
thiệt hại được hiểu là “mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của” [34; tr.1571].
Dưới góc độ khoa học pháp lý, theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [35; tr.118]. Dưới
góc độ luật thực định, từ cách tiếp cận khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại”
trong quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo Điều 310
BLDS 1995 thì “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần”. Tiếp theo đó
Điều 305 BLDS 2005 khẳng định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về
tinh thần”. Như vậy, về mặt khoa học và luật thực định thì quan niệm phổ biến hiện

nay về thiệt hại là thiệt hại bao gồm: Thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Trong đó, thiệt hại về vật chất là: tài sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng, chi phí phải
bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác
tài sản cùng với hoa lợi, lợi tức; thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự,
uy tín, nhân phẩm. Như vậy, thiệt hại có thể hiểu là những tổn thất, mất mát về vật
chất và tinh thần, nghiên cứu dưới góc độ pháp lý, thiệt hại này do những hành vi
cụ thể gây ra.


7

Khái niệm bồi thường: Dưới góc độ pháp lý, theo Đại từ điển tiếng Việt, bồi
thường được hiểu là “đền bù những tổn thất đã gây ra”[49; tr.191]. Về mặt pháp lý,
bồi thường là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do hành vi gây thiệt hại. Như vậy,
bồi thường hay có thể hiểu là bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự
nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp,
đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Vậy bồi
thường có thể hiểu là việc đền bù những tổn thất, mất mát về vật chất và tinh thần
nhằm khắc phục những hậu quả do hành vi gây thiệt hại gây ra.
Tóm lại, mọi người trong xã hội đều phải tôn trọng pháp luật, tôn trọng những
quy tắc chung của xã hội, không thể xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý, gây tổn hại cho người khác
thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu hậu
quả bất lợi chính là việc bồi thường thiệt hại. Như vậy, Trách nhiêm bồi thường
thiệt hại là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì một người phải bù đắp những tổn
thất, mất mát về vật chất và tinh thần nhằm khắc phục những hậu quả do hành vi
gây thiệt hại trái pháp luật gây ra.
1.1.1.2 Trách nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Tại điều 604 BLDS 2005 cũng đã quy định rõ trách nhiệm bồi thường thiệt
hại “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,

nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm
danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường”. Theo quy định của điều luật này khi một người gây thiệt hại cho
người khác thì phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Hay nói cách khác giữa
các chủ thể này phát sinh một quan hệ pháp luật, trong đó người bị thiệt hại có
quyền yêu cầu bên gây thiệt hại bồi thường còn bên gây thiệt hại có nghĩa vụ bồi
thường những thiệt hại đã gây ra. Quan hệ pháp luật đó gọi là nghĩa vụ phát sinh do
gây thiệt hại hay còn gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [12;
tr.23]. Như vậy có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là


8

trách nhiệm pháp lý bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm BTTH
về tinh thần phát sinh khi người nào có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân và các chủ thể
khác mà gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm BTTH cho bên bị thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
Bộ luật không đưa ra khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ quy định khi thiệt
hại xảy ra, người có hành vi gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất và bồi thường thiệt hại thiệt hại về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế tính được thành
tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn,
hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút. Trách nhiệm
BTTH về tinh thần là khi một người có hành vi gây thiệt hại về tinh thần cho người
khácdo xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai còn phải bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại [3; Điều
307].

1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một hình thức cụ thể của trách
nhiệm dân sự, do vậy trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trước hết là một loại trách
nhiệm dân sự, chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự.Khi một người gây ra tổn
thất cho người khác thì họ phải BTTH để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
những người bị xâm hại.Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được BLDS 2005 quy
định cụ thể tại chương XXI và văn bản hướng dẫn thi hành.
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng luôn mang đến hậu quả bất lợi về tài
sản cho người gây thiệt hại. Theo quy định của BLDS 2005 khi một người có hành
vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm BTTH,
thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm phạm đến danh


9

dự, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Hình thức
bồi thường các bên có thể thỏa thuận bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một
công việc. Về nguyên tắc những tổn thất về tinh thần không thể giá trị được bằng
tiền theo nguyên tắc ngang giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được.
Nhưng với mục đích an ủi động viên người bị thiệt hại về tinh thần BLDS 2005
lượng hóa bằng một khoản tiền nhất định nhằm bù đắp những tổn thất về tinh thần.
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn các điều kiện
nhất định. Theo quy định của pháp luật phải thỏa mãn bốn điều kiện sau đây: có
thiệt hại xảy ra, có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả
giữa thiệt hại xảy ra và hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, có lỗi của người gây
thiệt hại.
- Chủ thể chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không chỉ là người trực
tiếp có hành vi gây ra thiệt hại mà trong nhiều trường hợp trách nhiệm BTTH còn
áp dụng với các chủ thể khác được pháp luật quy định: trách nhiệm BTTH của cha,
mẹ đối với người con chưa thành niên, của người giám hộ đối với người được giám

hộ, của pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, của trường học,
bệnh viện hoặc các tổ chức khác đối với người dưới 15 tuổi, người mất năng lực
hành vi trong trường hợp trường học bệnh viện, các tổ chức khác quản lý...
1.1.3. Ý nghĩa quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Trong đời sống hàng ngày thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự,
uy tín, nhân phẩm của cá nhân, tài sản, danh dự, uy tín của tổ chức do hành vi trái
pháp luật của cá nhân diễn ra khá nhiều. Do vậy việc pháp luật quy định trách
nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói riêng là vô cùng
cần thiết. Không chỉ có pháp luật Việt Nam mà pháp luật hầu hết các nước trên thế
giới đều có chế định này. Khi có một hành vi xâm phạm tài sản, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì tùy theo quan hệ bị xâm hại được pháp luật bảo
vệ hành vi của người gây thiệt hại có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc dân sự.


10

Tuy nhiên, điều có ý nghĩa thiết thực hơn đối với người có tài sản hoặc quyền nhân
thân bị xâm phạm là phải làm thế nào để khắc phục được những hậu quả do hành vi
trái pháp luật ấy gây nên. Do vậy chỉ bằng những biện pháp hình sự để trừng phạt
người có hành vi trái pháp luật là chưa đủ. Trong nhiều trường hợp phải sử dụng
các biện pháp dân sự, đó là những biện pháp được áp dụng một cách độc lập không
phụ thuộc vào việc người gây thiệt hại có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Để khắc phục những hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra, pháp luật nước ta quy
định các biện pháp trong cả Bộ luật hình sự và Bộ luật dân sự trong đó có biện pháp
buộc BTTH. Như vậy, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có các ý nghĩa cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng góp phần bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của cá nhân, tài sản, danh dự, uy tín
của tổ chức. Nếu hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản thì phải khôi phục lại

tình trạng tài sản của người bị thiệt hại như: đền bù giá trị tài sản đã bị hư hỏng hay
mất bằng một số tiền, thay thế tài sản hư hỏng hay mất bằng một tài sản khác, sửa
chữa tài sản đã bị hư hỏng để khắc phục giá trị sử dụng của nó như khi chưa bị hư
hỏng... Nếu hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự
nhân phẩm uy tín của cá nhân hoặc tổ chức thì phải chịu trách nhiệm bồi thường
những chi phí mà người bị thiệt hại bỏ ra để phục hồi sức khỏe và những thu nhập
người đó không thu được. Đối với thiệt hại về tính mạng thì phải chịu trách nhiệm
về chi phí cứu chữa người đó trước khi chết, chi phí mai táng và cấp dưỡng những
người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. đối với thiệt hại do xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm về chi phí
hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Ngoài ra đối với trường hợp xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức người gây thiệt
hại còn bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại hoặc nhân thân người bị
thiệt hại( trường hợp xâm phạm về tính mạng) bằng một khoản tiền nhất định và


11

buộc người gây thiệt hại phải xin lỗi, cải chính công khai. Những quy định này đã
góp phần bảo vệ tài sản, quyền nhân thân của người bị hại một cách triệt để hơn.
Thứ hai, những quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có tác dụng
giáo dục pháp luật, phòng ngừa những hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người
khác. Bởi bất kỳ ai có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đều có trách nhiệm bồi
thường. Do vậy, những quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồngsẽ buộc mọi người trước khi hành động đều phải có suy nghĩ về hành động của
mình, về hậu quả có thể xảy ra của hành vi đó để lựa chọn hành vi xử sự đúng pháp
luật.Từ đó góp phần nâng cao ý thức chấp hành cũng như nhận thức pháp luật của
người dân.
Thứ ba, những quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng khá cụ thể và
chi tiết, BLDS 2005 quy định rõ về căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH, nguyên tắc

BTTH, năng lực chịu trách nhiệm BTTH, căn cứ để xác định thiệt hại, thời hiệu
khởi kiện yêu cầu BTTH, BTTH trong những trường hợp cụ thể....đây là cơ sở pháp
lý vững chắc để cơ quan bảo vệ pháp luật giải quyết các vấn đề tranh chấp liên quan
đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Xác định đúng chủ thể có trách nhiệm
BTTH, giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác bảo đảm nguyên tắc thiệt
hại gây ra phải được bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời” cho người bị hại.
1.2. Khái quát chung về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của cá nhân.
1.2.1. Cá nhân và năng lực chủ thể của cá nhân theo pháp luật dân sự
Việt Nam
Cá nhân là từ dùng để chỉ một con người cụ thể trong xã hội. Cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác là những chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.Trong
các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà pháp luật điều chỉnh thì cá nhân là chủ
thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự
cũng thông qua hành vi của cá nhân. Để tham gia vào quan hệ pháp luật nói chung


12

và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng thì cá nhân phải có năng lực chủ thể. Năng
lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân:
Điều 14 BLDS 2005 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”. Theo quy định này,
năng lực pháp luật của cá nhân là phạm vi các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã
quy định. Năng lực pháp luật có từ khi cá nhân đó sinh ra và chấm dứt khi người đó
chết và không bị hạn chế bởi bất kỳ lý do nào( độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính, tôn
giáo,...). Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật theo khoản 2 Điều 14
BLDS 2005 “ Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. Nghĩa là
có khả năng hưởng quyền và gánh chịu nghĩa vụ như nhau. Pháp luật ghi nhận cá

nhân có các nhóm quyền cơ bản sau: quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền
nhân thân gắn với tài sản; quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản; quyền
thừa kế; quyền tham gia vào các quan hệ dân sự và các nghĩa vụ phát sinh từ các
quan hệ đó. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một căn cứ làm phát sinh nghĩa
vụ dân sự của cá nhân.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
Nếu năng lực pháp luật ghi nhận sự bình đẳng giữa mọi chủ thể trong một
Nhà nước tại một thời điểm nhất định thì năng lực hành vi là khả năng của cá nhân
bằng chính hành vi của mình tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ.
Điều 17 BLDS quy định: “ năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá
nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.” Năng lực
hành vi có sự khác nhau giữa các cá nhân phụ thuộc vào một số yếu tố như độ tuổi,
lý trí, ý chí, khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của cá nhân đó. Lý trí, ý chí,
khả năng nhận thức là những khái niệm mang tính chất mơ hồ khó định nghĩa cụ
thể. Vì vậy pháp luật dân sự Việt Nam căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý từng độ tuổi
để phân chia mức độ năng lực hành vi của cá nhân. Bao gồm 4 mức độ năng lực
hành vi sau:


13

Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ:
Theo quy định tại Điều 18, Điều 19 BLDS 2005 thì những người từ đủ 18
tuổi trở lên được gọi là người thành niên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ
trường hợp bị hạn chế năng lực hành vi hoặc mất năng lực hành vi bởi một quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Những người này được phép tham gia vào
quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những
hành vi do mình thực hiện. Xét về mặt tố tụng, những người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ sẽ tự mình tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự với tư cách
là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Người có năng lực hành vi dân sự một phần:
Theo quy định tại Điều 20 BLDS 2005 người có năng lực hành vi dân sự một
phần là người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi. Khi họ xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Ngoại trừ một số giao dịch
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy nhiên, đối với
người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu họ có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa
vụ dân sự thì họ được quyền xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự và chịu trách
nhiệm trong phạm vi tài sản họ có.
Như vậy những người có năng lực hành vi dân sự một phần chỉ có thể xác
lập thực hiện quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do
pháp luật quy định.
Người không có năng lực hành vi dân sự:
Theo quy định tại Điều 21 BLDS 2005 những người chưa đủ 6 tuổi không có
năng lực hành vi dân sự và mọi giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải do
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Người mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự:
Mất năng lực hành vi dân sự là việc một người đã có năng lực hành vi dân sự
nhưng do họ bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích


14

liên quan Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận của tổ chức giám định. Như vậy, một người tuy mắc bệnh tâm thần
hoặc các bệnh khác dẫn đến không nhận thức làm chủ được hành vi của mình cũng
chỉ được coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định có hiệu lực của Tòa
án. Đối với trường hợp này, giao dịch dân sự cũng như các nghĩa vụ vụ dân sự của
họ đều do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
Hạn chế năng lực hành vi dân sự là trường hợp người nghiện ma túy, các

chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản gia đình theo một quyết định của Tòa
án tuyên bố người đó bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, cơ quan hữu quan. Người đại diện theo pháp luật của của
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Tòa án quyết định.
Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ
nhu cầu hàng ngày.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị mất hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích
liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố người đó mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân được quy định cụ thể tại Điều 606 BLDS
2005 cũng căn cứ vào năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Việc tìm hiểu năng lực
chủ thể của cá nhân đặc biệt là năng lực hành vi dân sự có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá
nhân, xác định tư cách chủ thể của cá nhân đó khi tham gia quan hệ pháp luật bồi
thường thiệt hại, xác định cá nhân nào có trách nhiệm bồi thường trong từng quan
hệ bồi thường thiệt hại cụ thể.


15

1.2.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
cá nhân.
Khái niệm năng lực: Theo quan điểm của các nhà tâm lý học: năng lực là
tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc
trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả
cao. Theo khái niệm này, năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến
năng lực bao giờ cũng nói đến năng lực thuộc về một hoạt động cụ thể nào đó. Theo

đại từ điển Tiếng Việt năng lực là khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc hay
những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì [34;1172]. Dưới góc độ thuật
ngữ pháp lý, từ điển luật học của Nxb từ điển Bách Khoa Hà Nội (1999) định nghĩa
năng lực thành năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự: Năng lực
pháp luật của cá nhân là khả năng có các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự, năng
lực pháp luật dân sự bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền nhân
thân gắn liền với tài sản, các quyền tài sản, quyền tham gia quan hệ dân sự và có
nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Cá nhân có năng lực pháp luật từ khi họ sinh ra
cho đến khi chết [39; tr.315]. Năng lực hành vi dân sự được pháp luật quy định căn
cứ vào: độ tuổi, tức là đến một độ tuổi nào đốcn người mới có đủ nhận thức để
quyết định về hành vi của mình. Do đó bộ luật dân sự quy định người người thành
niên(đủ 18 tuổi) là người có đủ năng lực hành vi dân sự trừ trường hợp bị mất năng
lực hành vi. Nếu là người chưa thành niên thì tùy theo độ tuổi mà họ là người
không có năng lực hành vi hoặc chỉ có năng lực hành vi một phần...[39; tr.315].
Khái niệm trách nhiệm: Theo đại từ điển tiếng Việt định nghĩa trách nhiệm
là “trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác hoặc nhận lấy về mình” [34;
tr.1678]. Về mặt pháp lý tuy không có khái niệm về trách nhiệm nhưng thông qua
khái niệm trách nhiệm dân sự theo từ điển luật học của nxb từ điển Bách Khoa, Hà
Nội năm 1999: “trách nhiệm pháp luật dân sự là trách nhiệm của một người phải
khắc phục những thiệt hại mà mình gây ra cho người khác, do một sự kiện mà
người đó có trách nhiệm”[39; tr.529]. Có thể hiểu trách nhiệm như là điều mà một


16

cá nhân phải làm phải làm, phải gánh vác hoặc nhận lấy về mình. Khi có những hậu
quả bất lợi xảy ra thì cá nhân đó phải gánh chịu những hậu quả đó.
Hiện nay, BLDS cũng như các văn bản pháp luật khác chưa đưa ra khái niệm
như thế nào là năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá
nhân mà chỉ quy định cụ thể các mức độ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng căn cứ vào độ tuổi, tình trạng tài sản, khả năng nhận thức của cá
nhân. Thông qua việc phân tích một số khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân là khả năng
của cá nhân đó bằng hành vi của mình bù đắpnhững tổn thất, mất mát về vật chất
và tinh thần nhằm khắc phục những hậu quả do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
gây ra. Trong thực tiễn cuộc sống, thiệt hại có thể gây ra bởi bất kỳ chủ thể nào tuy
nhiên chỉ có những chủ thể có đủ “khả năng” mới phải chịu trách nhiệm BTTH.
Điều 606 BLDS 2005 chỉ quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng của cá nhân mà không quy định về năng lực chịu trách nhiệm
BTTH của pháp nhân hay các tổ chức khác. Do vậy, có thể hiểu rằng pháp nhân và
các tổ chức khác đương nhiên có năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
Pháp nhân, các tổ chức khác có trách nhiệm BTTH khi thiệt hại xảy ra do người của
pháp nhân, tổ chức khác gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao. Sau
khi đã bồi thường cho người bị thiệt hại, pháp nhân, tổ chức khác đã tiến hành bồi
thường xem xét người của pháp nhân gây thiệt hại có lỗi hay không có lỗi trong
việc gây thiệt hại để xem xét việc hoàn trả khoản tiền bồi thường của người gây
thiệt hại cho mình.
Thông thường khi một người gây ra thiệt hại cho người khác thì người đó
phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại do mình gây ra trừ trường
hợp pháp luật quy định không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, xét về
mặt pháp lý người gây thiệt hại có thể là bất cứ ai nhưng không phải ai cũng phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.Vì vậy khi một thiệt hại xảy ra việc xác định
ai là người phải chịu trách nhiệm bồi thường là vấn đề quan trọng. Để đảm bảo


17

nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời cho người bị thiệt hại
BLDS 2005 đã quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân dựa trên một số điều kiện:

- Năng lực hành vi (độ tuổi, khả năng nhận thức),
- Tình trạng tài sản,
- Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Điều kiện về độ tuổi
Căn cứ này xuất phát từ yêu cầu về năng lực chủ thể của cá nhân khi tham
gia bất kì một quan hệ pháp luật nào. Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự quy định để
trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự thì cá nhân phải có đầy đủ năng lực
chủ thể( bao gồm cả năng lực pháp luật và năng lực hành vi). Năng lực pháp luật
của cá nhân có từ khi cá nhân được sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực
hành vi lại được chia thành các mức khác nhau phụ thuộc vào độ tuổi của cá nhân
như đã phân tích ở mục 1.2.2. Đối với cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên không bị mất
năng lực hành vi dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì trách nhiệm
BTTH thuộc về họ. Đối với cá nhân là người chưa thành niên dưới 15 tuổi( bao
gồm người chưa có năng lực hành vi dân sự và người có năng lực hành vi dân sự
một phần) có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì cha mẹ, người giám hộ chịu
trách nhiệm BTTH( trừ trường hợp người giám hộ chứng minh được mình không có
lỗi trong việc quản lý người được giám hộ). Đối với cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi (người có năng lực hành vi dân sự một phần) có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại thì trước hết họ phải chịu trách nhiệm BTTH, nếu tài sản của họ không
có hoặc không đủ để bồi thường mới đặt ra trách nhiệm của cha mẹ hoặc người
giám hộ. Việc căn cứ vào độ tuổi để quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là hợp lý, chỉ khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định cùng với
một trình độ nhận thức nhất định thì mới có khả năng gánh chịu trách nhiệm dân sự
nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng.


18

Khả năng nhận thức của cá nhân

Xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung và xác định năng lực
chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân nói riêng phải căn cứ vào yếu
tố lỗi của người gây thiệt hại.
Điều 308 BLDS quy định về lỗi trong trách nhiệm dân sự: “ Cố ý gây thiệt
hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho
người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để
mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ
xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng
thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.”
Điều 604 BLDS 2005 quy định “ Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền , lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường ”.
Như vậy, khả năng nhận thức của mỗi cá nhân có mối liên hệ với năng lực
chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân, là cơ sở quan trọng để xác
định hình thức lỗi khi cá nhân có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Khả năng nhận
thức của cá nhân được đánh giá dựa trên độ tuổi của cá nhân. Giữa nhận thức và độ
tuổi có mối quan hệ mật thiết với nhau, là hai yếu tố cấu thành nên năng lực hành vi
của chủ thể. Pháp luật quy định năng lực hành vi theo các mức độ phụ thuộc vào độ
tuổi, điều đó có nghĩa là pháp luật thừa nhận con người chỉ nhận thức đầy đủ khi đạt
đến một độ tuổi nhất định. Tuy nhiên có trường hợp đã đạt đến độ tuổi nhất định
nhưng không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình, pháp luật quy định
đây là trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự, nguyên nhân là do người đó bị
mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến hậu quả không có khả năng làm chủ
được nhận thức và hành vi của mình. Đối với những người tuy đã thành niên nhưng


19


không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình và bị Tòa án tuyên bố bằng
quyết định có hiệu lực thì họ bị coi là người mất năng lực hành vi và họ không thể
trở thành chủ thể có thể đứng ra gánh vác trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng dù thiệt hại đó là do họ gây ra. Trường hợp người không có năng lực hành
vi dân sự cũng tương tự như vậy. Năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
của cá nhân căn cứ vào yếu tố này bởi một người nếu không thể nhận thức được
những việc mình đang làm thì không đặt ra trách nhiệm đối với họ, và trên thực tế
họ cũng không thể chịu trách nhiệm do chính hành vi của mình.
Theo PGS.TS Phùng Trung Tập xác định năng chịu trách nhiệm bồi thường
của cá nhân phải dựa trên tiêu chí khả năng nhận thức của cá nhân là cơ bản là hạt
nhân... căn cứ vào khả năng nhận thức của cá nhân gây thiệt hại để xác định năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là một căn cứ khoa học và
biện chứng phù hợp với bản chất của pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng [36; tr.96].
Tình trạng tài sản.
Có quan điểm cho rằng năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của cá nhân dựa trên khả năng tạo dựng tài sản của cá nhân là chưa hợp lý
bởi bất kỳ cá nhân nào khi gây ra thiệt hại cho người khác đều phải có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại đã xảy ra mà không phụ thuộc vào việc cá nhân đó có tài sản
hay không. Quan điểm trên cũng có lý nếu xét trong trường hợp trách nhiệm bồi
thường sẽ do chính cá nhân đã gây thiệt hại gánh chịu. Tuy nhiên, trong trường hợp
thiệt hại do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thì họ
không phải gánh chịu hoặc không phải gánh chịu toàn bộ thiệt hại mà do cha mẹ
hoặc người giám hộ (trong trường hợp không chứng minh được mình không có lỗi)
gánh chịu. Vì vậy, pháp luật căn cứ vào tình trạng tài sản của cá nhân để quy định
năng lực chịu trách nhiệm BTTH. Xét về mặt câu chữ tại Điều 606 quy định trách
nhiệm BTTH của người chưa thành niên dưới 15 tuổi thuộc về cha mẹ, nếu tài sản
của cha mẹ không đủ để bồi thường mà người con chưa thành niên gây thiệt hại có



20

tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trong trường hợp có
người giám hộ thì người giám hộ được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi
thường, nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi
thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình...Người từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại phải bồi thường bằng chính tài sản của mình,
nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng
tài sản của mình.
Như vậy có thể thấy, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được xác định là
trách nhiệm tài sản nên pháp luật đã dựa vào tình trạng tài sản của cá nhân để xác
định năng lực chịu trách nhiệm BTTH .
Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường:
Căn cứ này được đặt ra để xem xét trong trường hợp người gây ra thiệt hại
không có “khả năng” bồi thường hoặc không có “khả năng” bồi thường toàn bộ
thiệt hại. Pháp luật quy định mối quan hệ pháp lý này nhằm xác định cá nhân có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại để đảm bảo nguyên tắc thiệt hại được bồi thường
toàn bộ và kịp thời, bảo vệ quyền và lợi ích pháp của người bị thiệt hại. Ở đây có
thể là mối quan hệ giữa người chưa thành niên với cha mẹ; giữa người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự với người giám hộ, trường học, bệnh viện,
tổ chức khác.
1.2.3 Ý nghĩa quy định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Pháp luật quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của
cá nhân không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn
bởi khi phát sinh một quan hệ BTTH thì việc xác định cá nhân gây thiệt hại và việc
xác định trách nhiệm bồi thường này thuộc về ai luôn luôn là câu hỏi phải đặt ra để
giải quyết vụ án. Căn cứ vào năng lực chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được
pháp luật quy định để xác định cá nhân nào phải tự chịu trách nhiệm BTTH bởi

chính hành vi trái pháp luật của mình gây ra, cá nhân nào không phải chịu trách


×