BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN VŨ TRỌNG ĐAN
PHÁP LUẬT ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ THỰC TIỄN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN 10 - QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ THÚY LÂM
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng kính trọng sâu sắc tới
PGS. TS Trần Thị Thúy Lâm - ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn em hoàn thành Luận
văn. Với sự hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tình của Cô đã giúp em vƣợt qua những khó
khăn trong quá trình thực hiện Luận văn này.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã truyền đạt cho em những kiến thức hữu ích trong
những năm học đã qua. Đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Luật Lao
động, những ngƣời đã truyền đạt kiến thức để giúp cho em có thể hoàn thành khóa
luận này.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, mặc dù đã có rất nhiều
cố gắng song không thể tránh khỏi còn những hạn chế và thiếu sót. Kính mong Quý
thầy, cô đóng góp ý kiến để luận văn tốt nghiệp của em đƣợc hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Vũ Trọng Đan
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các kết luận, số liệu trong khóa luận tốt nghiệp là trung thực,
đảm bảo độ tin cậy./.
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn
Tác giả khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Vũ Trọng Đan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ ......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của đào tạo nghề ...........................................................7
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................7
1.1.2. Đặc điểm của đào tạo nghề .....................................................................10
1.1.3. Ý nghĩa đào tạo nghề ..............................................................................12
1.2. Phân loại đào tạo nghề ...................................................................................16
1.3. Đào tạo nghề theo pháp luật một số nƣớc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ....18
1.4. Đào tạo nghề theo pháp luật Việt Nam ..........................................................21
1.1.4. Các hình thức đào tạo nghề .....................................................................21
1.4.2. Hợp đồng đào tạo nghề ...........................................................................24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..................................................................................................27
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐÀO TẠO NGHỀ TẠI
TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 VÀ
QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......................................................28
2.1. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề tại
TAND ....................................................................................................................28
2.1.1. Tranh chấp về đào tạo nghề và sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp
đào tạo nghề tại Tòa án .....................................................................................28
2.1.2. Giải quyết tranh chấp đào tạo nghề tại tòa án .........................................33
2.2. Thực tiễn tình hình giải quyết tranh chấp đào đào nghề tại TAND quận 10
và quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh .........................................................52
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc ..........................................................................52
2.2.2. Những điểm còn tồn tại và nguyên nhân ...............................................56
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ..................................................................................................63
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐÀO TẠO NGHỀ TẠI TÒA ÁN VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TẠI
TAND QUẬN 10 VÀ QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................64
3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề và
giải quyết tranh chấp đào tao nghề tại Tòa án.......................................................64
3.1.1. Những yêu cầu hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề ............................64
3.1.2. Những yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đào tạo
nghề tại Tòa án ..................................................................................................66
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề và giải quyết
tranh chấp về đào tạo nghề tại Tòa án ...................................................................69
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đào tạo
nghề tại Tòa án nhân dân quận 10, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. .....71
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ..................................................................................................76
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
BLLĐ
: Bộ luật Lao động
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng Dân sự
GQTCLĐ
: Giải quyết tranh chấp lao động
HĐXX
: Hội đồng xét xử
HGVLĐ
: Hòa giải viên lao động
HTND
: Hội thẩm nhân dân
NLĐ
: Ngƣời lao động
NSDLĐ
: Ngƣời sử dụng lao động
QHLĐ
: Quan hệ lao động
TAND
: Tòa án nhân dân
TC
: Tranh chấp
TCLĐ
: Tranh chấp lao động
UBND
: Ủy ban nhân dân
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển
kinh tế nhƣ: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con ngƣời… Trong
các nguồn lực đó thì nguồn lực con ngƣời là quan trọng nhất, có tính chất quyết
định trong sự tăng trƣởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trƣớc đến nay.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và ngày nay trong công cuộc hội
nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: con ngƣời Việt Nam có truyền thông yêu
nƣớc, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh
khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
Đứng trƣớc những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực, vấn đề đào
tạo công nhân lành nghề đáp ứng nhu cầu của xã hội đang trở thành vấn đề quan
trọng và cấp bách của các cơ sở dạy nghề và của các doanh nghiệp. Đào tạo nghề
trong doanh nghiệp góp phần giữ vai trò then chốt trong phát huy nguồn nhân lực
của đất nƣớc, tạo ra những ngƣời lao động có khả năng thích ứng với mọi dịch
chuyển của cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trƣờng, sức lao động là hàng hóa, quan hệ
giữa ngƣời lao động với ngƣời sử dụng lao động là quan hệ trao đổi sử dụng giá trị
sức lao động. Những lợi ích đối lập giữa NLĐ và NSDLĐ sẽ trở thành những mâu
thuẫn, bất đồng nếu hai bên không dung hòa đƣợc quyền lợi của nhau. Do vậy,
tranh chấp lao động kể cả trong quan hệ đào tạo nghề xảy ra là điều dễ nhận thấy.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, khi các tranh chấp lao động
phát triển cả về số lƣợng, quy mô và hình thức thì các tranh chấp lao động cá nhân
về đào tạo nghề theo đó cũng tăng nhanh ở hầu hết các thành phần kinh tế. Nếu có
một cơ chế giải quyết tranh chấp lao động cá nhân thích hợp, thấu đáo thì chỉ có tại
hệ thống Tòa án nhân dân. Đây là con đƣờng giải quyết tranh chấp không chỉ bảo vệ
đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân ngƣời lao động mà còn góp phần củng
cố, bảo vệ các quan hệ sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển.
2
Cùng với những nỗ lực của Nhà nƣớc và các nhà làm luật, các quy định của
pháp luật về tranh chấp và giải quyết tranh chấp lao động cá nhân về đào tạo nghề
tại tòa án đã đạt đƣợc hoàn thiện đáng kể, tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết, phần nào
đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
đƣợc thì việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân về đào tạo nghề tại tòa án trong
thực tế hiện nay còn gặp một số vƣớng mắc mà nguyên nhân chính xuất phát từ
những thiếu sót, mâu thuẫn của các quy định pháp luật. Mặt khác, hệ thống cơ quan
tòa án đôi khi vẫn còn lúng túng, sai sót trong việc giải quyết nên trong nhiều
trƣờng hợp quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động vẫn chƣa đƣợc bảo vệ.
Do vậy, việc nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn về tranh
chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động cá nhân về đào tạo nghề nói
riêng nhằm khắc phục những điểm yếu, những điểm không phù hợp với tình hình
thực tế đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của các bên tham gia quan hệ đào
tạo nghề. Đây là một vấn đề cấp bách đặt ra cho cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền và cũng là một nội dung quan trọng để các nhà làm luật hết sức quan tâm.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài: "Pháp luật
đào tạo nghề và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân quận 10,
quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh" để hoàn thiện các quy định của pháp
luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân về đào tạo nghề tại tòa án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có nhiều công trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh chấp
lao động nói chung và giải quyết tranh chấp lao động cá nhân nói riêng nhƣ:
- Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Xuân Thu "Cơ chế ba bên
trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam" nhấn mạnh đến vai trò của
cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp, xây dựng các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả vận dụng cơ chế ba bên trong việc giải quyết
tranh chấp lao động;
- Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Công Bảy về "Pháp luật về thủ tục giải
quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án Việt Nam" năm 2011 là đề tài viết
3
khá chuyên sâu về cơ chế giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án đồng
thời đƣa ra hƣớng giải quyết những bất cập còn tồn tại trong việc giải quyết tranh
chấp lao động cá nhân tại Tòa án.
Bên cạnh đó còn một số luận văn thạc sĩ nhƣ: "Giải quyết tranh chấp lao
động tại Tòa án nhân dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Vũ Thị
Thu Hiền năm 2002; "Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tình
hình thực hiện tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh" của tác giả
Nguyễn Công Hợi năm 2012; "Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân - Một số bất cập và hướng hoàn thiện" của tác giả Ngô Thị Tâm năm 2012 tại
trƣờng Đại học Luật Hà Nội; luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Thị Hƣờng
về "Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt
Nam" năm 2012 tại Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội…
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài nghiên cứu về tranh chấp lao động nói chung
và tranh chấp lao động cá nhân nói riêng trên các tạp chí chuyên ngành nhƣ: đề tài
cơ bản cấp Đại học Quốc gia về "Tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp
lao động ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" năm 2005 của tác giả Lê
Thị Hoài Thu; "Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án - Một số bất
cập và hướng hoàn thiện" của tác giả Lê Thị Hoài Thu; "Tranh chấp lao động và
giải quyết tranh chấp lao động", Đặc san tuyên truyền pháp luật số 02/2014 của tác
giả Vũ Thu Hiền; "Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - Từ pháp
luật đến thực tiễn và một số kiến nghị".
Bên cạnh những bài viết, còn có những cuộc hội thảo, hội nghị bàn về tranh
chấp lao động, tiêu biểu nhƣ hội nghị “Bàn về biện pháp giải quyết tranh chấp lao
động, đình công”, tổ chức tháng 2/2002 tại Bình Dƣơng do Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam chủ trì. Nhƣ vậy, để giải quyết tranh chấp lao động nói chung, giải
quyết tranh chấp lao động cá nhân nói riêng đã đƣợc đề cập ở nhiều công trình
nghiên cứu khác nhau đƣợc nhìn nhận dƣới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, dựa
trên quan sát cá nhân của tác giả thì hiện nay chƣa có một công trình nghiên cứu
riêng, độc lập về pháp luật giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề tại Tòa án và
4
thực tiễn xét xử ở một Tòa án cụ thể. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài " Pháp luật
đào tạo nghề và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân quận 10 - quận
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với
mong muốn bổ sung mới cũng nhƣ góp phần hoàn thiện hơn về cơ chế giải quyết
tranh chấp lao động nói chung và giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề tại Tòa án
nói riêng, qua đó nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về nội dung này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận
về tranh chấp đào tạo nghề tại Tòa án. Đánh giá các quy định của pháp luật về việc
giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề tại Tòa án qua đó thấy đƣợc những điểm đã
đạt đƣợc và những điểm còn bất cập để có thể đƣa ra phƣơng hƣớng, giải pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với việc giải quyết tranh chấp
về đào tạo nghề tại Tòa án.
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đào tạo nghề cũng nhƣ pháp luật về
đào tạo nghề.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết
tranh chấp về đào tạo nghề tại Tòa án, đặt trong mối quan hệ với các quy định pháp
luật trƣớc đó cũng nhƣ thực tiễn giải quyết tại TAND quận 10 và quận Thủ Đức
- Nghiên cứu về các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề
cũng nhƣ giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề tại tòa án. Đồng thời đƣa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đào tạo nghề tại TAND quận 10
và quận Thủ Đức.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đào tạo nghề là một lĩnh vực rộng gồm nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể
khác nhau và mục đích khác nhau. Luận văn này chủ yếu nghiên cứu đào tạo nghề
cũng nhƣ tranh chấp về đào tạo nghề dƣới góc độ của luật lao động và tập trung vào
mối quan hệ về đào tạo nghề giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động với
mục tiêu ngƣời lao động làm việc cho doanh nghiệp ( tức là đào tạo nghề gắn với
5
quan hệ lao động). Vì vậy những quan hệ đào tạo nghề giữa ngƣời học nghề với cơ
sở dạy nghề đơn thuần sẽ không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu các quy phạm pháp luật về giải quyết
tranh chấp lao động tại tòa án nhân dân theo BLTTDS năm 2015, và thực tiễn áp
dụng giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân quận 10 và quận Thủ
Đức trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và pháp luật, về quyền con ngƣời và quyền công
dân trong xã hội, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu và các
bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học Việt Nam.
Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ về
mặt khoa học từng vấn đề tƣơng ứng, đó là các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ:
phƣơng pháp luận, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu….
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn có những đóng góp mới về khoa
học và ý nghĩa thực tiễn sau đây:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện hơn những vấn đề về mặt lý
luận về đào tạo nghề và giải quyết tranh chấp lao động về đào tạo nghề tại Tòa án
nhân dân.
- Luận văn phân tích và đánh giá một cách tƣơng đối toàn diện quy định của
pháp luật về đào tạo nghề và giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề tại Tòa án nhân dân.
- Luận văn đánh giá đƣợc thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp
lao động về đào tạo nghề tại Tòa án nhân dân quận 10 và quận Thủ Đức.
- Luận văn đƣa ra đƣợc một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đào
tạo nghề, giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề tại TAND, đồng thời đƣa ra đƣợc
một số biện pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp về đào
tạo nghề tại TAND quận 10 và quận Thủ Đức.
6
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về đào tạo nghề và pháp luật về đào tạo nghề;
Chƣơng 2: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đào tạo nghề tại tòa án và thực tiễn giải
quyết tại tòa án nhân dân quận 10 và quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp đào tạo
nghề tại tòa án và các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về đào tạo
nghề tại TAND quận 10 và quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh
7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của đào tạo nghề
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm nghề: “Nghề” là thuật ngữ để chỉ một hình thức lao động sản xuất
trong xã hội. Tuy nhiên cũng có rất nhiều quan niệm về thuật ngữ này. Tác giả
E.A.Klimov cho rằng: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất
và tinh thần của con ngƣời một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân
công lao động mà có). Nó tạo cho con ngƣời khả năng sử dụng lao động của mình
để thu lấy những phƣơng tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển”.1
Theo tác giả Nguyễn Hùng thì: “Những chuyên môn có những đặc điểm
chung, gần giống nhau được xếp thành một nhóm chuyên môn và được gọi là
nghề. Nghề là tập hợp của một nhóm chuyên môn cùng loại, gần giống nhau.
Chuyên môn là một dạng lao động đặc biệt, mà qua đó con người dùng sức
mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tượng
cụ thể nhằm biến đổi những đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu
và lợi ích của con người”.2
Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1998 định nghĩa nghề nhƣ sau: “Nghề là
công việc chuyên làm, theo sự phân công lao động của xã hội”.
Từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu Nghề là một dạng lao động vừa mang
tính xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (đáp ứng nhu cầu bản thân)
trong đó con ngƣời với tƣ cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn những yêu
cầu của xã hội và cá nhân.
Nghề nào cũng bao hàm trong đó một hệ thống giá trị kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo nghề nghiệp, hiệu quả do nghề mang lại. Nghề là cơ sở giúp con ngƣời có
“nghiệp”. Cũng có thể nói nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi con ngƣời phải
1
Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), Hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp và giảng dạy kỹ thuật
trong trƣờng THPT, Nxb Giáo dục, Hà Nội
2
Nguyễn Hùng, Sổ tay Tƣ vấn Hƣớng nghiệp và chọn Nghề, Nhà xuất bản Giáo dục, 2008, trang 11
8
trải qua một quá trình đào tạo chuyên biệt, bài bản để có những kiến thức chuyên
môn nhất định.
Ở một khía cạnh khác: Nghề là một lĩnh vực hoạt động mà trong đó, nhờ
đƣợc đào tạo, con ngƣời có đƣợc tri thức, kỹ năng, thái độ để làm ra các sản phẩm
vật chất hay tinh thần nhất định, đáp ứng những nhu cầu của xã hội. Còn chuyên
môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con ngƣời bằng năng lực thể
chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần với tƣ
cách là những phƣơng tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Khái niệm đào tạo nghề
Để có đƣợc các kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, ngƣời lao động cần phải
đƣợc dạy nghề và bản thân họ phải học tập và tích lũy. Quá trình dạy và học nghề
đó chính là quá trình đào tạo nghề cho ngƣời lao động.
Theo C.Mác công tác dạy nghề bao gồm các thành phần sau: Giáo dục trí
tuệ; giáo dục thể lực; dạy kỹ thuật nhằm giúp ngƣời học nắm vững những nguyên lý
cơ bản của tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng các công cụ sản xuất
đơn giản nhất.3 Lý luận C.Mác không đƣa ra định nghĩa cụ thể về đào tạo nghề mà
chỉ liệt kê các thành tố cấu thành nên hoạt động này.
Trƣớc tiên, đào tạo đƣợc hiểu là hoạt động học tập nhằm giúp cho ngƣời lao
động có thể thực hiện có hiệu quả hơn các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nói
một cách cụ thể đào tạo liên quan đến việc tiếp thu các kiến thức, kỹ năng đặc biệt,
nhằm thực hiện những công việc cụ thể một cách hoàn hảo hơn.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) không đƣa ra khái niệm đào tạo nghề mà
đƣa ra khái niệm dạy nghề. Theo đó dạy nghề đƣợc hiểu là cung cấp cho người học
những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan đến công việc
nghề nghiệp được giao”.4 Ở một số quốc gia trên thế giới, khái niệm đào tạo nghề
thƣờng đƣợc quy định tại Luật Dạy nghề hoặc Bộ luật lao động của quốc gia đó.
Nhƣ theo Luật Dạy nghề của Ðài Loan: “Dạy nghề là bao gồm việc đào tạo trƣớc
khi tham gia quan hệ lao động cho những ngƣời chƣa có việc làm và đào tạo trong
3
C.Mác Ph.Ăng-ghen, Tuyển tập xuất bản lần 2, tập 16 trang 198
/>
4
9
công việc cho những ngƣời đang có việc làm”. Nhƣ vậy theo quy định trên thì việc
dạy nghề của Ðài Loan là hoạt động đào tạo thực hiện trƣớc và trong quá trình
ngƣời lao động làm việc. Luật Dạy nghề của Hàn Quốc thì chỉ quan tâm tới đào tạo
nghề đối với những ngƣời lao động đang làm việc với mục đích nhằm nâng cao tay
nghề của họ: “Ðào tạo nghề là hoạt động đào tạo được thực hiện đối với người lao
động nhằm nâng cao khả năng thực hiện công việc của họ”.5 Bộ luật Lao động của
Pháp lại quan niệm đào tạo nghề có ý nghĩa rộng hơn. Đào tạo nghề là nghĩa vụ
quốc gia, mục đích giúp ngƣời lao động thích ứng với những thay đổi kỹ thuật và
điều kiện lao động, tiếp cận những trình độ văn hóa, nghề nghiệp khác nhau và giúp
cho sự đóng góp tích cực của ngƣời lao động vào sự phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội.6 Các quốc gia khác nhau về điều kiện lịch sử và thực tế phát triển tạo nên nhu
cầu xã hội về lĩnh vực đào tạo nghề khác biệt dẫn đến quan niệm về đào tạo nghề
không đồng nhất là điều dễ hiểu.
Còn tại Việt Nam, trong Tài liệu xuất bản năm 2002 của Bộ Lao động
Thƣơng binh và xã hội có quan niệm: “Đào tạo nghề là hoạt động nhằm trang bị
cho người lao động những kiến thức, kĩ năng và thái độ lao động cần thiết để người
lao động sau khi hoàn thành khóa học có thể thực hành một nghề trong xã hội”.7
Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực của trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân do Nhà
xuất bản Đại học kinh tế quốc dân xuất bản năm 2012 tuy không đƣa ra định nghĩa
về đào tạo nghề nhƣng lại đƣa ra định nghĩa về đào tạo nguồn nhân lực (khái niệm
gần với đào tạo nghề), theo đó,: “Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến
thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận
được một số việc nhất định”. Nhƣ vậy, đào tạo nghề không chỉ dừng lại ở trang bị
những kĩ năng cơ bản cho ngƣời lao động mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ
bản. Điều này thể hiện tính nhân văn, đề cao ngƣời lao động ngay trong quan niệm
về lao động chứ không đơn thuần chỉ coi lao động là nguồn “vốn nhân lực”, coi
công nhân là phƣơng tiện sản xuất.
5
Hàn Quốc (1997), Luật Dạy nghề Hàn Quốc (số 5474 ngày 24/12/1997, đƣợc sửa đổi, bổ sung bằng Luật
6455 ngày 28/3/2001)
6
Vãn phòng dự thảo Bộ Luật lao ðộng (2010), “Một số tài liệu pháp luật lao ðộng nýớc ngoài”
7
Bộ Lao động thƣơng binh và xã hội, Tài liệu xuất bản năm 2002
10
Luật giáo dục nghề nghiệp năm 2014 đƣa ra định nghĩa: “Đào tạo nghề
nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp”.8 Khái niệm này
khá hợp lý vì đã nêu đƣợc các hoạt động trong đào tạo nghề đó là hoạt động dạy và
học nghề, nội dung liên quan đến việc trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề
nghiệp và mục đích là giúp ngƣời học nghề có thể tìm đƣợc việc làm hoặc giúp họ
nâng cao trình độ nghề nghiệp.
Đào tạo nghề là hoạt động phong phú nên đƣợc thực hiện dƣới nhiều hình
thức và các mối quan hệ khác nhau. Đó có thể là quan hệ giữa cơ sở hoạt động giáo
dục nghề nghiệp và ngƣời học thông qua hình thức tuyển sinh theo chỉ tiêu tuyển
sinh do cơ quan quản lý nhà nƣớc về giáo dục nghề nghiệp ở trung ƣơng quy định
(đối với hình thức đào tạo chính quy)9 hoặc thông qua hợp đồng đào tạo giữa ngƣời
đứng đầu cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp, lớp đào tạo nghề, tổ chức, cá nhân
với ngƣời học (đối với hình thức đào tạo thƣờng xuyên)10. Trong trƣờng hợp đặc
biệt, quan hệ học nghề là quan hệ giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động
khi doanh nghiệp tuyển ngƣời vào đào tạo để làm việc cho mình, hình thành trên cơ
sở hợp đồng đào tạo11. Nhƣ vậy, không phải trong mọi trƣờng hợp, quan hệ đào tạo
nghề đều có mục tiêu hƣớng đến quan hệ lao động và liên quan đến việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ lao động giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động.
Dƣới góc độ của luật lao động, luận văn này sẽ chủ yếu tập trung nghiên cứu quan
hệ đào tạo nghề giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động.
1.1.2. Đặc điểm của đào tạo nghề
Đào tạo nghề trƣớc hết là hoạt động đào tạo nên cũng có những đặc điểm của
đào tạo nói chung. Tuy nhiên vì là hoạt động đào tạo nghề nên bên cạnh các đặc
điểm chung đó, đào tạo nghề còn có những đặc điểm riêng sau đây:
8
Khoản 2 Điều 3 Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014
Điều 32 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014
10
Điều 39 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014
11
Khoản 1 Điều 39 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014
9
11
- Đào tạo nghề là hình thức đào tạo cung cấp cho ngƣời lao động kỹ năng,
kiến thức và thái độ lao động phù hợp với nghề nghiệp..
Kiến thức là những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng ngƣời lao động
có đƣợc nhờ trải nghiệm trƣớc đó hay thông qua giáo dục. Nó cũng có thể chỉ sự
hiểu biết của ngƣời lao động về một đối tƣợng nhất định bao gồm cả lý thuyết hay
thực hành liên quan đến quá trình lao động.
Kỹ năng là năng lực hay khả năng của ngƣời lao động có thể thực hiện thuần
thục một hay một chuỗi các hoạt động dựa trên cơ sở hiểu biết, kiến thức hoặc kinh
nghiệm đã tích lũy đƣợc nhằm tạo ra kết quả lao động mong đợi. Có rất nhiều loại
kỹ năng nghề nghiệp tƣơng ứng với lĩnh vực nghề nhất định nhƣ: Kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng logic, kỹ năng quản lý…
Cuối cùng, thái độ là những phát biểu hay những đánh giá có giá trị về sự
vật, sự việc của ngƣời lao động. Thái độ phản ánh ngƣời lao động cảm thấy nhƣ thế
nào về một vấn đề nào đó liên quan đến quá trình lao động.
Ba yếu tố này hƣớng tới mục tiêu giúp ngƣời đƣợc đào tạo có khả năng đảm
đƣơng đƣợc một hoặc một số công việc nhất định trong doanh nghiệp, có những kỹ
năng nghề nghiệp tƣơng ứng nhất định, tạo cho doanh nghiệp nguồn nhân lực chất
lƣợng cao, đáp ứng yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp.
- Đào tạo nghề nhằm mục đích đáp ứng nguồn nhân lực cho hoạt động sản
xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp không thể hoạt động kinh doanh và phát triển bình
thƣờng nếu thiếu các nhân tố cần thiết nhƣ nguồn tài chính, cơ sở vật chất kỹ
thuật, nguồn lực công nghệ… nhƣng nguồn nhân lực lại là vấn đề quan trọng hơn
cả. Nguồn nhân lực là những đòi hỏi về trình độ cũng nhƣ năng lực để thực sự
trở thành đơn vị cấu thành chất xám trong kết quả sản xuất và hoạt động của
doanh nghiệp. Đây là nhân tố chủ yếu tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp: Nguồn
nhân lực đảm bảo nguồn sáng tạo trong tổ chức. Chỉ có con ngƣời mới sáng tạo
ra các hàng hoá, dịch vụ và kiểm tra đƣợc quá trình sản xuất kinh doanh đó...
Mặc dù trang thiết bị, tài sản, nguồn tài chính là những nguồn tài nguyên mà các
tổ chức đều cần phải có, nhƣng trong đó tài nguyên nhân văn - con ngƣời lại đặc
12
biệt quan trọng. Không có những con ngƣời làm việc hiệu quả thì tổ chức đó
không thể nào đạt tới mục tiêu.
Trong quá trình dạy học, ngƣời học muốn nắm đƣợc nội dung nghề nghiệp
thì phải trực tiếp chứng kiến quá trình sản xuất. Ðào tạo nghề trong doanh nghiệp
nói riêng cũng nhƣ đào tạo nghề nói chung là đào tạo thực hành sản xuất. Mục tiêu
quan trọng nhất của đào tạo nghề là sau khi đƣợc đào tạo ngƣời học có thể trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy trong quá
trình đào tạo kỹ năng thực hành nghề phải đƣợc doanh nghiệp đặc biệt quan tâm.
Ðiều này đƣợc thể hiện rất rõ trong nội dung, phƣơng pháp và thời gian đào tạo.
Trong nội dung đào tạo có cả lý thuyết và thực hành nhƣng thời gian thực hành bao
giờ cũng phải dài hơn, trong quá trình đào tạo ngƣời học đƣợc tham gia trực tiếp
vào quá trình sản xuất nên họ cũng có thể tạo ra sản phẩm, hoặc góp phần tạo ra sản
phẩm nên họ phải đƣợc doanh nghiệp trả công tƣơng xứng.
- Hoạt động đào tạo nghề diễn ra dƣới nhiều hình thức vô cùng đa dạng,
phong phú: Theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, mục tiêu của
hoạt động dạy và học nghề là đào tạo các trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình
độ cao đẳng và các chƣơng trình đào tạo nghề nghiệp khác cho ngƣời lao động. Bởi
hình thức tổ chức, quy mô, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế
cũng vô cùng phong phú cho nên với mỗi trƣờng hợp, điều kiện hoạt động của
doanh nghiệp cụ thể lại tƣơng ứng với hình thức đào tạo phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả đào tạo cao nhất cho doanh nghiệp.
1.1.3. Ý nghĩa đào tạo nghề
Ngƣời lao động luôn là yếu tố hàng đầu của sự nghiệp tăng trƣởng và phát
triển của mỗi doanh nghiệp nói riêng cũng nhƣ nền kinh tế nói chung, đặc biệt trong
điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngày nay. Để có nguồn nhân
lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trƣởng và phát triển
kinh tế, mỗi doanh nghiệp phải coi việc đầu tƣ đào tạo nghề là một trong những
hƣớng chính của đầu tƣ phát triển. Việt Nam đang bƣớc vào quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa nền kinh tế, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ và
đƣợc ứng dụng rộng rãi trong sản xuất cũng nhƣ đời sống xã hội. Chính vì vậy đào
13
tạo nghề trong doanh nghiệp có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết không chỉ đối
với bản thân mỗi doanh nghiệp, mà còn có ý nghĩa thiết yếu đối với ngƣời lao động
cũng nhƣ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
- Đối với Nhà nước, ý nghĩa của hoạt động đào tạo nghề tác động tới từng
khía cạnh cấu thành nên sự phát triển, tồn tại của một quốc gia đó là: nền kinh tế,
đời sống văn hóa xã hội.
Đối với nền kinh tế, thì về mặt lý thuyết, các lý thuyết tăng trƣởng gần đây
chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trƣởng nhanh và bền vững phải dựa trên ít
nhất ba trụ cột cơ bản: (i) áp dụng công nghệ mới, (ii) phát triển hạ tầng cơ sở hiện
đại và (iii) nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất
của sự tăng trƣởng kinh tế bền vững chính là những con ngƣời đƣợc đào tạo, đặc
biệt là nhân lực có kỹ năng nghề cao. Trong bối cảnh các nguồn lực tự nhiên và
nguồn lực khác là hữu hạn, ngày càng có nguy cơ cạn kiệt thì nguồn nhân lực có
chất lƣợng chính là vũ khí mạnh mẽ nhất để giành thắng lợi trong cạnh tranh giữa
các nền kinh tế. Nguồn nhân lực chất lƣợng cao, là những con ngƣời đƣợc đầu tƣ
phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo (nói
cách khác, đó chính là năng lực thực hiện của nguồn nhân lực). Năng lực thực hiện
này chỉ có đƣợc thông qua đào tạo nghề và tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm
việc. Tuy nhiên, ngay cả việc tích lũy kinh nghiệm này cũng dựa trên nền tảng là
đào tạo nghề nghiệp cơ bản. Nhƣ vậy, đào tạo nghề nghiệp giữ vai trò quyết định
đối với việc hình thành và phát triển năng lực thực hiện của con ngƣời. Trên cơ sở
năng lực này, ngƣời lao động có khả năng thích ứng đƣợc với những thay đổi của
công nghệ và nền kinh tế (cả tích cực và tiêu cực), điều này góp phần nâng cao năng
suất lao động, tăng trƣởng kinh tế bền vững.
Về vấn đề an sinh xã hội, vai trò của đào tạo nghề tác động trực tiếp tới đảm
bảo an sinh xã hội, nhất là đối với nhóm lao động nông thôn, lao động nghèo.
Thông qua việc trang bị các kiến thức, kỹ năng tối thiểu về nghề nghiệp từ các khoá
đào tạo ngắn hạn, ngƣời lao động nông thôn, nông dân đã có khả năng tìm kiếm
đƣợc việc làm, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, thoát đƣợc nghèo một
14
cách bền vững. Thông qua các khoá đào tạo, ngƣời nông dân đƣợc trang bị những
kiến thức về khởi sự doanh nghiệp, mạnh dạn theo hƣớng sản xuất hàng hoá, thu hút
thêm lao động tại địa phƣơng vào làm việc. Ðây chính là sự tác động rõ nhất, trực
tiếp nhất của đào tạo nghề đối với an sinh xã hội ở nông thôn nƣớc ta.
Ngoài ra, một trong những nguyên lý cơ bản của ASXH là thực hiện phân
phối lại theo chiều dọc và theo chiều ngang. Phân phối theo chiều dọc là phân phối
giữa thế hệ này với thế hệ khác; phân phối giữa nhóm ngƣời này với nhóm ngƣời
khác theo thời gian (giữa nhóm có thu nhập cao và nhóm có thu nhập thấp; giữa
ngƣời trẻ và ngƣời già…); thậm chí là phân phối lại của chính một ngƣời theo thời
gian. Phân phối theo chiều ngang là phân phối giữa các nhóm xã hội trong cùng một
thời gian… Chính nguyên lý này của ASXH là nền tảng để góp phần thực hiện công
bằng xã hội, góp phần giảm chênh lệch về khoảng cách thu nhập và các điều kiện
sống giữa các nhóm dân cƣ, giữa các vùng miền. Tuy nhiên, để thực hiện đƣợc sự
phân phối này, ngƣời lao động phải có đƣợc thu nhập và phải tăng tỷ lệ ngƣời có
thu nhập cao. Trong bối cảnh kinh tế thị trƣờng, thu nhập cao chỉ có thể có đƣợc
một cách bền vững, khi ngƣời lao động đƣợc trang bị những kỹ năng nghề nghiệp
và kỹ năng thích ứng (kỹ năng mềm) cần thiết.
Đào tạo nghề tạo ra sự “tranh đua” xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt
trên thị trƣờng lao động, những ngƣời học vấn thấp, những ngƣời kỹ năng, tay nghề
thấp hoặc không có nghề khó có thể cạnh tranh đƣợc so với những ngƣời có trình
độ, có kỹ năng nghề cao. Khi đó, họ sẽ trở thành nhóm ngƣời “yếu thế” trong thị
trƣờng lao động. Họ phải làm những việc có thu nhập thấp, thậm chí không kiếm
đƣợc việc làm, trở thành ngƣời thất nghiệp dài hạn. Mặc dù ở những nƣớc phát triển
có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp hoặc các loại trợ cấp xã hội, nhƣng dù sao, những
trợ cấp đó chỉ mang tính tức thời. Nhƣng nếu những ngƣời này không tự tạo cho họ
năng lực, nâng cao “vốn nhân lực” của mình thì sớm hay muộn, họ cũng lại bị “bật”
ra khỏi thị trƣờng lao động. Muốn thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, những ngƣời này
phải nâng cao “vốn nhân lực” của mình và hiệu quả nhất là đầu tƣ vào đào tạo nghề.
Ðây, một lần nữa lại khẳng định vai trò của đào tạo nghề trong việc đảm bảo
an sinh xã hội ở nƣớc ta. Nhà nƣớc, với tƣ cách là ngƣời quản lý xã hội, cần phải
15
làm cho nhiều ngƣời, nhất là lao động nông thôn, lao động nghèo… tiếp cận đƣợc
với các dịch vụ đào tạo nghề, khi đó “mặt bằng” thu nhập của ngƣời dân đƣợc nâng
lên và ngƣời dân có thể tham gia vào quá trình phân phối tốt hơn. Qua đó nhà nƣớc
và xã hội có điều kiện thực hiện “mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội,
nhất là đối với các đối tƣợng khó khăn”, góp phần đảm bảo an sinh xã hội của quốc
gia nhiều hơn.
- Đối với doanh nghiệp, trƣớc hết đào tạo nghề trong doanh nghiệp phục vụ
cho nhu cấp đáp ứng trình độ của công việc, vị trí đòi hỏi hay nói cách khác là để
đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp mới
thành lập với những máy móc, thiết bị mới, hiện đại đòi hỏi ngƣời lao động phải có
trình độ mới có thể vận hành đƣợc, do đó phải đào tạo họ trong thời gian cấp bách
đủ đáp ứng cho tiến độ hoạt động của doanh nghiệp. Ngƣợc lại, đối với một công ty
đã tồn tại lâu đời với bản phân tích công việc, mô tả công việc chi tiết thì vấn đề đào
tạo lúc này là đào tạo lại những lao động cũ hoặc đào tạo mới cho nhân viên mới
đƣợc tuyển vào hoặc nhân viên cũ làm công việc mới. Phƣơng cách tốt nhất là đào
tạo ngƣời lao động của mình sao cho theo kịp tiến độ phát triển nhanh chóng của
thời đại, để đào tạo nghề trong doanh nghiệp là cơ sở giúp doanh nghiệp tạo lợi thế
cạnh tranh cho mình.
Khi ngƣời lao động đã đủ trình độ để thực hiện công việc của mình, họ sẽ
làm tăng năng suất lao động, nâng cao ý thức hành vi lao động của mình, giúp
doanh nghiệp giảm bớt đƣợc số lƣợng cán bộ giám sát trong bộ phận giám sát và
làm giảm các chi phí cho tổ chức.
Nhƣ vậy, đào tạo nghề trong doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
hoạt động cũng nhƣ sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đối với một tổ chức
thì quan hệ giữa tổ chức đó với ngƣời lao động sẽ đƣợc cải thiện, gắn kết với nhau
hơn, nâng cao tính ổn định và năng động của doanh nghiệp, thỏa mãn mong muốn
cao nhất của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận của mình.
- Đối với người lao động: Khi đã đƣợc đào tạo nghề họ sẽ làm việc với tinh
thần tự tin hơn vào tay nghề của mình. Bởi mục đích của đào tạo là củng cố và nâng
16
cao trình độ tay nghề của ngƣời lao động để đáp ứng nhu cầu công việc, tạo ra tính
chuyên nghiệp cho họ. Nói tóm lại, ngƣời lao động đƣợc trang bị thêm kiến thức tạo
ra sự thích ứng với công việc mà doanh nghiệp yêu cầu cũng nhƣ trong tƣơng lai.
Ngƣời lao động sẽ nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của mình trong tổ chức, từ đó
tạo ra một sợi dây liên kết vô hình gắn kết giữa họ với doanh nghiệp. Điều quan
trọng là nó sẽ tạo ra động lực làm việc - là cơ sở đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng
phát triển của họ. Đào tạo và phát triển tạo ra cho ngƣời lao động cách nhìn đúng
đắn, tƣ duy mới trong công việc của họ và cũng là cơ sở phát huy tính sáng tạo của
ngƣời lao động hoạt động làm nghề.
1.2. Phân loại đào tạo nghề
Dƣới góc độ hoạt động đào tạo nghề trong doanh nghiệp có thể phân loại đào
tạo nghề theo các tiêu chí sau đây:
Căn cứ vào nội dung đào tạo có hai hình thức:
- Đào tạo định hƣớng công việc: đây là hình thức đào tạo về kỹ năng thực
hiện loại công việc nhất định, nhân viên có thể sử dụng kỹ năng này để làm việc
trong những doanh nghiệp khác nhau.
- Đào tạo định hƣớng doanh nghiệp: đây là hình thức đào tạo về các kỹ năng,
cách thức, phƣơng pháp làm việc điển hình trong doanh nghiệp. Khi nhân viên chuyển
sang doanh nghiệp khác, kỹ năng đào tạo đó thƣờng không áp dụng đƣợc nữa.
Việc định hƣớng và huấn luyện cho các nhân viên đóng vai trò rất quan
trọng, quyết định đến hiệu quả làm việc của đội ngũ nhân viên, giữ họ ở lại lâu dài
với doanh nghiệp và đem đến sự thỏa mãn cho khách hàng của doanh nghiệp.
Căn cứ theo mục đích của nội dung đào tạo, có các hình thức: đào tạo,
hƣớng dẫn công việc cho nhân viên; đào tạo, huấn luyện kỹ năng; đào tạo kỹ thuật
an toàn lao động; đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật; đào tạo và
phát triển các năng lực quản trị,v.v...
- Đào tạo, hƣớng dẫn (hoặc định hƣớng) công việc cho nhân viên nhằm cung
cấp các thông tin, kiến thức mới và các chỉ dẫn cho nhân viên mới tuyển về công
việc và doanh nghiệp, giúp cho nhân viên mới mau chóng thích nghi với điều kiện,
cách thức làm việc trong doanh nghiệp mới.
17
- Đào tạo, huấn luyện kỹ năng nhằm giúp cho nhân viên có trình độ lành
nghề và các kỹ năng phù hợp để thực hiện công việc theo yêu cầu.
- Đào tạo kỹ thuật an toàn lao động hƣớng dẫn nhân viên cách thức thực hiện
công việc an toàn, nhằm ngăn ngừa các trƣờng hợp tai nạn lao động. Đối với một số
công việc nguy hiểm, có nhiều rủi ro nhƣ công việc của thợ hàn, thợ lặn, thợ xây,
thợ điện .v.v... hoặc tại một số doanh nghiệp thƣờng có nhiều rủi ro nhƣ trong
ngành xây dựng, khai thác quặng, luyện kim .v.v... đào tạo kỹ thuật an toàn lao
động là yêu cầu bắt buộc và nhân viên nhất thiết phải tham dự các khoá đào tạo an
toàn lao động và ký tên vào sổ an toàn lao động trƣớc khi làm việc.
- Đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật thƣờng đƣợc tổ chức
định kỳ nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật cập nhật với các kiến
thức, kỹ năng mới.
- Đào tạo và phát triển các năng lực quản trị nhằm giúp cho các quản trị gia
đƣợc tiếp xúc, làm quen với các phƣơng pháp làm việc mới, nâng cao kỹ năng thực
hành và các kinh nghiệm tổ chức quản lý và khuyến khích nhân viên trong doanh
nghiệp. Chƣơng trình thƣờng chú trọng vào các kỹ năng thủ lĩnh, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng phân tích và ra quyết định.
Căn cứ vào đối tượng đào tạo gồm có:
- Đào tạo mới là áp dụng đối với các ngƣời lao động phổ thông, chƣa có trình
độ lành nghề mặc dù ngƣời lao động có thể mới lần đầu đi làm việc hoặc đã đi làm
việc nhƣng chƣa có kỹ năng để thực hiện công việc.
- Đào tạo lại là đào tạo đối với những lao động đã có kỹ năng, trình độ lành
nghề nhƣng cần đổi nghề do yêu cầu của doanh nghiệp.
- Đạo tạo nâng cao trình độ lành nghề là đào tạo cho những ngƣời đã có nghề
nhƣng tiến tới nâng cao chuyên môn của họ để họ có khả năng làm đƣợc những
công việc phức tạp hơn, yêu cầu trình độ cao hơn.
Theo địa điểm hoặc nơi đào tạo có hình thức: đào tạo tại nơi làm việc và đào
tạo ngoài nơi làm việc.
- Đào tạo tại nơi làm việc là doanh nghiệp: là hình thức đào tạo đƣợc thực
hiện trong doanh nghiệp, có thể là đào tạo trong chƣơng trình hội nhập nhân viên
18
mới nhƣ đào tạo về chuyên môn, về môi trƣờng làm việc của doanh nghiệp, cũng có
thể là đào tạo trong quá trình làm việc. Đây là hình thức đào tạo nhằm bổ sung,
nâng cao kiến thức, kỹ năng cho ngƣời lao động để họ có thể thực hiện tốt hơn công
việc hiện tại và tƣơng lai.
- Đào tạo ngoài nơi làm việc: đây là hình thức đào tạo và phát triển nhân lực
đƣợc thực hiện ở các tổ chức bên ngoài doanh nghiệp. Doanh nghiệp gửi ngƣời lao
động tham dự những khóa học do các trƣờng học, học viện ngoài doanh nghiệp tổ
chức, hoặc liên kết với các trung tâm đào tạo. Mục đích của nó cũng rất khác nhau
nhƣ: nâng cao trình độ, chuyển hƣớng kinh doanh… Nội dung đào tạo có thể là kiến
thức, chuyên môn, kỹ năng… Hình thức này có một số ƣu điểm nhƣ kiến thức đào
tạo mang tính hệ thống và có tầm bao quát cao, các tiếp cận mới mẻ tùy thuộc vào
phƣơng pháp đào tạo của các tổ chức đào tạo ngoài doanh nghiệp là khác nhau…
Tuy nhiên cũng có một số hạn chế về di chuyển, đi lại khi ngƣời đƣợc đào tạo buộc
phải tách rời công việc đang đảm nhận, điều này làm ảnh hƣởng tới thu nhập của
ngƣời lao động và cũng khiến nhà quản trị khó kiểm soát khi phải phụ thuộc vào
bên thứ ba…
1.3. Đào tạo nghề theo pháp luật một số nƣớc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trong xu thế hội nhập toàn cầu cùng với sự phát triển nhanh và mạnh của
khoa học công nghệ, thì không chỉ Việt Nam mà đa số các nƣớc trên thế giới đều
nhận thức tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề, nên đều quy định trong các
văn bản pháp luật để điều chỉnh về vấn đề này. Cụ thể pháp luật của một số nƣớc
quy định nhƣ sau:
Luật Dạy nghề của Ðài Loan quy định: “Ðào tạo trƣớc khi tham gia quan hệ
lao động cho những ngƣời chƣa có việc làm và đào tạo trong công việc cho những
ngƣời đang có việc làm. Phƣơng pháp thực hiện dạy nghề bao gồm đào tạo ban đầu,
đào tạo nghề, đào tạo nâng cao, đào tạo nghề và đào tạo cho những ngƣời tàn tật”.12
Còn theo Luật Dạy nghề của Hàn Quốc quy định rất chi tiết, cụ thể và có
nhiều điểm tiến bộ có thể áp dụng vào đƣợc với điều kiện hiện tại của Việt Nam.
12
Đài Loan (1983), Luật Dạy nghề Đài Loan (sửa đổi Điều 2 năm 2000, Điều 33 năm 2002)
19
Luật quan tâm rất nhiều tới các đối tƣợng khó khăn, cần việc làm....Theo Luật, trách
nhiệm xây dựng kế hoạch đào tạo là trách nhiệm của Bộ trƣởng Bộ Lao động. Ðào
tạo nghề ở Hàn Quốc đƣợc phân thành hai loại hình là đào tạo chuẩn và các loại đào
tạo khác. Trong đó đặc biệt quan tâm tới đào tạo nghề giải quyết việc làm cho ngƣời
thất nghiệp. Những tổ chức đào tạo nghề phải tiến hành đào tạo nghề để tìm việc
làm cho ngƣời thất nghiệp, cho những thanh niên không có điều kiện học cao hơn,
những ngƣời thuộc đối tƣợng hƣởng lợi theo quy định của Luật bảo đảm thu nhập
cơ bản, nông dân, ngƣ dân, ngƣời chuyển đổi sang nghề khác, những ngƣời đã và sẽ
xuất ngũ sau thời gian phục vụ quân đội, đào tạo nghề cho những ngƣời không nơi
nƣơng tựa nhằm giúp họ có thể tự nuôi dƣỡng bản thân”.13 Ðồng thời còn quan tâm
tới đào tạo các đối tƣợng là “những ngƣời thất nghiệp, những ngƣời bị mất việc làm
do điều chỉnh hay do thay đổi việc làm hoặc vì các lý do khác để họ đƣợc tuyển
dụng lại”. Ngoài ra, Luật Dạy nghề Hàn Quốc còn quy định: “Ngƣời đứng đầu các
cơ sở đào tạo nghề phải mở các khóa đào tạo đặc biệt để mở rộng cơ hội học nghề
cho những thanh niên không có điều kiện tiếp tục theo học các trƣờng phổ thông
bậc cao hơn, ngƣời tàn tật, ngƣời già, phụ nữ làm công việc nội trợ...”. Từ các quy
định trên có thể thấy Luật Dạy nghề Hàn Quốc rất quan tâm tới công tác đào tạo
nghề. Ngoài ra còn quan tâm “trợ giúp cho các hoạt động dạy nghề cho các công ty
để khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào hoạt động dạy
nghề”, trợ giúp cho việc phát triển kỹ năng nghề độc lập bằng cách “Bộ Trƣởng Bộ
Lao động sẽ cho họ vay hoặc trợ cấp chi phí đào tạo để ngƣời lao động sau khi đƣợc
tuyển dụng vào làm việc cố gắng cải thiện và nâng cao năng lực nghề nghiệp của
mình”. Nguồn tài chính để thực hiện việc trợ giúp và cho vay để hoạt động dạy
nghề đƣợc trích từ Quỹ Bảo đảm việc làm theo Luật Bảo đảm việc làm của Hàn
Quốc. Cùng với các quy định trên về các chính sách đối với đào tạo nghề, phƣơng
pháp đào tạo nghề Hàn Quốc còn quy định chính sách báo cáo và thanh tra về công
tác đào tạo nghề: “Khi cần thiết, Bộ trƣởng Bộ Lao động có thể đề nghị các cơ sở
đào tạo nghề nộp các tài liệu, báo cáo để thanh tra các tài liệu có liên quan”. Ðồng
13
Điều 16, Hàn Quốc (1997), Luật Dạy nghề Hàn Quốc (số 5474 ngày 24/12/1997, đƣợc sửa đổi, bổ sung
bằng Luật 6455 ngày 28/3/2001)