Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thực tiễn thi hành tại tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MAI NGUYỄN PHƢƠNG DUNG

VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MAI NGUYỄN PHƢƠNG DUNG

VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 6038107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh


HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN

PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mai Nguyễn Phƣơng Dung


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Hội

Hội bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng

NTD

Người tiêu dùng

UBND

Ủy ban nhân dân



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM .............................................................................................................. 6
1.1. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và vai trò các
thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .......................... 6
1.1.1. Khái quát pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .................. 6
1.1.2. Vai trò của các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp
luật Việt Nam............................................................................................... 12
1.2. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ở Việt Nam ............................................................................................. 24
1.2.1. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở
trung ương ................................................................................................... 24
1.2.2. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở địa
phương......................................................................................................... 27
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TẠI TỈNH SƠN LA .............................................................................................. 32
2.1. Giới thiệu những đặc thù trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở
tỉnh Sơn La ...................................................................................................... 32
2.2. Cơ sở pháp lý và trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước
về bảo vệ người tiêu dùng tại Sơn La ............................................................. 34
2.2.1. Trách nhiệm, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp ................... 34

2.2.2. Đơn vị giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ........................................................................................... 36


2.3. Thực trạng pháp luật về vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh
Sơn La ............................................................................................................. 39
2.3.1. Thực trạng pháp luật về vai trò của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương ...................... 39
2.3.2. Thực trạng pháp luật về vai trò của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và
Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại
tỉnh Sơn La .................................................................................................. 49
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác thực thi pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ................................................................ 53
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TẠI TỈNH SƠN LA ............................ 57
3.1. Các giải pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ........................................... 57
3.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ............................................................................................................. 57
3.1.2. Xây dựng chương trình mang tầm chiến lược quốc gia về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ........................................................................... 59
3.1.3. Tăng cường phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức trong
nước và quốc tế ........................................................................................... 59
3.1.4. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong việc kiểm tra hoạt động thực thi pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ................................................................ 61
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hoạt động của cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở tỉnh Sơn La ........................... 61

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và mở cửa
thị trường, vì vậy người tiêu dùng ngày càng có thêm nhiều cơ hội lựa chọn
hàng hóa và dịch vụ nhưng đồng thời cũng đối mặt với nhiều rủi ro từ nguy
cơ sử dụng hàng hóa, dịch vụ thiếu an toàn, không đạt tiêu chuẩn, đặc biệt là
thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm. Ngày càng có thêm nhiều vụ việc vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng bị phát hiện. Tính riêng trên địa bàn tỉnh Sơn La,
trong năm 2015 lực lượng quản lý thị trường đã tiến hành xử phạt vi phạm
1.053 vụ liên quan đến các lĩnh vực hàng không rõ nguồn gốc, hàng giả, hàng
kém chất lượng và gian lận thương mại với tổng giá trị thu phạt là trên 5,4 tỷ
đồng1. Hiện trạng đó cho thấy, quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam nói
chung và người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng đang bị xâm
phạm nghiêm trọng. Tuy vậy, nhiều người tiêu dùng hiện nay chưa biết đến
các quyền và nghĩa vụ của mình nên khi quyền lợi bị xâm phạm họ không biết
cách để tự bảo vệ mình. Đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa
dịch vụ, trong nhiều trường hợp đã vì mục tiêu lợi nhuận mà bỏ qua nghĩa vụ
tuân thủ pháp luật và trách nhiệm xã hội của mình.
Trong bối cảnh đó, sự hiện diện của chính sách pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng nói chung và hệ thống các quy định của pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng, với ý nghĩa là rào chắn an toàn
cho những thỏa thuận không công bằng hoặc sự áp đảo của một bên là vô
cùng quan trọng và cần thiết. Về lâu dài, việc thực thi những quy định pháp
luật nói trên không chỉ mang lại lợi ích cho cộng đồng người tiêu dùng, tức là

toàn thể nhân dân Việt Nam, mà còn góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất,
lưu thông hàng hóa và phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng một nền kinh tế
phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Đảng, Nhà
nước coi là một trong những vấn đề quan trọng trên con đường hội nhập kinh
1

Sở Công thương Sơn La (2015), Báo cáo Kết quả triển khai công tác bảo vệ quyền lợi NTD năm 2015, tr.3.


2

tế quốc tế và phát triển bền vững của đất nước. Chính vì vậy, Việt Nam đã
xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng được đánh giá là nhanh và đồng bộ so với nhiều hệ
thống văn bản pháp luật khác, góp phần tạo một hành lang pháp lý vững chắc
cho hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam. Mặt khác, để
đảm bảo hệ thống các quy định pháp luật nêu trên được thực thi nghiêm chỉnh
và thống nhất trên thực tế, Việt Nam cũng đã thừa nhận sự hiện diện của các
thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong đó có hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ
Trung ương đến địa phương, giữ chức năng thống nhất quản lý Nhà nước về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ở Việt Nam nói chung và tại Sơn La nói riêng, em xin lựa chọn đề tài
“Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 và các văn bản hướng dẫn

thi hành mới ra đời và có hiệu lực trong một thời gian ngắn, vì vậy việc
nghiên cứu vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng tại Việt Nam nói chung và Sơn La nói riêng chưa được quan tâm
một cách thỏa đáng. Quá trình tìm hiểu tình hình nghiên cứu của đề tài“Vai
trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La”, em nhận thấy hiện đã có một số công
trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nêu trên, đó là:
- Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Việt Nam, đề tài khoa học cấp bộ của Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp do PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh làm chủ nhiệm đề tài năm 2014.
- Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đề tài khoa học cấp bộ/ Bộ Tư pháp, Viện
Khoa học pháp lý do Đinh Thị Mai Phương làm chủ nhiệm đề tài năm 2008.


3

- Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống các
cơ quan nhà nước tại Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học của học viên
Nguyễn Hoàng Mỹ Linh, do TS. Phan Chí Hiếu hướng dẫn năm 2014;
- Trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
bài viết trên Tạp chí Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội, số 12/2008 của
tác giả Nguyễn Đức Minh.
Có thể thấy, các bài viết nêu trên đã nghiên cứu một số khía cạnh liên
quan về vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể về vai trò của thiết chế này
trong thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh
Sơn La thì đến thời điểm hiện tại chưa có công trình nào đề cập tới. Vì vậy,
có thể khẳng định, đề tài “Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La” là một đề tài
có tính mới, mang tính ứng dụng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản pháp luật hiện hành quy
định về cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và
thực trạng pháp luật về vai trò của của cơ quan này trong việc bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong giới hạn một đề tài luận văn thạc
sĩ luật học, đề tài không có tham vọng nghiên cứu tất cả các khía cạnh chính
trị, kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà chỉ
tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam nói chung và tại Sơn La nói riêng cũng
như thực tiễn việc thực thi các nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của
cơ quan này tại Sơn La.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu và đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước


4

về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh Sơn La, qua đó góp phần đẩy
mạnh công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương. Để đạt được
mục tiêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tại Việt Nam.
+ Nghiên cứu những quy định của pháp luật về trách nhiệm, quyền hạn
của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Sơn La.
+ Nghiên cứu trực trạng pháp luật về vai trò của cơ quan quản lý nhà

nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Sơn La trong việc bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
+ Đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động
của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Sơn La,
qua đó nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Sơn La.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn cần nghiên cứu và trả lời các câu hỏi:
- Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi được ghi
nhận trong pháp luật Việt Nam như thế nào?
- Theo pháp luật hiện hành, cơ quan nào giữ vai trò là cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh Sơn La?
- Thực tiễn việc thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
theo quy định của pháp luật Việt Nam của cơ quan quản lý nhà nước tại tỉnh Sơn
La như thế nào? Cơ quan này đã thực hiện được vai trò của mình trong công tác
bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh Sơn La chưa?
- Có những giải pháp nào nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh Sơn La?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu,
trong khi thực hiện đề tài, em đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu
khoa học sau đây:


5

- Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này chủ yếu được sử dụng để
khái quát các quy định của pháp luật về vai trò của cơ quan quản lý nhà nước

trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở chương 1.
- Phương pháp thống kê: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê để
tổng hợp các số liệu liên quan để Luận văn có sức thuyết phục, mang lại ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu
ở chương 2.
- Phương pháp điều tra khảo sát: Luận văn tiến hành phỏng vấn 60
người tiêu dùng và 30 cán bộ thuộc các cơ quan có liên quan đến hoạt động
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Sơn La để đánh giá thực
trạng hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng tại tỉnh Sơn La ở chương 2.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Ý nghĩa khoa học: kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học
để định hướng cho tổ chức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt
Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Sơn La nói riêmg.
Ý nghĩa thực tiễn: góp phần nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Sơn La.
8. Bố cục của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Tổng quan về vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo
pháp luật Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về vai trò của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh Sơn La.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh Sơn La.



6

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng và vai
trò các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Khái quát pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là một bộ phận cấu thành của chính sách
bảo vệ quyền lợi NTD, được kết hợp đồng thời với các biện pháp tổ chức như
tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết và khả năng tự bảo vệ của NTD
cũng như nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Tuy vậy, pháp luật
bảo vệ quyền lợi NTD với nội dung là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ
giữa NTD và các thương nhân khi NTD mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhằm
mục đích tiêu dùng. So với các công cụ khác trong chính sách bảo vệ quyền lợi
NTD thì pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD luôn đóng vai trò chủ đạo trong chính
sách bảo vệ NTD, bởi chỉ có pháp luật mới là chỗ dựa vững chắc và ổn định cho
đối tượng được bảo vệ. Các biện pháp không mang tính pháp lý như giáo dục, tư
vấn hay khuyến khích thường bị chi phối bởi địa vị xã hội và điều kiện kinh tế
của các nhóm lợi ích khác nhau mà trong trường hợp này là NTD và các doanh
nghiệp, sự hợp tác và cạnh tranh giữa họ sẽ thường xuyên bất bình đẳng. Khi đó,
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là rào chắn an toàn cho những thỏa thuận không
công bằng hoặc sự áp đảo của một bên.
Ở Việt Nam giai đoạn trước năm 1986, hầu như không có văn bản pháp
lý nào liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD. Bởi lẽ, hoàn cảnh đất nước vừa
trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt và một thời kì phục hồi sau chiến
tranh, trong bối cảnh đó mọi nguồn lực đều tập trung cho sự nghiệp giành độc
lập, bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước nên nhu cầu tiêu dùng của người

dân giảm ở mức tối thiểu, họ không quan tâm đến việc phải bảo vệ quyền lợi
của mình. Mặt khác, thời kì này cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung được


7

duy trì, Nhà nước kiểm soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết
định việc sử dụng các yếu tố sản xuất cũng như phân phối sản phẩm nên NTD
yên tâm về chất lượng hàng hóa và không có nhiều sự lựa chọn.
Từ sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Kết quả của bước chuyển
mình này là hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ở Việt Nam đã trở nên phong
phú hơn thời kì trước năm 1986, NTD bước đầu có quyền được lựa chọn
những sản phẩm phù hợp nhất với nhu cầu và túi tiền của mình thay vì buộc
phải mua tem phiếu như trước kia, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với
nhiều nguy cơ, rủi ro từ việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ thiếu an toàn, chất
lượng kém do mặt trái của kinh tế thị trường đem lại. Do vậy, trong khoảng
thời gian 20 năm trở lại đây, chính sách bảo vệ quyền lợi NTD mà bộ phận
quan trọng nhất là pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD đang được Nhà nước ta
quan tâm, xây dựng từng bước và thực thi.
Có thể phân chia hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD tại Việt
Nam từ năm 1986 đến nay thành hai nhóm: nhóm các văn bản pháp luật điều
chỉnh trực tiếp vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD và nhóm các văn bản điều chỉnh
gián tiếp vấn đề này. Cụ thể:
Thứ nhất, nhóm các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề bảo
vệ quyền lợi NTD gồm các văn bản sau:
- Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD. Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD
được Ủy ban Thường vụ quốc hội thông qua ngày 27/04/1999. Pháp lệnh gồm
6 chương 30 điều quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động

bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam như: định nghĩa NTD, quyền và trách
nhiệm của NTD; Hệ thống các nghĩa vụ của nhà sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ; Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD; Cơ
chế khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm khi NTD bị xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp. Có thể nói, sự ra đời của P háp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD có ý
nghĩa rất quan trọng vì đây là văn bản quy phạm pháp luật mang tính tổng
hợp đầu tiên và trực tiếp bảo vệ quyền lợi NTD. Pháp lệnh đã cụ thể hóa 8


8

quyền của NTD được Quốc tế NTD (CI) và Liên hợp Quốc công bố gồm:
quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được an toàn, quyền được
thông tin, quyền được lựa chọn, quyền được lắng nghe, quyền được khiếu nại
và bồi thường, quyền được giáo dục và đào tạo về tiêu dùng, quyền được có
môi trường sống lành mạnh và bền vững.
- Nghị định 55/2008/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 24/4/2008 quy định
chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD . Để hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh bảo vệ NTD, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 69/2001/NĐCP của Chính Phủ ngày 02/10/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo
vệ quyền lợi NTD và sau đó Nghị định này được thay thế bởi Nghị định số
55/2008/NĐ-CP ngày 24/4/2008. Nghị định có thêm chương quy định về tổ
chức bảo vệ quyền lợi NTD. Ngoài ra nội dung các chương khác tương tự như
nội dung trong Pháp lệnh nhưng được quy định chi tiết hơn.
Sau hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD và các văn
bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này đã cơ bản đi vào cuộc sống, tạo lập
hành lang pháp lý để NTD tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và
tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ quyền
lợi của NTD. Tuy nhiên trong quá trình thi hành, các văn bản pháp luật này
cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: các quy định về bảo vệ quyền lợi NTD mới

chỉ mang tính” tuyên ngôn” mà chưa có cơ chế cụ thể để thực thi; sự phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác bảo vệ quyền lợi
NTD còn hạn chế; chưa có cơ chế hữu hiệu giúp các tổ chức bảo vệ quyền lợi
NTD hoạt động hiệu quả; chưa xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu
nại; hệ thống chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm không đủ sức răn đe,
giáo dục...Mặt khác, các vụ việc vi phạm quyền lợi NTD ngày càng gia tăng
về số lượng vi phạm và mức độ vi phạm. Hiện trạng này đòi hỏi Việt Nam
phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD, mà
trọng tâm là xây dựng Luật bảo vệ quyền lợi NTD để đảm bảo quyền lợi của
NTD Việt Nam được tôn trọng và bảo vệ, đồng thời góp phần quan trọng
trong việc tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy nền kinh tế
của đất nước phát triển.


9

- Luật bảo vệ quyền lợi NTD số 59/2010/QH12 được Quốc Hội khóa 12
kì họp thứ 8 thông qua ngày 17.11.2010 và có hiệu lực từ ngày 01.07.2011.
Kể từ ngày này, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD hết hiệu lực.
Để hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010, Chính Phủ và
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành những văn bản sau:
- Nghị định số 99/2011/ NĐ-CP ngày 27.10.2011 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi NTD.
- Nghị định số 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15.11.2013 quy
định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi NTD.
- Nghị định số 124/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19.11.2015 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định sốsố 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 15.11.2013 quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại,
sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi NTD.

- Quyết định số 02/2012/QĐ- TTg ngày 13.01.2012 về việc ban hành
Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng kí hợp đồng theo mẫu, điều
kiện giao dịch chung.
- Quyết định số 35/2015/QĐ- TTG ngày 20.08.2015 của Thủ tướng
Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 02/2012/QĐ- TTg ngày
13.01.2012 về việc ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng
kí hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.
- Quyết định số 1035/QĐ- TTg ngày 10.7.2015 của Thủ tướng chính
phủ về Ngày Quyền của NTD Việt Nam.
Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật đã quy định những vấn đề chủ yếu sau:
+ Quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD. Luật bảo vệ quyền lợi
NTD 2010 của Việt Nam đã nêu đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
NTD mà Quốc tế người tiêu dùng (CI) đã tuyên bố và Nghị quyết của Đại hội
đồng Liên hợp quốc số A/ RES/39/248 đã hướng dẫn.
+ Quy định về trách nhiệm của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho
NTD, gồm: trách nhiệm cung cấp thông tin; Trách nhiệm đối với hợp đồng


10

theo mẫu và điều kiện giao dịch chung; Trách nhiệm cung cấp bằng chứng
giao dịch; Trách nhiệm bán hàng hóa, linh kiện, phụ kiện; Trách nhiệm thu
hồi hàng hóa có khuyết tật; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có
khuyết tật gây ra.
+ Quy định cơ chế giải quyết tranh chấp với NTD và tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ khi NTD bị xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp.
Theo đó, phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh giữa NTD và tổ chức cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài,
Tòa án. So với các văn bản pháp luật trước đây về bảo vệ quyền lợi NTD,

Luật bảo vệ quyền lợi NTD đã bổ sung thêm một số quy định mới. Cụ thể
như: (i) bổ sung thêm phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; (ii)
Khiếu kiện của NTD đưa đến Tòa có thể áp dụng thủ tục đơn giản; (iii) NTD
khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền lợi của mình không phải nộp tạm ứng
án phí, tạm ứng lệ phí tại Tòa.
+ Quy định về trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc bảo vệ quyền
lợi NTD. Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 xác định các tổ chức xã hội đều có
trách nhiệm tham gia vào công tác bảo vệ NTD chứ không phải chỉ có tổ chức
bảo vệ NTD mới là tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD như quy định
tại Nghị định 55/2008/NĐ- CP.
+ Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD,
Bộ Công thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi NTD; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi quyền
hạn, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công Thương thực
hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD; UBND các cấp trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
lợi NTD tại địa phương.
+ Quy định về các hành vi bị cấm và chế tài xử lý đối với hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 quy
định 8 hành vi bị cấm. Về cơ bản, những hành vi này phù hợp với thông lệ
quốc tế thế giới đối với các hành vi thương mại không lành mạnh. Luật cũng


11

nêu hệ thống chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền
lợi NTD. Theo đó, cá nhân kinh doanh có thể bị xử lý chế tài hành chính, chế
tài dân sự và chế tài hình sự. Tổ chức kinh doanh có thể bị xử lý chế tài hành
chính, dân sự. Cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật bảo vệ

quyền lợi NTD thì tùy tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nhóm các văn bản pháp luật điều chỉnh gián tiếp vấn đề bảo vệ
quyền lợi NTD.
Bên cạnh những văn bản pháp luật quy định trực tiếp việc bảo vệ quyền
lợi NTD như nêu trên, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã có nhiều văn bản
pháp luật chứa đựng các quy phạm gián tiếp liên quan đến hoạt động bảo vệ
quyền lợi NTD. Các văn bản pháp luật trong nhóm này quy định những vấn
đề chủ yếu sau: (i) Ghi nhận các nguyên tắc chung về bảo vệ quyền lợi NTD
được thể hiện trong Hiến pháp 1992 (nay được thay thế bằng Hiến pháp
2013), Bộ luật Dân sự 2005 (sẽ được thay thế bằng Bộ luật Dân sự 2015, có
hiệu lực từ ngày 01.07.2017) ; (ii) Quy định chung về kiểm soát sự gia nhập
thị trường và điều tiết hoạt động trên thị trường của các thương nhân trong
Luật Doanh nghiệp 2005 (đã được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp 2014);
Luật đầu tư 2005 (hiện đã được thay thế bằng Luật đầu tư 2014) ; Luật
Thương mại 2005; Luật cạnh tranh 2004 (hiện nay là Luật Cạnh tranh 2014);
Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kĩ thuật 2006; Luật chất lượng sản phẩm, hàng
hóa 2007...(iii) Các quy định điều tiết ngành, kiểm soát sự gia nhập thị trường
và hoạt động trên thị trường của thương nhân trong từng chuyên ngành như y
tế, thực phẩm, giao thông, xây dựng, du lịch, ngân hàng, chứng khoán...được
quy định trong các văn bản pháp luật như: Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân
1989; Luật dược 2005; Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (hiện nay được thay
thế bằng Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010 (sửa đổi bổ sung); Luật du lịch
2005; Luật chứng khoán 2006 (nay được thay thế bằng Luật Chứng khoán
2010), Luật An toàn thực phẩm 2010...


12


Như vậy, có thể khẳng định rằng vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD hiện
được nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, tạo thành một hệ thống văn bản pháp luật được đánh giá là tương
đối đồng bộ so với nhiều hệ thống pháp luật trong lĩnh vực khác. Trong đó,
nội dung quan trọng được pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD đề cập tới là vai
trò, trách nhiệm của các thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD trong việc bảo vệ
quyền lợi NTD theo pháp luật Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo
pháp luật Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và vai trò
của các thiết chế đó trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
* Khái niệm thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Quan hệ giữa NTD và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ là một loại quan hệ dân sự phổ biến trong đời sống xã hội. Như vậy có
nghĩa chúng phải được thiết lập, thực hiện và bảo vệ theo các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự như : tự do thỏa thuận; bình đẳng; thiện chí và trung
thực; tôn trọng đạo đức tốt đẹp; tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác...2 Tuy nhiên, giữa các chủ
thể này thường không tồn tại sự bình đằng một cách tuyệt đối trên thực tế,
trong đó NTD sẽ ở vào vị trí “yếu thế” hơn, do sự hạn chế về thông tin, về
kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm phán hợp đồng cũng như khả năng tự
bảo vệ mình. Bởi vậy, sự hiện diện của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD nói
chung và những cơ quan, tổ chức đóng vai trò bảo vệ quyền lợi NTD nói
riêng là góp phần tạo lập và giữ gìn sự bình đẳng, hỗ trợ NTD khắc phục tính
“yếu thế” này trong quan hệ với tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Hiện nay, giới nghiên cứu về pháp luật bảo vệ NTD ở Việt Nam vẫn sử
dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để gọi những cơ quan, tổ chức đảm nhiệm
vai trò bảo vệ quyền lợi NTD3. Có nhà nghiên cứu gọi những tổ chức này là
“thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD”, có nhà nghiên cứu lại
2


Điều 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 Bộ luật Dân sự 2005.

3

Bộ Tư pháp (2008) Báo cáo phúc trình đề tài khoa học cấp Bộ“Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi NTD.”.


13

gọi những tổ chức này” thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng”4
hay “ thiết chế bảo vệ người tiêu dùng”5. Tuy nhiên, dù có sử dụng thuật ngữ
nào thì vẫn không thể phủ nhận rằng, Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 và các
văn bản hướng dẫn thi hành luật này đã ghi nhận sự hiện diện của các cơ
quan, tổ chức đảm nhiệm vai trò bảo vệ quyền lợi NTD, bao gồm 3 nhóm cơ
quan là: các cơ quan quản lý nhà nước (như Bộ Công thương; các Bộ, cơ quan
ngang Bộ; Uỷ ban nhân dân các cấp); các cơ quan tài phán giải quyết tranh
chấp giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh; và tổ chức xã hội tham gia
bảo vệ quyền lợi NTD.
Như vậy, từ thực tiễn pháp luật hiện hành ở Việt Nam, có thể đưa ra
khái niệm thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD như sau: “Thiết chế bảo vệ quyền
lợi NTD là các cơ quan, tổ chức có chức năng giải quyết hoặc trực tiếp hỗ trợ
giải quyết các yêu cầu bảo vệ quyền lợi của NTD”6.
* Vai trò của thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Theo Từ điển Tiếng Việt, vai trò được hiểu là tác dụng, chức năng của
sự vật, sự việc, hiện tượng trong một hoàn cảnh, bối cảnh hoặc mối quan hệ
nào đó. Điều đó có nghĩa là, khi bàn về vai trò của các thiết chế bảo vệ quyền
lợi NTD, cần nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của các thiết chế này theo
quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD.
Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD của nhiều quốc gia trên thế giới có nền

kinh tế thị trường phát triển như Hòa Kỳ, Nhật Bản, Úc...đều thừa nhận vai
trò quan trọng của thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD trong hoạt động bảo vệ
quyền lợi NTD, thông qua việc xây dựng hệ thống các cơ quan, tổ chức có
chức năng bảo vệ quyền lợi NTD tương đối hoàn chỉnh, thường gồm 3 nhóm
cơ quan là7:

4

Bộ Tư pháp (2008) Báo cáo phúc trình đề tài khoa học cấp Bộ“Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi NTD”.

5

GS.TS Lê Hồng Hạnh, TS. Dương Thị Thanh Mai, TS. Đinh Sỹ Dũng, TS. Nguyễn Thị Ánh Vân , TS. Vũ

Thị Bạch Nga và các cộng sự (2009), Báo cáo rà soát hệ thống pháp luật bảo vệ NTD tại Việt Nam.
6

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, NXB Công an nhân

dân.
7

Nguyễn Thị Vân Anh (chủ nhiệm, 2014), đề tài khoa học cấp bộ Tăng cường năng lực các thiết chế thực

thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam”,


14

- Cơ quan hành chính trực tiếp bảo vệ NTD hoặc có liên quan trực tiếp

tới việc bảo vệ NTD.
- Các cơ quan tài phán về bảo vệ NTD.
- Các tổ chức xã hội do NTD thành lập với chức năng bảo vệ quyền
lợi NTD.
Trong nhóm các cơ quan hành chính trực tiếp bảo vệ NTD hoặc có liên
quan trực tiếp tới việc bảo vệ NTD, hầu hết các nước phát triển đều thiết lập
cơ quan chuyên trách bảo vệ NTD. Đây là cơ quan có vai trò trung tâm trong
việc thực thi pháp luật bảo vệ NTD. Ví dụ như ở Hoa Kì là Ủy ban thương
mại Liên bang, ở Anh là Văn phòng thương mại công bằng, ở Nhật Bản là Ủy
ban người tiêu dùng Nhật Bản. Ngoài ra chức năng bảo vệ NTD còn được
chia sẻ bởi các cơ quan điều tiết ngành (nhất là cơ quan quản lý về lĩnh vực an
toàn và chất lượng sản phẩm, cơ quan quản lý về lĩnh vực thực phẩm, dược
phẩm, cơ quan quản lí dịch vụ tài chính, ngân hàng, cơ quan giám sát quảng
cáo, thông tin cho tiêu dùng...).
Bộ phận thứ hai là nhóm các cơ quan tài phán về bảo vệ NTD, chủ yếu
do thiết chế Tòa án thực hiện, có chức năng giải quyết các tranh chấp giữa
NTD và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Hiện nay, một số
quốc gia trên thế giới như Malaysia, Ấn Độ đã xây dựng được Hệ thống Tòa
án chuyên trách bảo vệ NTD, tách biệt khỏi hẳn hệ thống Tòa án thông
thường, vốn đã có quá nhiều công việc và thiếu chuyên môn. Các thủ tục giải
quyết tranh chấp tại đây cũng được đơn giản hóa, đẩy nhanh và giảm chi phí
hết mức có thể, để NTD có thể sử dụng được thường xuyên và hiệu quả hơn.
Ngoài ra, nhằm loại bỏ bớt gánh nặng của Tòa án trong việc giải quyết các
tranh chấp với NTD, các nước phát triển hiện cũng rất chú trọng xây dựng cơ
chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án như Nhật Bản ( có Ủy ban giải quyết
tranh chấp do Trung tâm bảo vệ NTD Nhật Bản thành lập ra vào năm 2009) .
Bộ phận thứ ba là các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ NTD. Các tổ chức
xã hội tham gia bảo vệ NTD được thành lập theo mô hình phi chính phủ, hoạt
động vì lợi ích cộng đồng với chức năng hàng đầu là cung cấp thông tin trung
thực, khách quan cho NTD về hàng hóa, dịch vụ đồng thời tiến hành các hoạt



15

động vận động chính sách có lợi cho NTD, vì vậy hiện là một bộ phận quan
trọng trong hệ thống hệ thống thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD của rất nhiều
quốc gia phát triển trên thế giới như: Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn
Quốc...Ngày nay, do quyền tự do lập hội ở các nước phát triển khá rộng rãi,
trong khi nhu cầu bảo vệ quyền lợi NTD rất đa dạng, nên số lượng và chủng
loại các hội bảo vệ quyền lợi NTD cũng rất đa dạng. Hầu hết các nước phát
triển đều có rất nhiều hội bảo vệ NTD được thành lập và hoạt động ở nhiều
dạng quy mô khác nhau như: quy mô theo ngành, quy mô theo địa phương,
quy mô toàn quốc...Ví dụ như ở Canada, hiện có hàng chục loại tổ chức bảo
vệ NTD khác nhau đang tồn tại và hoạt động cả ở cấp bang hoặc liên bang. Ở
Pháp, hiệp hội bảo vệ NTD có tầm cỡ quốc gia chỉ được thành lập thành lập
khi có số lượng thành viên tối thiểu là 10.000 người.
Có thể nói, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống, lịch sử
và cấu trúc quốc gia (là quốc gia đơn nhất hay quốc gia liên bang) mà hệ
thống thiết chế bảo vệ NTD được thiết kế cho phù hợp.
Ở Việt Nam, hệ thống thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD cũng đã hình
thành và có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động bảo vệ quyền lợi
NTD. Cụ thể là:
Thứ nhất, bảo đảm cho các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi
NTD được tuân thủ.
Các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là rào chắn an toàn
cho những thỏa thuận không công bằng hoặc sự áp đảo của một bên, vì vậy là
bộ phận quan trọng, giữ vai trò trung tâm, chủ đạo trong chính sách bảo vệ
quyền lợi NTD của cả quốc gia. Tuy vậy, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD của các chủ thể tham gia thị trường trên thực tế, bao gồm cả
các chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và NTD không phải lúc

nào cũng đúng, mặc dù những chủ thể này có thể biết hoặc không biết. Vì
vậy, sự hiện diện của các thiết chế bảo vệ NTD sẽ đóng vai trò thực thi những
quy định, quy tắc ấy.
Thứ hai, là địa chỉ mà khi NTD cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm hại có
thể đến để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ và tìm kiếm sự bảo vệ quyền lợi của mình.


16

Vụ việc con ruồi trong chai nước ngọt của công ty Tân Hiệp Phát thời
gian quan là minh chứng rõ nhất cho vai trò của thiết chế thực bảo vệ quyền
lợi NTD8. Nếu NTD trong trường hợp này có được sự tư vấn, hỗ trợ giải
quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp từ các tổ chức xã hội tham gia bảo
vệ NTD thì có lẽ không phải chịu mức án 7 năm tù giam vì hành vi “Cưỡng
đoạt tài sản”. Cụ thể, khi quyền và lợi ích của NTD bị nhà sản xuất, kinh
doanh xâm hại một cách trái pháp luật, NTD có thể tiếp cận với Tòa án (khởi
kiện trước Tòa án) hoặc tiếp cận với các hội bảo vệ NTD, với Cục quản lý
cạnh tranh và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khác để được tư
vấn, hỗ trợ và tìm kiếm sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Thứ ba, là thiết chế giám sát sự vận hành của thị trường, giám sát cách
ứng xử của các nhà sản xuất, kinh doanh.
Các thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD tại Việt Nam thường xuyên tiến
hành các hoạt động mang tính chất giám sát hành vi của thương nhân khi
cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho NTD, kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh chống
các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường nội địa (như sản xuất hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng hóa không có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng...), thông qua đó nhằm theo dõi việc thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi
NTD, phát hiện những hành vi vi phạm, những bất cập trong hệ thống chính
sách và pháp luật để có các biện pháp ngăn chặn, giải quyết, kiến nghị sửa
đổi và bổ sung, đáp ứng kịp thời những yêu cầu, đòi hỏi của đời sống tiêu

dùng hàng ngày.
1.1.2.2. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng
Các cơ quan quản lý nhà nước là chủ thể giữ vai trò chủ đạo trong cả hệ
thống thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD, bởi lẽ chủ thể này là đơn vị có trách
nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó
có chính sách bảo vệ quyền lợi NTD, chỉ đạo hoặc phối hợp với các cơ quan
8

Minh Giang (2015), “Vụ chai nước có ruồi: Tuyên phạt bị cáo 7 năm tù”, Báo Dân trí tại địa chỉ :

/>ngày truy cập 18/12/2015


17

khác tiến hành các hoạt động trong phạm vi quyền hạn của mình nhằm bảo
đảm cho quyền lợi NTD được thực thi trên thực tế. Hơn nữa, trong bối cảnh ở
Việt Nam, hoạt động của các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi NTD còn rất mờ
nhạt, nhận thức của xã hội về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD vẫn hạn chế, thì
vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi NTD lại
càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Hiện nay ở Việt Nam, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc
bảo vệ quyền lợi NTD được ghi nhận trong Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010,
thông qua quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
NTD. Cụ thể, Điều 47 Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 quy định trách nhiệm
quản lý nhà nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD được phân công và phân cấp
cho nhiều cơ quan nhà nước cùng tham gia:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
- Bộ Công thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý

nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
- Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công thương về bảo vệ quyền lợi NTD.
- UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD tại địa phương.
Như vậy, theo quy định nói trên, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam hiện được phân cấp thành hai bộ phận, đó là
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD ở Trung ương là Bộ Công
thương và cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD ở địa phương là
UBND các cấp. Ngoài ra, Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 cũng quy định trách
nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ ( Bộ Khoa học và công nghệ; Bộ Y tế; Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...) trong việc phối hợp với Bộ Công thương
thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
* Bộ Công Thương
Bộ Công thương được xác định là cơ quan quản lý nhà nước về bảo
vệ quyền lợi NTD ở Trung ương, vì vậy cơ quan này đóng vai trò hết sức
quan trọng trong hệ thống thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam.
Cụ thể như sau:


18

- Thứ nhất, Bộ Công thương là cơ quan thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ngoài ra, Bộ Công thương còn
được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh
vực như: điện; dầu khí; công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, công
nghiệp chế biến; xuất nhập khẩu; thương mại biên giới, thương mại điện tử,
dịch vụ thương mại...9 Có thể thấy, các lĩnh vực quản lý nhà nước nêu trên có
liên quan mật thiết đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đến quyền và lợi
ích của đông đảo NTD, vì vậy khi Bộ Công thương thực hiện chức năng quản

lý nhà nước của mình là gián tiếp bảo vệ quyền lợi của NTD.
- Thứ hai, Bộ Công thương đóng vai trò là cơ quan đầu mối trong việc
xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. Cụ thể, Bộ
Công thương có trách nhiệm ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành các chính sách, chiến lược, kế hoạch, dự án, văn bản quy định
pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD. Phối hợp với các cơ quan có liên quan để
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật và tiếp
nhận, giải quyết các kiến nghị, các khiếu nại, tố cáo. Ngoài ra, để pháp luật
bảo vệ quyền lợi NTD được thực thi, Bộ Công thương còn có trách nhiệm
hướng dẫn thực hiện, tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.
* Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan của Chính phủ có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
NTD. Căn cứ pháp lý cho sự phân công phận nhiệm này là khoản 2 Điều 68
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, theo đó Bộ Khoa học và Công
nghệ hiện là cơ quan được pháp luật giao nhiệm vụ rất quan trọng, liên quan
trực tiếp tới công tác bảo vệ quyền lợi NTD, đó là “chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa”.
Cụ thể theo Điều 69 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007
quy định Bộ Khoa học và công nghệ có trách nhiệm chủ trì xây dựng và tổ
chức thực hiện chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các văn bản
9

Điều 1 Nghị định số 95/2012/NĐ- CP


19

quy phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; có trách nhiệm giải

quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa trong lĩnh vực được phân công.
Giúp việc cho Bộ Khoa học và Công nghệ trong công tác bảo vệ quyền
lợi NTD là Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng10. Cơ quan này trực
thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng
Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất
lượng; tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường,
chất lượng theo quy định của pháp luật.
Ở các địa phương, chức năng quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường
và chất lượng sản phẩm, hàng hóa được giao cho các Chi cục Tiêu chuẩn - Đo
lường - Chất lượng. Các chi cục này chịu sự chỉ đạo và quản lý mọi mặt của
Sở Khoa học và Công nghệ, đồng thời chịu sự chỉ đạo và hướng dẫn chuyên
môn nghiệp vụ của Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng.
* Bộ Y tế
Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về y tế, bao gồm các lĩnh vực: khám bệnh; chữa bệnh; y dược cổ truyền;
trang thiết bị y tế; dược; mỹ phẩm; an toàn thực phẩm...11. Đây là nhiệm vụ
rất quan trọng liên quan trực tiếp tới việc bảo vệ các quyền lợi thiết thân của
NTD, vì vậy mặc dù Luật bảo vệ quyền lợi NTD không có quy định cụ thể
nhưng Bộ Y tế vẫn là cơ quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công thương
thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
Vai trò của Bộ y tế trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD được thể
hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất, Bộ Y tế là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản
lý chất lượng hàng hóa, dịch vụ y tế. Các hàng hóa, dịch vụ y tế là đối tượng
quản lý nhà nước của Bộ Y tế rất đa dạng, phong phú như: thuốc; vắc xin; mỹ
10

Quyết định số 104/2009/QĐ- TTg ngày 12/08/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ


chức của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.
11

Điều 1 Nghị định số 63/2012/NĐ- CP của Chính Phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của Bộ Y tế.


×