Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.69 KB, 60 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNTT:

Công nghệ thông tin

DHLS:

Dạy học lịch sử

ĐBP:

Điện Biên Phủ

ĐDTQ:

Đồ dùng trực quan

GDĐT:

Giáo dục đào tạo

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

KHTN:


Khoa học tự nhiên

KHXH:

Khoa học xã hội

PPDH:

Phương pháp dạy học

PPTH:

Phương tiện dạy học

SGK:

Sách giáo khoa

THPT:

Trung học phổ thông

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo nhằm sự đáp ứng các yêu cầu của xã hội về con người.
Trong toàn bộ sự vận động đổi mới của xã hội, đổi mới giáo dục là một yêu cầu tất
yếu. Nền giáo dục nước ta đang thực hiện một sự đổi mới mạnh mẽ toàn diện nhằm

thực hiện mục tiêu mà UNESCO đã đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để
chung sống, học để tự khẳng định mình”. Lịch sử cũng như những môn học khác
góp phần vào hình thành các mục tiêu giáo dục, đào tạo. Mặt khác, bản thân lịch sử
xã hội loài người và bộ môn lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ và
đào tạo cho họ một thế giới quan khoa học. Qua học tập lịch sử, tầm nhìn của học
sinh đối với cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai được mở rộng.
Để có thể làm tốt được nhiệm vụ này, bộ môn lịch sử phải cung cấp cho học
sinh những tri thức cần thiết về quá trình phát triển hợp qui luật của lịch sử dân tộc
và thế giới. Do điều kiện học tập của học sinh không thể trực tiếp “trực quan sinh
động” các sự kiện xảy ra trong quá khứ. Vì vậy, quá trình dạy học lịch sử phải tiến
hành trên cơ sở tài liệu và sự kiện để hình thành những hình ảnh, những sự kiện,
nhân vật lịch sử, điều kiện lịch sử được phản ánh trong óc học sinh với những nét
chung nhất, điển hình nhất, đó là các biểu tượng lịch sử. Trên cơ sở đó hình thành
nên khái niệm nêu qui luật và rút ra bài học lịch sử.
Trong các loại biểu tượng thì biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện đóng
một vai trò quan trọng. Nó giúp học sinh ghi nhớ sự kiện chính xác hơn, đồng thời
tạo điều kiện cho HS hiểu biết nhiều hơn về kiến thức xã hội. Tạo biểu tượng về địa
điểm của sự kiện góp phần làm rõ mối quan hệ giữa các sự kiện với địa điểm xảy ra
sự kiện. Mối quan hệ đó có thể là tất yếu, có thể là ngẫu nhiên… Nhưng không có
một sự kiện lịch sử nào lại không xảy ra ở một địa điểm nhất định. Trong dạy học
lịch sử, không xác định được địa điểm của sự kiện, thời gian của sự kiện thì sự kiện
đó trở thành vô nghĩa, đồng nghĩa với HS không thể nhận thức được bản chất của sự
kiện lịch sử.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay GV rất ít
khi chú ý đến việc tạo biểu tượng cho HS nói chung và tạo biểu tượng về địa điểm
diễn ra sự kiện nói riêng. Điều đó đã dẫn đến việc HS nắm kiến thức về địa điểm

2



còn rất mơ hồ, mông lung, tình trạng nhầm lẫn giữa các địa điểm diễn ra sự kiện
khá phổ biến. Do đó, việc tạo biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện trong DHLS ở
trường THPT quan trọng và cần thiết.
Lịch sử dân tộc đã trải qua nhiều thăng trầm với nhiều sự kiện tiêu biểu. Mỗi
một sự kiện lại diễn ra ở một địa điểm khác nhau. Mỗi địa điểm đều có những đặc
điểm riêng nó có tác động đến quá trình diễn ra sự kiện, kết quả, ý nghĩa của sự
kiện.Vì vậy, GV cần phải cung cấp tài liệu – sự kiện để tạo biểu tượng về địa điểm
diễn ra sự kiện cho HS.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950 – 1954 có rất nhiều sự kiện quan trọng gắn
với những địa danh lịch sử nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và can thiệp Mĩ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Một giai đoạn lịch sử
quan trọng cần phải giáo dục cho học sinh nhận thức đúng, đầy đủ về những sự kiện
đã diễn ra góp phần làm rõ thêm lịch sử dân tộc.
Chính vì những lý do trên và thực tiễn việc dạy học lịch sử ở trường THPT,
tôi chọn vấn đề: “Tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch
sử giai đoạn 1950 – 1954 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn)” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc tạo biểu tượng nói chung và tạo biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện
nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đã có nhiều đề tài
nghiên cứu đến vấn đề này.
Thứ nhất, tài liệu nước ngoài. Đairi.N.G đã có nhiều tác phẩm đề ra những
nguyên tắc, biện pháp trong DHLS ở trường THPT như “Những yêu cầu đối với
một giờ học lịch sử”, “Những vấn đề cần nắm vững của giờ học”… Đặc biệt, trong
cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” tác giả đã khẳng định: “Tính cụ thể,
tính hình ảnh là những sự kiện có giá trị lớn lao, chúng cho phép hình dung lại quá
khứ chỉ bằng những chi tiết cụ thể, dễ nhìn mới giúp hình thành ở học sinh niềm tin
vững chắc”. [18, tr.12]
Hay M.N.Sacđacốp trong “Tư duy học sinh” (tập 1) do Phan Ngọc Liên,
Phạm Hồng Việt, Dương Đức Niệm dịch, đã có nhiều nội dung nói về mối quan hệ

giữa biểu tượng tư duy, mối quan hệ giữa hiện tượng và khái niệm trong tư duy học
sinh. Những công trình này tuy chưa đề cập đến lý luận tạo biểu tượng về địa điểm

3


diễn ra sự kiện, nhưng là cơ sở lý luận cho chúng tôi xác định được ý nghĩa của việc
tạo biểu tượng đối với sự hình thành tri thức lịch sử của HS.
Thứ hai, tài liệu trong nước. Trong giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử”
do Phan Ngọc Liên (chủ biên), xuất bản năm 2003 đã giành một phần trình bày về
biểu tượng và tạo biểu tượng với nội dung: vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng
trong học tập lịch sử ở trường phổ thông, phân loại biểu tượng, những biện pháp sư
phạm cơ bản cho việc tạo biểu tượng. Tác giả đã góp phần nâng cao nhận thức lý
luận của bộ môn và định hướng nghiệp vụ cho GV, sinh viên giảng dạy bộ môn lịch
sử ở trường phổ thông.
Ngoài ra một số khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng đã đi vào
tìm hiểu vấn đề tạo biểu tượng nói chung và tạo biểu tượng về địa điểm diễn ra sự
kiện nói riêng.
Hầu hết các luận văn, khóa luận đều nghiên cứu vấn đề tạo biểu tượng về
nhan vật lịch sử. Như: Luận án Phó tiến sĩ của Đặng Văn Hồ, “Tạo biểu tượng về
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh qua dạy học lịch sử lớp 12 trường THPT”;
Luận văn Nguyễn Thị Hoài Thanh, “Quá trình tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử
trong dạy học lịch sử dân tộc (1945-1954) ở trường THPT (Ban nâng cao)”; Đặng
Thanh Tú, “Tạo biểu tượng một số nhân vật lịch sử Việt Nam (1858-1918) qua dạy
học lịch sử dân tộc lớp 11 trường THPT chuyên ban (ban KHXH)”;
Đối với vấn đề tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện đã có khóa luận tốt
nghiệp của Nguyễn Thị Huế, “Tạo biểu tượng về địa điểm của sự kiện trong dạy
học lịch sử Việt Nam bài “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946-1950)” ở lớp 12, trường trung học phổ thông (Chương trình
Chuẩn)”.

Bên cạnh đó, Nguyễn Đức Cương đã có bài “Tạo biểu tượng về địa điểm của sự
kiện trên cơ sở hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông”,
tại hội thảo khoa học quốc gia nghiên cứu giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và phát triển kĩ năng tự học cho học sinh. Bài viết đã đề cấp đến những khái
niệm cơ bản và một số biện pháp sư phạm để tạo biểu tượng về địa điểm.
Tóm lại, các tác phẩm đã đề cập đến các hình thức, biện pháp sư phạm tạo
biểu tượng về nhân vật lịch sử hay tạo biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện. Đó là
những tài liệu tham khảo giúp chúng tôi xác định nguyên tắc chung, con đường và

4


biện pháp để tạo biểu tượng nói chung và tạo biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện
nói riêng.
Như vậy, việc tạo biểu tượng đã được đề cập đến trong nhiều tác phẩm. Tuy
nhiên, việc xác định nội dung, cách thức và con đường tạo biểu tượng về địa điểm
diễn ra sự kiện tương ứng với lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950-1954 trong SGK lớp
12, chương trình Chuẩn thì vẫn chưa có công trình nào giải quyết một cách triệt để.
Đó chính là nhiệm vụ mà chúng tôi cần tiếp tục giải quyết trong khóa luận.
Trên cơ sở tiếp thu, học hỏi kết quả nghiên cứu của những người đi trước,
chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp một phần trong việc hình thành một hệ thống cơ sở
lý luận phù hợp, và đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao chất lượng
DHLS ở trường THPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quá trình tạo biểu tượng về địa điểm của sự kiện
trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950 -1954 ở trường THPT (Chương trình
Chuẩn).
- Phạm vi nghiên cứu: nội dung nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong
quá trình lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950 – 1954 ở trường THPT (Chương trình
Chuẩn).

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: đề tài xác định được những nội dung, con đường và
biện pháp sư phạm cần thiết để tạo biểu tượng về địa điểm của sự kiện trong giai
đoạn 1950 – 1954 có hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử Việt Nam
ở trường THPT trên tất cả các mặt giáo dục, giáo dưỡng và phát triển tư duy.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Điều tra xã hội học để tìm hiểu về tình hình tạo biểu tượng và biểu tượng về
địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Nghiên cứu chương trình, nội dung lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950 – 1954
(Chương trình Chuẩn) để xác định mức độ, nội dung, ý nghĩa các biểu tượng về địa
điểm của sự kiện lịch sử.
- Đề xuất các con đường, hình thức và biện pháp sư phạm để tạo biểu tượng
về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950 – 1954 ở trường THPT

5


(Chương trình Chuẩn) nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề tài theo
nguyên tắc từ điểm suy ra diện, rút ra kết luận khái quát.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu coi trọng đúng mức, có hiệu quả việc tạo biểu tượng – biểu tượng về địa
điểm của sự kiện theo các nguyên tắc và biện pháp của khóa luận đề xuất, sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, hoàn thiện vốn kiến thức phổ thông, phát
huy tính tích cực của học sinh, tạo phong cách học tập năng động, sáng tạo, hiệu
quả cao theo yêu cầu mục tiêu đào tạo (nhận thức, thái độ, kĩ năng) góp phần tích
cực đổi mới hình thức và phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của đề tài là quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về lí luận giáo dục, đặc biệt
quan điểm về giáo dục lịch sử thông qua nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Điều tra xã hội học, quan sát, thăm dò ý kiến về thực tiễn dạy học môn lịch
sử ở trường THPT.
+ Nghiên cứu tài liệu giáo dục học, tâm lí học, lịch sử giáo dục, lịch sử dân
tộc…
+ Thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề tài.
7. Đóng góp của khóa luận
- Thứ nhất chứng minh tính cần thiết và tính khả thi của việc tạo biểu tượng,
biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam, đặc biệt là
trong giai đoạn 1950 – 1954 trường THPT (Chương trình Chuẩn).
- Thứ hai đề xuất được nguyên tắc chung và biện pháp sư phạm khi tạo biểu
tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử nói chung, dạy học lịch sử
Việt Nam 1950-1954 nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh,
nhằm đảm bảo nguyên tắc giáo dục của Đảng và Nhà nước đề ra.

6


- Thứ ba với hệ thống cơ sở lý luận cùng những biện pháp sư phạm đưa ra để
tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch
sử hiện nay ở trường phổ thông.
8. Bố cục của khóa luận.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tạo biểu tượng và biểu tượng
về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường THPT (Chương trình
Chuẩn).
Chương 2: Nội dung biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học

lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950 -1954 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn).
Chương 3: Biện pháp tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy
học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950-1954 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn).

7


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TẠO BIỂU TƯỢNG VÀ
BIỂU TƯỢNG VỀ ĐỊA ĐIỂM XẢY RA SỰ KIỆN TRONG DẠY HỌC LỊCH
SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
1.1. Cơ sở lý luận của việc tạo biểu tượng và biểu tượng về địa điểm
trong dạy học lịch sử ở trường THPT
1.1.1. Quan niệm về địa điểm của sự kiện lịch sử
* Quan niệm về địa điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử
- Địa điểm lịch sử:
Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã định nghĩa: “Địa điểm
là nơi cụ thể trong quan hệ với hoạt động tiến hành của sự việc xảy ra tại đó
[19,tr.304]
Hay có định nghĩa: “Địa điểm, appoinnted place, nơi chốn, có mặt tại địa
điểm qui định” [28, tr.379]
Các tài liệu về ngôn ngữ học đã đề cập đến định nghĩa “địa điểm”, bằng
những cách diễn đạt khác nhau nhưng hàm ý chung của các tác giả: “địa điểm” là
một nơi chốn cụ thể. Vậy, “địa điểm lịch sử” là gì?
Ở đây ta nhận thấy rằng “địa” là đất, “điểm” là một vị trí xác định. Như vậy,
“địa điểm lịch sử” là một vùng đất xác định, một nơi chốn cụ thể, nơi diễn ra sự
kiện, hiện tượng lịch sử, mà ở đó có điều kiện tự nhiên, xã hội nhất định.
Ví dụ: Khi dạy mục IV.2 Chiến dịch biên giới thu đông 1950 GV giảng đến
sự kiện chúng ta mai phục, chặn đánh địch trên Đường số 4 gây cho địch nhiều tổn

thất. Trong trường hợp này, GV có thể giới thiệu thêm về địa điểm Đường số 4:
“Đường số 4, con đường huyết mạch của Liên khu Biên giới Đông Bắc, được khởi
công xây dựng từ năm 1911, dài 340 km, mặt đường rộng 4m, chạy từ Mũi Ngọc
(Móng Cái) đi qua một số thị xã, thị trấn: Tiên Yên, Đình Lập, Lạng Sơn, Na Sầm,
Thất Khê, Đông Khê, Cao Bằng . Sau khi chạy dọc ven biển tới Tiên Yên, đường đi
vào rừng núi, đèo cao, vực thẳm, có nhiều sông suối cắt ngang. Dọc đường Pháp
đóng hơn 80 vị trí, nhưng chỉ kiểm soát được những điểm chính”. [23, tr.157-158]
Qua đó, chúng ta có thể thấy Đường số 4 đóng một vị trí rất quan trọng, chiến thắng

8


ở Đường số 4 đã góp phần đưa đến thắng lợi chiến dịch Biên giới thu đông 1950.
Vậy khi GV cung cấp cho HS thông tin về Đường số 4, HS sẽ hiểu được vị trí quan
trọng của tuyến đường này, và lí giải được vì sao ta chủ động mai phục địch tại đây.
Tại vị trí Đường số 4 đã khiến hai cánh quân từ Thất Khê xuống và từ Cao Bằng lên
của địch không thể gặp được nhau. Cùng với đó, cuộc hành quân của địch lên Thái
Nguyên cũng bị ta đánh bại. Như vậy, HS có thể đưa ra kết luận rằng Đường số 4
góp phần đưa chiến dịch Biên giới thu đông 1950 đi đến thắng lợi.
- Không gian lịch sử:
Sự kiện lịch sử bao giờ cũng mang tính cụ thể, bất cứ sự kiện, hiện tượng nào
đều xảy ra trong một không gian, thời gian nhất định, gắn với những nhân vật lịch
sử nhất định. Nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì không phải sự kiện lịch sử và
chúng ta không có khả năng nhận thức nó. Như vậy, không gian lịch sử là một yếu
tố quan trọng trong một sự kiện hay hiện tượng lịch sử.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: “Không gian, space là khoảng không
bao trùm mọi vật xung quanh con người”. [28, tr.521]
Hay có tác giả cho rằng: “Không gian được xem là khoảng cách từ nơi này
với nơi khác. Nói đến sự khác biệt về mặt không gian xảy ra các sự kiện khác nhau
ở những nơi khác nhau”. [11, tr.8]

Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về không gian, nhưng tất cả đều
khẳng định rằng “không gian là khoảng không gồm có mọi vật và con người”. Từ
đây, có thể rút ra rằng: “Không gian lịch sử là khoảng không gồm có mọi vật và con
người… có liên quan ít nhiều đến sự kiện lịch sử đã xảy ra”.[2, tr.10]
Ví dụ: Trong lịch sử Việt Nam 1950-1954 ghi nhận sự đóng góp không nhỏ về
người và của của nhân dân Liên khu III. Vậy Liên khu III bao gồm những tỉnh nào?
Liên khu III được thành lập như thế nào? GV cần cung cấp thêm tài liệu cho HS.
“Ngày 25 tháng 11 năm 1948, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Liên khu III
gồm 12 tỉnh: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình và
Hòa Bình. Đây là sự hợp nhất các lên khu 2, 3 và 11. Diện tích liên khu khoảng
16.000 km2. Phía đông giáp với biển Đông. Phía bắc và tây bắc giáp với các tỉnh
trung du: Quảng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ. Phía
tây và tây nam giáp Sơn La, Thanh Hóa”.[5, tr.178]

9


Vậy, Liên khu III là một không gian rộng lớn, bao gồm nhiều tỉnh được
thành lập trong kháng chiến chống Pháp.
Qua tìm hiểu về địa điểm lịch sử và không gian lịch sử có thể thấy rằng, nội
hàm của hai khái niệm đều nói đến một nơi chốn, một khoảng không gian nơi có
con người, có mọi vật (bao gồm điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội), đồng
thời là nơi có ít nhiều liên quan đến sự kiện lịch sử đã diễn ra. Như vậy, trong
nghiên cứu lịch sử có thể khẳng định rằng, không gian lịch sử và địa điểm lịch sử
xét về bản chất là một, sự khác nhau chỉ ở tên gọi mà thôi.
- Địa danh lịch sử:
“Địa danh” là một từ xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ toponynme, tức là “tên
gọi của các địa phương hay là tên gọi địa lý” [1, tr.3]
Cũng có tác giả cho rằng: “Địa danh, place name, tên các vùng miền, địa
phương” [28, tr.379]

Theo thuật ngữ lịch sử phổ thông thì: “Địa danh là tên gọi của một địa
phương, một quốc gia, một châu lục. Địa danh thường phản ánh quá trình hình
thành các yếu tố địa lý xã hội. lịch sử của một vùng, lãnh thổ”. [16, tr.58]
Địa danh có rất nhiều, và được chia làm nhiều loại khác nhau. PGS Lê Trung
Hoa đã chia địa danh làm 4 loại, căn cứ vào điều kiện tự nhiên và không tự nhiên:
địa danh chỉ địa hình tự nhiên, địa danh chỉ các công trình xây dựng, địa danh hành
chính, địa danh vùng. “Địa danh lịch sử” có thể thuộc một trong bốn nhóm địa danh
trên. Tuy nhiên, trong tất cả các loại địa danh không phải địa danh nào cũng là địa
danh lịch sử. Chỉ có những vùng đất trực tiếp gắn với các sự kiện, biến cố trong lịch
sử nhân loại, dân tộc và địa phương thì vùng đất đó mới là địa danh lịch sử.
Ví dụ: Nếu nói đến tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ ở khu di tích chiến
trường Điện Biên Phủ, thì đây chỉ được coi là địa danh văn hóa, địa danh chỉ một
công trình tưởng niệm. Tuy nhiên, khi đề cập đến Điện Biên Phủ, là chúng ta đang
nói đến địa danh lịch sử. Nơi đã diễn ra trận quyết chiến chiến lược của quân và dân
ta với thực dân Pháp. Địa danh này gắn liền với lịch sử dân tộc trong một giai đoạn
dài từ 1950-1954. Như vậy, thực chất chúng ta đang nhắc đến 2 địa danh trên cùng
một không gian xác định, nhưng hai địa danh đều mang hai ý nghĩa khác nhau. Nó
thể hiện được rằng một địa danh chưa chắc đã là một địa danh lịch sử.

10


Như vậy, địa danh lịch sử là tên gọi một địa điểm hay các vùng miền, địa
phương xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đó, mà ở đó có những điều kiện tự
nhiên, xã hội nhất định, con người nhận thức được để thực hiện ý đồ của mình.
- Mối quan hệ giữa địa điểm lịch sử - không gian lịch sử - địa danh lịch sử.
Xét về nội hàm khái niệm, địa điểm lịch sử, không gian lịch sử, địa danh lịch
sử đều nói đến nơi xảy ra sự kiện lịch sử. Cụ thể hơn, địa điểm lịch sử đề cập đến
một vùng đất nơi xảy ra sự kiện lịch sử nào đó; Không gian lịch sử đề cập đến
khoảng không gian vũ trụ, nơi xảy ra sự kiện lịch sử; Địa danh lịch sử chỉ thuần túy

là nơi xảy ra sự kiện lịch sử.
Xét ở góc độ khác nhau có những cái nhìn khác nhau, địa điểm lịch sử là địa
điểm xảy ra sự kiện có thể là một địa điểm (địa danh cụ thể - được xác định trên bản
đồ) nhưng cũng có thể địa điểm xảy ra sự kiện ở một vùng đất nào đó (không gian
rộng). Như vậy có thể thấy địa điểm lịch sử khái quát hơn, qui mô hơn so với địa
danh lịch sử hay không gian lịch sử. Theo quan điểm của chúng tôi, trong DHLS
thống nhất sử dụng khái niệm “địa điểm lịch sử” là hợp lý hơn cả.
* Phân loại địa điểm của sự kiện lịch sử
Trong dạy học lịch sử, GV không thể cung cấp mọi kiến thức cho HS mà chỉ
có thể giúp các em nắm vững những kiến thức cơ bản của bài học. Kiến thức cơ bản
tức là kiến thức tối ưu, cần thiết cho việc hiểu biết của HS về lịch sử thế giới và lịch
sử dân tộc. Một trong những kiến thức đó là địa điểm lịch sử - nơi đã diễn ra sự kiện
lịch sử. Do đó, GV cần làm rõ cho HS hiểu những kiến thức về địa điểm lịch sử.
Dựa vào ý nghĩa địa điểm của sự kiện và khả năng nhận thức của HS, có thể
phân loại địa điểm lịch sử ở ba mức độ:
- Địa điểm cần biết: Theo như khái niệm về địa danh lịch sử thì đây là tên
gọi của một vùng miền, địa phương xảy ra sự kiện lịch sử. Do đó, với những “địa
điểm cần biết” nghĩa là HS chỉ cần biết sự kiện xảy ra ở đâu, kiến thức cơ bản cần
cung cấp cho học sinh, học sinh phải nghiên cứu không phải ở địa điểm xảy ra sự
kiện mà là nội dung sự kiện. Ví dụ như Hiệp định Giơnevơ năm 1954, địa điểm diễn
ra ở Giơnevơ thủ đô Thụy Sĩ, học sinh chỉ cần biết. Những nội dung cần phải nắm
vững chính là: bối cảnh Hội nghị, nội dung Hội nghị (những điều khoản của Hiệp
định) có ảnh hưởng, tác động như thế nào đối với sự phát triển của lịch sử Việt Nam
nói riêng, của Đông Dương nói chung.

11


- Địa điểm phải hiểu: như đã trình bày ở khái niệm, địa điểm lịch sử là nơi
chốn cụ thể xảy ra một sự việc nào đó. Vậy trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy

lịch sử, nếu không xác định được địa điểm của sự kiện thì sự kiện đó trở nên mơ hồ.
Bởi tách sự kiện ra khỏi địa điểm – bối cảnh nơi xảy ra sự kiện thì không thể nắm
được bản chất, ý nghĩa của sự kiện. Ví dụ Căn cứ địa Việt Bắc: “Căn cứ địa Việt
Bắc mà trung tâm là khu tam giác Thái Nguyên – Bắc Cạn – Tuyên Quang có một
vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường chính Bắc Bộ và thông thương với
bên ngoài. Việt Bắc có vùng rừng núi hiểm trở, che mắt và cản trở hoạt động của
địch, tạo thuận lợi cho hoạt động của ta, đặc biệt là ở giai đoạn đầu kháng chiến
tương quan so sánh lực lượng ta còn yếu hơn địch. Việt Bắc là vùng kinh tế tự cấp
tự túc khá phong phú, đồng bào các dân tộc ở đây vốn có truyền thống yêu nước và
cách mạng, được rèn luyện và thử thách từ rất sớm”. [8, tr.6] Là những điều kiện cơ
bản để Đảng và Bác Hồ chọn nơi đây làm căn cứ địa CM – hình ảnh nước Việt Nam
thu nhỏ.
Tuy nhiên tùy thuộc vào nội dung của bài, từng sự kiện và khả năng nhận
thức của học sinh để xác định kiến thức về địa điểm đó cần biết hay cần nhớ
nhiều…
- Địa điểm phải hiểu để vận dụng vào nhận thức lịch sử: trong dạy học lịch
sử, yêu cầu nhận thức lịch sử của học sinh không chỉ dừng lại ở biết mà cần phải
hiểu và vận dụng. Lịch sử mang tính hệ thống (tính lôgic lịch sử), mỗi sự kiện, hiện
tượng đều có liên quan với nhau, các địa điểm lịch sử diễn ra sự kiện cũng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, quá trình lên lớp của GV cần phải làm cho HS
thấy mối quan hệ đó trong tiến trình lịch sử, để từ đó HS ghi nhớ và vận dụng vào
những bài học, sự kiện tiếp theo có liên quan.
Ví dụ: Khi dạy mục III.1 của bài 18, sách giáo khoa Lịch sử lớp 12, giảng về
chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, giáo viên phải giúp học sinh hiểu vì sao Pháp
chọn tấn công lên Việt Bắc. Giáo viên phải giúp học sinh tìm hiểu về các mặt: Vị trí
địa lý, địa hình, điều kiện kinh tế xã hội, từ đó giúp HS rút ra được Pháp tấn công
lên Việt Bắc với âm mưu: tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, phá tan căn
cứ địa Việt Bắc, tiếu diệt quân chủ lực của ta, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Khi tìm hiểu về chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947, HS phải nhớ lại những
kiến thức về Căn cứ địa Việt Bắc đã được GV cung cấp ở bài trước, căn cứ địa Việt


12


Bắc là cái nôi của Cách mạng tháng Tám, là nơi được Đảng và Bác Hồ tin cậy chọn
làm căn cứ địa cách mạng – hình ảnh nước Việt Nam thu nhỏ. Từ đó lý giải được
Pháp chọn đây làm điểm tấn công đầu tiên sau khi chiếm các đô thị.
Như vậy, phải căn cứ vào ý nghĩa địa điểm của sự kiện, mức độ nhận thức
của học sinh để xác định được mục đích, yêu cầu cần đạt được khi dạy kiến thức về
địa điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử. Nói cách khác, xác định được mức độ
kiến thức về địa điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử có ý nghĩa rất lớn, giúp cho
người dạy lựa chọn kiến thức và các hình thức, biện pháp sư phạm phù hợp để tiến
hành bài giảng đạt hiệu quả cao.
* Đặc điểm của địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử
So với các yếu tố khác của sự kiện như: thời gian, nhân vật, diễn biến, kết
quả… thì địa điểm của sự kiện là yếu tố duy nhất còn lại (vật chất không mất đi).
Địa điểm xảy ra sự kiện là một phần của thế giới vật chất – nó có tính phức tạp và
có sự vận động thay đổi theo quy luật tự nhiên, đồng thời cũng có sự thay đổi bởi
con người (do con người tác động vào tự nhiên).
Vậy, địa điểm còn tồn tại ở đây chính là còn xác định được cả vị trí và những
dấu vết còn sót lại. Ví dụ: Điện Biên Phủ, cầu Hiền Lương, Dinh Độc lập, Quảng
trường Ba Đình… Đây chính là nguồn kiến thức tư liệu gốc cần khai thác phục vụ
cho dạy học lịch sử.
Về mặt nhận thức, địa điểm – nơi xảy ra sự kiện luôn luôn tồn tại, không hề
mất đi, bởi đã được xác định về mặt vị trí địa lý. Tuy nhiên, trong thực tế, địa điểm
còn tồn tại nhưng những dấu tích của địa điểm đó đôi khi không còn gì do quá trình
phát triển kinh tế - xã hội làm biến dạng, thay đổi mà không thể nhận ra được địa
điểm đó ở đâu. Như vậy, chúng ta xem xét địa điểm của sự kiện trên các mặt sau:
- Địa điểm của sự kiện gắn liền với sự lựa chọn của con người
Con người sinh sống và hoạt động có ý thức trong môi trường không gian

thời gian với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. Mọi sự kiện hiện
tượng lịch sử của xã hội loài người diễn ra ở đâu đều có sự tham gia trực tiếp và
gián tiếp của con người. Nếu không có con người tham gia vào những sự kiện đó thì
không thể là sự kiện lịch sử của xã hội loài người.

13


Chúng ta thường đặt câu hỏi sự kiện lịch sử đã diễn ra ở đâu? Vì sao nó diễn
ra ở nơi này mà không phải nơi khác? (chính là địa điểm xảy ra sự kiện). Con người
phải nhận thức được môi trường, bối cảnh, chọn lựa địa điểm để thực hiện mục đích
của mình cho có hiệu quả.
- Địa điểm có thể quan sát được (đến tận nơi)
Về nhận thức, địa điểm xảy ra sự kiện đều có thể đến được. Ví dụ như nước
Nhật – nơi Mĩ ném xuống hai quả bom nguyên tử trong chiến tranh thế giới thứ hai
năm 1945. Đây là địa điểm có thể đến được, nhưng chúng ta đang vận dụng vào
trong dạy học lịch sử. Vậy thầy trò ở trường THPT có thể đến đây tận mắt chứng
kiến những hậu quả để lại được hay không?
Để xem xét vấn đề này, chúng ta cần phải xem xét địa điểm đó xảy ra ở đâu?
Khoảng cách từ trường tới địa điểm lịch sử đó bao xa, để xác định được tính khả thi
của việc đưa học sinh đến học tập tại địa điểm của các sự kiện.
Ví dụ: Với các địa điểm tại Kinh thành Huế, đồn Mang Cá, trường Quốc
Học… thì học sinh ở thành phố Huế có điều kiện thuận lợi đến tận nơi để học tập.
Với các địa điểm trong chiến trường Điện Biên Phủ bao gồm: Đồi A1, hầm
Đờ Cát, sở chỉ huy của ta… thì những học sinh ở địa bàn Điện Biên Phủ có điều
kiện thuận lợi đến tận nơi để học tập, làm cho bài học trở nên hấp dẫn, sinh động
hơn, hiệu quả hơn.
- Địa điểm xảy ra sự kiện có thể mô hình hóa theo qui ước
Địa điểm còn tồn tại, đã đến thì cũng có thể quan sát được. Tuy nhiên, ở đây

những địa điểm không còn nữa thì sẽ như thế nào?
GV sẽ tiến hành cho HS quan sát gián tiếp, tức là dựa trên những đồ dùng
mô hình hóa như sa bàn, lược đồ, bản đồ, tranh ảnh… giúp HS có cái nhìn cụ thể
hơn về địa điểm diễn ra sự kiện.
Ví dụ: Sa bàn về chiến thắng Điện Biên Phủ ở bảo tàng, hay tranh ảnh về
hầm Đờ cát ở Điện Biên Phủ… Dù không được quan sát trực tiếp nhưng bằng hình
ảnh, mô hình cũng phần nào giúp cho bài học trở nên sinh động hơn.
Việc xác định những yếu tố trên của địa điểm giúp cho giáo viên lựa chọn
các hình thức và phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp tạo biểu tượng về địa
điểm của sự kiện lịch sử để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông.

14


1.1.2. Biểu tượng và biểu tượng về địa điểm của sự kiện lịch sử qua dạy
học lịch sử ở trường THPT
* Biểu tượng:
Theo các nhà Tâm lí học, trong quá trình tri giác thế giới bên ngoài, con
người phản ánh sự vật và hiện tượng xung quanh mình dưới dạng hình ảnh của các
vật thể đó. Các hình ảnh này được phản ánh và lưu giữ một thời gian đáng kể trong
ý thức con người. Hình ảnh đó là biểu tượng.
Trong Từ điển Tâm lí học (Vũ Dũng – Nxb KHXH – 2000) đã định nghĩa:
“Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ
lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu
tri giác chỉ liên quan đến hiện tại thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương
lai”.[3, tr.20]
Như vậy, biểu tượng được hình thành trên cơ sở những hình ảnh được lưu lại
trong vỏ não do cảm giác, tri giác phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng. Điều
này chứng tỏ “Biểu tượng là những tri giác được tích lũy lại, là sản phẩm tổng hợp
của các sự vật, hiện tượng”. [29, tr.63]

Cũng như hình ảnh tri giác, các hình ảnh của vật thể được giữ lại trong biểu
tượng luôn mang tính trực quan, cụ thể, chúng phản ánh mặt bên ngoài của sự vật,
hiện tượng. Nhưng trong trường hợp riêng lẻ, biểu tượng có thể phản ánh cả những
mặt bên trong của sự vật, hiện tượng, những sự vật mà các cơ quan thụ cảm không
tri giác trực tiếp, chỉ đạt được nhờ tư duy.
Nhìn chung, thông qua hoạt động (có sự tổ chức của thầy, có sự hỗ trợ của
bạn bè) học sinh sẽ có được biểu tượng cụ thể về các sự vật, hiện tượng có trong bài
học. Như vậy, việc tạo biểu tượng lịch sử cho HS cũng có những điểm riêng: “Biểu
tượng chỉ có được nhờ sự tổ chức của thầy, sự nỗ lực bản thân, sự hỗ trợ của bạn
bè và các phương tiện dạy học”. [16, tr.24]
Từ nhận thức chung về biểu tượng, chúng ta có thể hiểu rằng: Biểu tượng là
hình ảnh của sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ
sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được giữ lại trong ý thức . Biểu
tượng không phải hoàn toàn là thực tế, bởi vì nó xây dựng lại thực tế sau khi đã tri
giác.

15


* Biểu tượng lịch sử:
Lịch sử đã diễn ra và không lặp lại, các sự kiện lịch sử không thể dựng lại
trong phòng thí nghiệm. Vì vậy, con người không thể “trực quan sinh động” các
biến cố, hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ, mà không phải thông qua các nguồn sử
liệu để tái tạo bức tranh lịch sử đúng như nó tồn tại trên những nét chủ yếu nhất.
Các nguồn sử liệu trở thành đối tượng tri giác trong nhận thức lịch sử. Sử liệu càng
phong phú chính xác bao nhiêu thì con người càng có cơ sở để nhận thức lịch sử
sinh động, đúng đắn bấy nhiêu. Do vậy nhận thức lịch sử là quá trình nhận thức
mang tính đặc thù.
Do đặc điểm của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ trực
quan sinh động mà từ việc nắm sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tuy vậy, việc học

tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận thức qua hai giai đoạn
nhận thức cảm tính và lý tính. Có thể nói tạo biểu tượng là giai đoạn nhận thứ cảm
tính của quá trình học tập lịch sử.
Biểu tượng lịch sử không chỉ nảy sinh từ những tri giác đối với sự kiện có thật
mà còn trên cơ sở tiếp xúc với các nguồn sử liệu là những “mảnh quá khứ” còn lưu lại
để làm chỗ dựa cho việc tái tạo quá khứ lịch sử. Vì vậy, biểu tượng lịch sử là “biểu
tượng của trí tưởng tượng” [20, tr.74-75], nhưng đây là dạng tưởng tượng tái tạo.
Do đó, “Biểu tượng lịch sử là hình ảnh những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều
kiện địa lý… được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình
nhất” [13, tr.189]. Biểu tượng lịch sử là một dạng đặc biệt của nhận thức thế giới
khách quan. Tính đặc biệt của biểu tượng lịch sử được qui định bởi đặc trưng của
nhận thức lịch sử: sự kiện là hiện thực khách quan, chỉ diễn ra một lần và để lại dấu
vết một cách riêng lẻ. Để có được biểu tượng lịch sử, con người không thể trực tiếp
tri giác sự kiện hiện thực, mà phải trên cơ sở phương pháp khoa học (sưu tầm tư
liệu, xử lý phán đoán, mô phỏng sự kiện…) để tái tạo sự kiện lịch sử, phản ánh lịch
sử gần giống với hiện thực khách quan.
* Biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện:
Trên cơ sở khái niệm về biểu tượng lịch sử nêu trên, các nhà phương pháp đã
phân loại biểu tượng lịch sử, với các loại biểu tượng cơ bản đó là: Biểu tượng về
không gian, biểu tượng về thời gian, biểu tượng về nền văn hóa vật chất, biểu tượng
về nhân vật lịch sử. Trong đó, biểu tượng về không gian hay nói cách khác là biểu

16


tượng về địa điểm diễn ra sự kiện đóng một vai trò quan trọng trong dạy học lịch sử.
Biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện bên cạnh những nét chung với biểu tượng
lịch sử, nó còn có những nét riêng để tạo bức tranh trọn vẹn của lịch sử quá khứ.
Như chúng ta đã biết, bất cứ một sự kiện lịch sử nào đều diễn ra ở một địa
điểm, không gian xác định. Từ đó có thể khẳng định rằng: Biểu tượng về địa điểm

diễn ra sự kiện là hình ảnh về điều kiện địa lý. Nó tái hiện lại địa điểm diễn ra sự
kiện trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất.
Do đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng: “Biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện
lịch sử là hình ảnh về địa điểm – không gian lịch sử, nơi xảy ra sự kiện, có mối liên hệ
với những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa lý, những yếu tố kinh tế, xã hội…
được phản ánh trong óc học sinh những nét chung nhất, khái quát nhất”.[2, tr.12]
1.1.3. Ý nghĩa của việc tạo biểu tượng và biểu tượng về địa điểm diễn ra
sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Những nhà nghiên cứu đã nêu rõ vai trò, ý nghĩa của biểu tượng nói chung,
biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện nói riêng trong quá trình học tập lịch sử của
HS trên các mặt tư duy, cảm xúc, khát vọng, ý chí, hành động. Không tạo biểu
tượng thì hình ảnh lịch sử mà học sinh thu nhận được sẽ nghèo nàn, hiểu biết lịch sử
không sâu sắc, không phát triển tư duy, không có cơ sở hình thành khái niệm – giai
đoạn nhận thức lí tính của việc học tập lịch sử.
Do đó, việc tạo biểu tượng về địa điểm diễn ra sự kiện nói riêng và tạo biểu
tượng nói chung rất quan trọng đối với dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
- Về nhận thức: Việc tạo biểu tượng lịch sử có ý nghĩa giáo dục quan trọng
đối với học sinh. Trong quá trình học tập lịch sử, học sinh có thể không trực tiếp tri
giác, quan sát hiện thực quá khứ, nhưng vẫn phải tuân theo qui luật nhận thức: “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
[11, tr.179]
Trực quan sinh động trong học tập lịch sử là tạo biểu tượng lịch sử. Bởi vì
trên cơ sở nắm vững các sự kiện lịch sử, dựa vào những phương tiện trực quan và
các nguồn kiến thức khác, sử dụng các biện pháp sư phạm có hiệu quả, giáo viên tạo
cho học sinh các biểu tượng cụ thể, trên cơ sở đó hình thành khái niệm, nêu qui luật
và rút ra bài học kinh nghiệm cho lịch sử hiện tại.

17



Ví dụ: Khi dạy mục II.1 Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954
bài 20, SGK lớp 12 (Chương trình Chuẩn), GV kết hợp thuyết trình với “Lược đồ
hình thái chiến trường trong đông-xuân 1953-1954” để tạo biểu tượng cho HS về
những địa điểm mở các chiến dịch. Từ đó, giúp HS hiểu vai trò, ý nghĩa các chiến
dịch của ta nhằm phân tán lực lượng của địch trong giai đoạn này.
Việc tạo biểu tượng trong DHLS giúp HS dễ nhớ, dễ khắc sâu kiến thức lịch sử.
Trong một thời lượng có hạn với nhiều đơn vị kiến thức cần hình thành ở các em, nhiều
lúc GV chỉ áp dụng biện pháp sư phạm là thông báo. Bởi vậy, trong quá trình dạy học,
việc GV sử dụng phương pháp tạo biểu tượng sẽ rất thuận lợi, vừa đa dạng hóa phương
pháp dạy học, vừa nhấn mạnh thêm kiến thức học sinh cần ghi nhớ.
- Về thái độ:
Bộ môn lịch sử có ưu thế giáo dục hơn bất cứ bộ môn nào khác bởi đặc trưng
của nó. Việc tạo biểu tượng lịch sử có ý nghĩa giáo dục đối với học sinh, vì chỉ
thông qua những hình ảnh cụ thể, sinh động có sức gợi cảm mới tác động mạnh mẽ
đến tư tưởng tình cảm của các em. Khi nhận thức về hiện thức quá khứ, HS không
chỉ tri giác (nghe, nhìn, biết…) mà còn có những “rung động”, “rạo rực”, “xao
xuyến”. Những hiện tượng tâm lý đó thể hiện sự “nhập thân vào lịch sử” biểu thị
thái độ của HS đối với những gì mà các em nhận thức được.
Ví dụ: Khi dạy về Chiến dịch lịch Điên Biên Phủ, GV cung cấp cho HS kiến
thức về địa hình, điều kiện tự nhiên… ở Điện Biên Phủ và những khó khăn về
tương quan lực lượng của ta so với địch, những khó khăn về vận chuyển lương thực,
vũ khí… vào lòng chảo Điện Biên Phủ. Từ đó, hình thành ở HS suy nghĩ: trong
hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng quân và dân ta không ngại hi sinh, gian khổ
chiến đấu giành thắng lợi. HS thêm trân trọng, tự hào về chiến thắng của cha ông.
Việc tạo biểu tượng đúng phương pháp sẽ có tác dụng tăng thêm hứng thú
trong việc học tập, trong nhận thức của HS. Khi tiếp xúc với các biểu tượng về địa
điểm của sự kiện giúp cho việc tiếp thu kiến thức của HS bớt khô khan, được
“mềm” hóa rất nhiều mà không khí giờ học trở nên nhẹ nhàng, hứng thú. HS sẽ hiểu
kiến thức lịch sử sâu sắc hơn, phong phú hơn. Đồng thời, về mặt thái độ, các em sẽ
thấy yêu quê hương đất nước hơn, quí trọng những hi sinh của các anh hùng đã ngã

xuống… “Nó góp phần hinh thành xu hướng cộng sản trong cá nhân học sinh”.[20,
tr.77]

18


- Về kỹ năng:
Biểu tượng nói chung và biểu tượng lịch sử nói riêng là một trong những
phương tiện quan trọng làm cho hoạt động trí tuệ của học sinh không ngừng phát
triển. Biểu tượng lịch sử không chỉ khôi phục lại diện mạo lịch sử dưới dạng cảm
tính, mà còn dùng để phân tích, khái quát, giải thích các hiện tượng lịch sử. Biểu
tượng lịch sử là phương tiện kích thích sự phát triển trí tưởng tượng ở học sinh.
Việc tạo biểu tượng dựa trên các kĩ năng so sánh, phân tích, đối chiếu… sẽ
có tác dụng kích thích học sinh phải động não, góp phần rèn luyện kĩ năng, phát
triển tư duy trong học tập, giúp các em hiểu được bản chất sự kiện, hiểu được mối
quan hệ giữa các sự kiện trong một bài, một chương, giữa các giai đoạn trong lịch
sử. Từ đó, rút ra ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi (hoặc thất bại), bài học kinh
nghiệm và qui luật lịch sử.
Như vậy, việc tạo biểu tượng đã góp phần vào việc khôi phục lại bức tranh
lịch sử cho học sinh. Đồng thời, là cơ sở vững chắc để học sinh lĩnh hội và hiểu sâu
sắc bản chất sự kiện, nêu qui luật, rút ra bài học lịch sử, góp phần bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm, đạo đức cách mạng, hoàn thiện nhân cách và phát triển năng lực tư
duy lịch sử cho học sinh.
1.2. Thực tiễn của việc tạo biểu tượng và biểu tượng về địa điểm của sự
kiện lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường phổ thông
Để tăng tính hiện thực đồng thời tạo cơ sở vững chắc khi thực hiện đề tài,
chúng tôi đã tiến hành khảo sát và điều tra thực tiễn ở một số trường THPT. Phương
pháp khảo sát là đưa ra một số câu hỏi đối với các giáo viên trực tiếp giảng dạy lịch
sử, và tham khảo ý kiến của học sinh về ý nghĩa và thực trạng của việc tạo biểu
tượng về địa điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử nói chung và trong dạy học lịch

sử giai đoạn 1950-1954 nói riêng.
1.2.1. Đối với giáo viên
Chúng tôi xây dựng câu hỏi để thăm dò ý kiến của GV dạy bộ môn lịch sử ở
trường THPT Đông Hà, THPT Lê Lợi, THPT Phan Chu Trinh (Quảng Trị), THPT
Đào Duy Từ, THPT Đồng Hới (Đồng Hới – Quảng Bình) với nội dung sau:
- Tìm hiểu GV có thường xuyên tiến hành tạo biểu tượng về địa điểm diễn ra
sự kiện trong DHLS Việt Nam giai đoạn 1950-1954 hay không, GV đã tiến hành tạo
biểu tượng ở mức độ nào.

19


- Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của GV trong quá trình tạo biểu
tượng về địa điểm diễn ra sự kiện, đồng thời tìm ra hướng khắc phục để nâng cao
chất lượng dạy học lịch sử.
- Tìm hiểu những biện pháp sư phạm do GV đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả
việc tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử.
Qua xử lý phiếu trả lời, tổng hợp ý kiến thu được qua trao đổi chúng tôi thu
được kết quả như sau:
Đại bộ phận GV giảng dạy lịch sử đều nhận thức được tầm quan trọng của
việc tạo biểu tượng. Tuy nhiên, giữa nhận thức và hành động lại khác xa nhau. Thực
tế việc tạo biểu tượng còn rất nhiều bất cập. Đa số cán bộ giáo viên đều giảng dạy
theo phương pháp cũ – “thầy đọc trò chép”. GV phổ thông chỉ sử dụng SGK và sách
giáo viên, trong khi đó các tài liệu bên ngoài thiếu trầm trọng.Vì thế nhiều GV trong
dạy học đã rơi vào tình trạng đọc lại SGK. Mặt khác, do khó khăn về thời gian dạy
học trên lớp, thiếu thiết bị, phương tiện dạy học nên việc tạo biểu tượng cho học
sinh, hay dạy học phát huy tính tích cực của HS rất hạn chế.
Với thực tế như vậy, hệ quả tất yếu làm cho bài học khô khan, không gây
hứng thú đối với HS. Tình trạng này đòi hỏi phải khắc phục với nhận thức đúng đắn
và những biện pháp sư phạm có hiệu quả.

1.2.2. Đối với học sinh
Chúng tôi xây dựng hệ thống câu hỏi để điều tra với những nội dung cụ thể:
- Tìm hiểu hứng thú của HS đối với môn lịch sử ở trường phổ thông. Đồng
thời, nắm bắt được điều kiện học tập lịch sử ở trường THPT hiện nay.
- Tìm hiểu phương pháp học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950-1954 của học
sinh và thái độ của HS đối với lịch sử Việt Nam giai đoạn này.
- Học sinh đã ghi nhớ những địa điểm lịch sử nào ở giai đoạn 1950-1954? Vì
sao các em nhớ được các địa điểm đó?
Qua xử lý phiếu trả lời, tổng hợp các ý kiến, chúng tôi rút ra được:
Đa số học sinh đều cho rằng môn lịch sử khô khan, kiến thức về những thời
kỳ đã quá xa xôi, khó tưởng tượng mà các thầy cô chỉ thuyết minh bằng lời nói thì
rất khó khăn trong việc tiếp thu…
Hệ quả là HS chưa nắm được các sự kiện, cũng như địa điểm lịch sử diễn ra
sự kiện ở lịch sử Việt Nam (1950-1954) một cách bền vững. Dẫn đến tình trạng HS

20


nhầm lẫn giữa các địa điểm diễn ra sự kiện, HS chưa lí giải được vì sao sự kiện lại
xảy ra ở địa điểm này mà không phải là địa điểm khác. Do đó, HS chưa hiểu được
sâu sắc nội dung lịch sử Việt Nam giai đoạn này.
Qua công tác điều tra và xử lí số liệu chúng tôi rút ra một số kết luận khái
quát sau:
Việc tạo biểu tượng lịch sử nói chung, và tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra
sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950-1954 nói riêng ở trường
THPT, đã được nhiều GV nhận thức được tầm quan trọng nó. Song trên thực tế thì
vẫn chưa thực hiện có hiệu quả, chưa phát huy được tính tích cực của HS. Trong đó
có nhiều nguyên nhân cả về phía người dạy và người học.
Về phía người dạy chưa thật sự đổi mới về phương pháp dạy học, nhất là
chưa đưa ra được các biện pháp sư phạm hợp lý để tạo biểu tượng về địa điểm lịch

sử cho HS.
Về phía người học chưa thực sự hứng thú học tập lịch sử, đặc biệt là chưa
chủ động trong việc tiếp nhận kiến thức lịch sử.
Để khắc phục tình trạng đó cần phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học
lịch sử.
Việc tiến hành tạo biểu tượng về địa điểm của sự kiện phải được tiến hành
đồng bộ và toàn diện. Để thực hiện có hiệu quả việc tạo biểu tượng về địa điểm diễn
ra sự kiện trong dạy học lịch sử nói chung, dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn
1950-1954 nói riêng, GV cần phải cung cấp hệ thống tài liệu tham khảo về việc tạo
biểu tượng, câu hỏi và các bài tập nhận thức trong DHLS. Đồng thời, sử dụng các
loại ĐDTQ hợp lý nhằm tăng hứng thú, phát huy tính tích cực của HS.

21


Chương 2
NỘI DUNG BIỂU TƯỢNG VỀ ĐỊA ĐIỂM XẢY RA SỰ KIỆN TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1950 – 1954
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
2.1. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950–1954
Trong nội dung chương trình dạy học lịch sử bậc học phổ thông nói chung và
cấp học trung học phổ thông nói riêng thì lịch sử dân tộc đóng một vai trò rất quan
trọng. Việc học lịch sử dân tộc không chỉ dừng lại ở “biết” mà còn phải “hiểu”.
Trong chương trình lịch sử Việt Nam ở cấp trung học phổ thông, thì nội dung
đó được phản ánh trọn vẹn trong năm chương ở phần hai SGK lịch sử lớp 12: “Lịch
sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000”. Mỗi chương đóng một vai trò quan trọng
khác nhau, khái quát những chặng đường cách mạng của dân tộc ta do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950-1954 được thể hiện ở hai bài 19 và 20,
SGK lớp 12 (Chương trình Chuẩn). Nội dung chính của lịch sử Việt Nam giai đoạn

này được trình bày cụ thể:
Được Mĩ viện trợ, Pháp đã kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương,
tập trung lực lượng phòng ngự và bình định vùng tạm chiếm, nhất là ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ, đồng thời chuẩn bị mở các cuộc phản công với hi vọng giành lại
quyền chủ động chiến lược đã bị mất ở chiến trường Bắc Bộ. Ngày 6 – 12 – 1950,
chính phủ Pháp đã cử Đại tường Đờ Lát Đơ Tátxi nhi sang làm tổng chỉ huy quân
đội viễn chinh, kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương. Đơ Lát đã cho tập trung phần lớn
các tiểu đoàn cơ động chiến thuật thuộc lực lượng chiếm đóng ở Bắc Bộ, xây dựng
được 7 binh đoàn cơ động chiến lược (GM) và 4 tiểu đoàn dù bố trí ở các tỉnh phía
Bắc đồng bằng Bắc Bộ. Cuối năm 1951, Pháp đã đưa tổng quân số lên 338.000 tên,
đến năm 1953 là 465.000 tên.
Về phía ta, trong thời gian này quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
đạt được nhiều thành tựu trên mọi mặt. Giai đoạn này đánh dấu sự lớn mạnh của
nền dân chủ cộng hòa.

22


- Về chính trị, vào đầu năm 1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã họp ở
Vinh Quang, Chiêm Hóa (Tuyên Quang), từ ngày 11 đến 19 tháng 2 năm 1951. Đại
hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị do chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày,
báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do Trường Chinh đọc, thông qua Tuyên ngôn,
Chính cương và Điều lệ mới của Đảng. Đại hội đã quyết định tách Đảng Cộng sản
Đông Dương để thành lập ở Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một đảng MácLênin riêng biệt. Ở Việt Nam, Đại hội đã quyết định thành lập Đảng Lao động Việt
Nam và cho ra hoạt động công khai. Đại hội Đại biểu lần thứ hai của Đảng là một
sự kiện lịch sử trọng đại đánh dấu bước trưởng thành về tư tưởng, đường lối chính
trị của Đảng.
Tiếp theo Đại hội Đảng, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt
đã họp từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951. Đại hội đã quyết định thống nhất Việt Minh và
Liên Việt thành Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Việt

Minh), thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ của Mặt trận.
- Về kinh tế, kháng chiến càng phát triển, yêu cầu về kinh tế tài chính càng
cao. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp
mới toàn diện và có hiệu quả cao hơn trước. Về mặt ruộng đất, đến năm 1953, theo
số liệu điều tra trong 3035 xã đã trải qua cải cách ruộng đất thì nông dân đã sử dụng
đến 70,7% tổng số ruộng đất. Ngành công nghiệp quốc phòng vẫn tiếp tục giữ vững
sản xuất. Từ năm 1951-1953, từ Liên khu IV trở ra, chúng ta đã sản xuất được 1.310
tấn vũ khí đạn dược. Chính sách thuế mới được ban hành, góp phần đảm bảo nguồn
chi tiêu của nhà nước… Thắng lợi của nhiệm vụ kinh tế, tài chính của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa là thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế kháng
chiến, một nền kinh tế độc lập và tự chủ.
- Về đời sống văn hóa, giáo dục, y tế, văn hóa văn nghệ đã có một bước phát
triển mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào sự nghiệp giáo dục, động viên tinh thần yêu
nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nêu cao ý chí chiến đấu vì độc lập thống
nhất. Công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá,
phòng y tế được xây dựng khắp nơi; phong trào “ba sạch” và “bốn diệt” được đông
đảo quần chúng tham gia. Đời sống vật chất và tinh thần trong vùng tự do và căn cứ
du kích được ổn định và cải tiến rõ rệt.

23


- Đấu tranh trên mặt trận quân sự: Sau chiến dịch Biên giới, ta nhanh chóng
chấn chỉnh đội ngũ, mở một loạt cuộc tiến công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát
triển chiến tranh du kích, phá kế hoạch củng cố lực lượng và bình định đồng bằng của
địch, giữ vững quyền chủ động chiến lược của ta trên chiến trường chính. Đó là các
chiến dịch tiến công địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Cục diện chiến tranh ở Việt
Nam và trên toàn cõi Đông Dương đã chuyển biến mạnh mẽ, có lợi hơn cho quân và
dân Việt Nam, Lào và Campuchia, bất lợi cho thực dân Pháp và can thiệp Mĩ.
Mùa hè năm 1953, chính phủ Pháp triệu hồi tướng Xa-lăng về nước và cử

Nava sang làm chỉ huy các lực lượng quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Nava
đã vạch ra một kế hoạch chiến lược hi vọng trong vòng 18 tháng phải giành được
một thắng lợi quyết định về quân sự để làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có
“danh dự” cho Pháp. Kế hoạch quân sự Nava là một kế hoạch dựa trên sự nỗ lực
cao nhất của Chính phủ Pháp và sự viện trợ lớn nhất của Mĩ, với một số quân đông
nhất, một khối quân cơ động chiến lược mạnh nhất và một số phương tiện chiến
tranh nhiều nhất, kế hoạch tiến công với quyết tâm “chuyển bại thành thắng” của
chúng. Chính phủ Pháp đặt nhiều hi vọng vào kế hoạch tác chiến chiến lược này.
Nava đã tập trung mọi cố gắng xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn
cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Trong khi đó, quân và dân ta đã dốc sức người,
sức của và tinh thần chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ được diễn ra thành 3 đợt: đợt 1, bắt đầu từ 13-2,
đợt 2 bắt đầu ngày 30-3, đợt 3, bắt đầu từ ngày 1-5 và đến ngày 7-5-1954 thì kết
thúc. Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã toàn thắng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược
Đông-Xuân 1953-1954 của quân và dân Việt Nam, đánh bại kế hoạch quân sự Nava
làm sụp đổ niềm hi vọng của các giới quân sự và chính trị ở Pháp,làm xoay chuyển
cục diện chiến tranh, tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh ngoại giao thắng lợi ở Giơnevơ.
- Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: Phối hợp với cuộc tiến công chiến lược
Đông-Xuân 1953-1954, Đảng, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã mở
cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương đã
khai mạc tại Giơnevơ. Tham dự hội nghị có đại diện 9 nước. Với tư thế đại diện cho

24


một dân tộc vừa mới tạo nên chiến công Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, tại diễn
đàn hội nghị, Phạm Văn Đồng đã tuyên bố lập trường của chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương phải là một giải pháp toàn bộ

về chính trị và quân sự trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của từng nước ở Đông Dương. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23
phiên họp hẹp, ngày 31-7-1954 các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và
Campuchia lần lượt được kí kết.
Tóm lại, lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950-1954 có rất nhiều sự kiện quan
trọng gắn liền với những địa điểm lịch sử, địa danh lịch sử nổi tiếng trong cuộc
kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước của nhân dân ta cần phải giáo dục cho HS.
2.2. Nội dung kiến thức lịch sử Việt Nam giai đoạn 1950-1954 ở trường
THPT (Chương trình Chuẩn) học sinh cần nắm theo chuẩn kiến thức kĩ năng
và giảm tải của bộ GDĐT
* Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương
- Mĩ can thiệp vào cuộc chiến tranh:
+ Mĩ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương (12/1950), tăng
cường viện trợ cho Pháo và tay sai, từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương.
+ Tháng 9/1951, Mĩ kí với Bảo Đại Hiệp ước kinh tế Việt-Mĩ nhắm trực tiếp
ràng buộc Chính phủ Bảo Đại vào Mĩ.
- Kế hoạch Đờlát Đơ Tátxinhi:
+ Cuối năm 1950, Pháp đề ra kế hoạch ĐờLát Đơ Tátxinhi nhằm nhanh
chóng kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh.
+ Nội dung kế hoạch: xây dựng lực lượng cơ động chiến lược, xây dựng
phòng tuyến công sự bằng xi măng cốt sắt (boongke), lập vành đai trắng, đánh phá
hậu phương của ta.
+ Kế hoạch Đờlát Đơ Tátxinhi đẩy cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương
lên một quy mô lớn, cuộc kháng chiến của ta ở vùng sau lưng địch trở nên khó
khăn, phức tạp hơn.
* Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2/1951)
- Nội dung đại hội:

25



×