Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Bảo đảm quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ở cấp xét xử sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM VĂN HIẾN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM Ở CẤP XÉT XỬ SƠ THẨM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Các số liệu, ví dụ trong Luận văn là trung thực, những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng công bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa
học nào khác.
Tác giả

Phạm Văn Hiến



LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy tận tình và chu đáo của Quý thầy, cô, sự
giúp đỡ của các cơ quan, cùng với sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã
hoàn thành Luận văn Thạc sỹ Luật học. Qua đây, tôi xin gửi lời cám ơn đến:
Ban Giám hiệu cùng Quý thầy, cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các
Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức,
kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phan Thị Thanh Mai,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành Luận văn này.
Cám ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập.
Tác giả

Phạm Văn Hiến


BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQTHTT

:

Cơ quan tiến hành tố tụng

CQĐT


:

Cơ quan điều tra

CHXHCN

:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

NBC

:

Người bào chữa

NTHTT

:

Người tiến hành tố tụng

TAND


:

Tòa án nhân dân

TAQS

:

Tòa án quân sự

VKS

:

Viện kiểm sát


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƢỜI BÀO CHỮA Ở CẤP XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...............6
.

hái niệm bảo đảm quyền của người bào chữa ở cấp x t xử sơ th m vụ án

hình sự ......................................................................................................................6
. . Các biện pháp bảo đảm quyền của người bào chữa ở cấp x t xử sơ th m .........13
. .


nghĩa của hoạt động bảo đảm quyền của người bào chữa ở cấp x t xử sơ

th m .......................................................................................................................22
ẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................................. 24

CHƢƠNG 2. QU

ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ẢO ĐẢM

QU ỀN CỦA NGƢỜI ÀO CHỮA Ở CẤP

T

Ử SƠ THẨM VÀ

THỰC TRẠNG THI HÀNH ....................................................................... 25
. Quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền của người bào chữa ở
cấp x t xử sơ th m .................................................................................................25
2.2 Thực trạng thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm
quyền của người bào chữa .....................................................................................42
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................................. 56

CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA Ở CẤP XÉT XỬ SƠ
THẨM ......................................................................................................................57
3.1 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bảo đảm
quyền của người bào chữa ở cấp xét xử sơ th m ...................................................57
3.2 Một số giải pháp khác ......................................................................................63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .................................................................................................. 66


KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
1.T n

ấp

iế





i

Trong tố tụng hình sự, việc tham gia của người bào chữa (NBC) có vai trò rất
quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, hạn chế sự lạm quyền từ phía những người tiến hành tố tụng (NTHTT).
Đồng thời, hoạt động bào chữa của NBC cũng góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ
án và bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự. Hoạt động của NBC phải được tiến
hành theo các quy định của pháp luật. Các quy định pháp luật tố tụng hình sự là cơ
sở pháp lý quan trọng để NBC thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình. Chính vì
vậy, bên cạnh việc hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động bào chữa của
NBC nhằm tạo khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh, hợp lý, đáp ứng yêu cầu hoạt động
của NBC thì việc bảo đảm các quyền của NBC có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả chất lượng bào chữa. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 00 đã có những quy định cụ thể về quyền của NBC, đồng thời cũng quy định
trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), người tiến hành tố tụng

(NTHTT) trong việc đảm bảo cho NBC thực hiện được các quyền của mình trong
hoạt động bào chữa và những quy định khác điều chỉnh hoạt động bào chữa của
Luật sư. Có thể nói NBC là chìa khóa mở ra cánh cửa cho tất cả các quyền và trách
nhiệm của họ được pháp luật quy định. Rõ ràng là cả pháp luật hình sự và pháp luật
tố tụng hình sự là những vấn đề phức tạp và nó thường là khó hiểu nếu thiếu đi sự
tham gia của người bào chữa.[47,Tr.255]
Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về bảo đảm quyền của NBC
vẫn còn đang tồn tại nhiều bất cập. Các cơ chế bảo đảm và xác định trách nhiệm của
CQTHTT trong việc phải bảo đảm quyền của NBC vẫn còn chung chung và chưa
thật đầy đủ.

ặc dù các quyền của NBC đã được luật hóa, nhưng lại thiếu đi những

quy định mang t nh bắt buộc để bảo đảm việc thực hiện; chưa quy định đầy đủ về
trách nhiệm của NTHTT trong việc phải bảo đảm thực hiện quyền đó, vẫn thiếu đi
cơ chế giám sát việc thực hiện các quyền của NBC. Đặc biệt, chưa có đủ những chế
tài cần thiết đối với cơ quan và người THTT khi vi phạm các quyền của NBC. Hơn
nữa, thực trạng thi hành các quyền của NBC trên thực tế vẫn còn đang tồn tại những
vướng mắc. Việc nhận thức không đầy đủ về tầm quan trọng của NBC là nguyên

1


nhân cơ bản dẫn đến thực trạng NBC không thể thực hiện được hết chức năng,
quyền hạn của mình khi tham gia tố tụng.
Nhận thức được tầm quan trọng của NBC trong hoạt động tố tụng, trong
những năm gần đây Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều ch nh sách để xác định rõ
hơn vị trí, vai trò của NBC, đồng thời nâng cao hơn nữa vai trò của họ khi tham gia
tố tụng. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược Cải
cách Tư pháp đến năm 0 0 đã nhấn mạnh: “phải xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,

trách nhiệm của NTHTT và người tham gia tố tụng và người tham gia tố tụng theo
hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Đặc biệt,
lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được ghi nhận tại một văn bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất – Hiến pháp 2013:“…Nguyên tắc trong tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm…” Muốn thực hiện được chủ trương lớn của Đảng về Cải
cách Tư pháp và để thực hiện Hiến pháp 2013 thì không còn cách nào khác là phải
bảo đảm các quyền của NBC và nâng cao vị thế của NBC.
Ch nh vì vậy, tác giả Luận văn nhận thấy việc nghiên cứu đề tài :
ố tụng hình sự Việ
là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Đề tài nghiên cứu, một mặt góp phần vào định
hướng việc thực hiện nhiệm vụ của Cải cách tư pháp, mặt khác giúp các cơ quan
tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án cấp sơ th m có cái nhìn đúng đắn hơn về vị
tr , vai trò cũng như cần thiết phải bảo đảm quyền của NBC khi tham gia tố tụng.
2. T n

n n

i n



i

Nghiên cứu về NBC là một vấn đề không mới trong khoa học pháp lý hiện
nay. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu về NBC. Trong đó,
phải kể đến cuốn sách Vai trò của Luật sư trong TTHS của TS. Nguyễn Văn Tuân,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, năm 00 ;
trong p


nt

t

tr v

tr



, PG .T Phạm Hồng Hải, trên Tạp ch

uật sư

o

uật học số 0

00 ;

Thực hiện quyền bào ch a của b can, b cáo trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ
Luật học của Hoàng Thị

inh ơn năm 00 ;

Văn Quế, Tạp ch Tòa án nhân dân số 0
sự, T Nguyễn

n ngư


00 ; gư

o

ai Bộ, Tạp ch Nhà nước và pháp luật số 0

2

o

, Ths. Đinh

trong vụ n
;

n

t số v n ề


uận v t ự t n trong v ệ t ự t
qu ền ủ
Tạp ch

qu

uật sư trong qu tr n t
iểm sát số 0
t


g

00 ;

n ng ề ủ

p

uật sư trong g

o

nt

00 ;

ủ p

tố tụng

n về v ệ

tr n tụng t

Dân chủ và Pháp luật số 0

g

n


p uật n

n sự, T Phan Trung Hoài,

qu ền

n

n

t

p



nt

ng t uận
o n

t

n sự, Tạp ch

uật tố tụng

uật sư trong g

o n


ng

ề n ng

o
ov


tr



t

v
T

n ố v
nv

uật học

o

t số g
0

;


p
ng

o t

ov t
t số qu

, Th Nguyễn Hải Ninh đăng trong Đề tài
n sự n

n ng

uật sư, Đại học uật Hà Nội năm 0
uật sư trong tr n tụng trư

uật sư trong tr n tụng t

p

nt

n sự

ng

p o n

t


p uật tố tụng

ệu qu

ng

n ng

s t

o

o t

00 ; Ho n t ện

T Nguyễn Văn Tuân, Tạp ch Dân chủ và Pháp luật số 0


uật sư

n sư n

khoa học cấp trường Ho n t ện p
o t

ng ủ

n sự, Nguyễn Văn Trượng, Tạp ch


t ện, Th Nguyễn Hữu Ch nh,Tạp ch Tòa án nhân dân số


o

u

o
o


ệu qu

; T ự tr ng v v n
u

tư p

0 0; T ự tr ng v


T

p,
tr

n trong t

gian qua, Th . Nguyễn Văn Hiển, Tạp ch Nhà nước và pháp luật số 0


0 0; Ho n

t ện p p uật tố tụng

o

n sự n

uật sư, T Phan Thị Thanh

n ng

o

ệu qu

o t

ng



ai, Đề tài khoa học cấp trường, Đại học uật Hà Nội

năm 0 .
Đây là những công trình khoa học, bài viết nghiên cứu khoa học nghiên cứu
về vị tr , vai trò cũng như hoạt động của NBC mà chủ yếu là nghiên cứu về vị tr ,
vai trò của uật sư khi tham gia tố tụng nói chung. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu khoa học trên mới chỉ dừng lại ở việc làm rõ nội dung quyền của NBC, hoặc
mới chỉ để cấp đến việc xác định trách nhiệm, quyền hạn của NBC khi tham gia vào

từng giai đoạn tố tụng khác nhau. Hơn nữa, hiện nay chưa uận văn nào nghiên cứu
một cách tổng thể về quyền và bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m vụ án
hình sự.
3. Mụ

n iệm ụ n

i n

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của NBC tại cấp
x t xử sơ th m vụ án hình sự, tác giả Luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm

3


nâng cao hiệu quả việc bảo đảm tốt hơn quyền của NBC ở cấp xét xử sơ th m, đáp
ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
Với mục đ ch trên, nhiệm vụ của uận văn là:
- Xây dựng khái niệm khoa học về bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ
th m vụ án hình sự; làn rõ nội dung của hoạt động bảo đảm quyền của NBC và ý
nghĩa của hoạt động bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m vụ án hình sự
- Nghiên cứu các quy định của B TTH năm 00 về quyền của NBC và bảo
đảm quyền của NBC những quy định pháp luật có liên quan; xác định những bất
cập của các quy định này.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động bảo đảm quyền của NBC ở cấp xét xử sơ
th m tìm hiểu những vướng mắc, hạn chế trong hoạt động này
- Đề xuất những kiến nghị cụ thể sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật
TTHS và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả cho hoạt động bảo đảm
quyền của người bào chữa đạt hiệu quả cao hơn.
4. Đối ƣ n n i n

p ạm i n i n

- Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của người bào chữa ở cấp x t xử sơ
th m
- Quy định của B TTH năm 00 và những văn bản có liên quan về bảo
đảm quyền của người bào chữa ở cấp x t xử sơ th m vụ án hình sự
- Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền của người bào chữa ở cấp x t
xử sơ th m trong TTH Việt Nam
- Về lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu việc Tòa án bảo đảm quyền của NBC ở
cấp xét xử sơ th m mà không nghiên cứu trách nhiệm của các CQTHTT khác, các biện
pháp bảo đảm quyền của NBC và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử
sơ th m.
- Về pháp luật, đề tài tập trung nghiên cứu quy định của B TTH năm 00 .
Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu các văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác có liên quan
đến liên quan đến hoạt động bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m.
- Về thực trạng, đề tài nghiên cứu hoạt động bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử
sơ th m vụ án hình sự trong phạm vi năm từ năm 0 0 đến năm 0 và một số vụ
việc có liên quan khác.

4


5. P ƣơn p áp n i n u
Trong đề tài này, chúng tôi vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng của triết học Mác- ênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và về
nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con
người, về vấn đề cải cách tư pháp và về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu.
Chúng tôi chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp
với nội dung nghiên cứu đó là phương pháp phân t ch, phương pháp tổng hợp,

phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia khi nghiên
cứu đề tài này.
6. Những kết quả nghiên c u mới củ ề tài
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách toàn diện về bảo đảm
quyền của NBC ở cấp xét xử sơ th m
Thứ nhất, Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền
của NBC ở cấp xét xử sơ th m góp phần vào việc nhận thống nhất về khái niệm, nội
dung cũng như ý nghĩa của hoạt động bảo đảm quyền của NBC trong cấp xét xử sơ
th m.
Thứ hai, Luận văn phân t ch, đánh giá những quy định của pháp luật là cơ sở
để bảo đảm quyền cho NBC khi tham gia phiên tòa ở cấp sơ th m. Đồng thời, Luận
văn cũng phân t ch thực trạng thi hành quy định đó trên thực tế đồng thời chỉ ra
nguyên của thực trạng đó.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng đó,
Luận văn đã đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng
hình sự, cũng với đó là một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng thi hành các quy
định đó.
. Cơ ấ ề i
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, uận văn gồm
chương:
Chương : ột số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của người bào chữa ở cấp
x t xử sơ th m
Chương : Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về bảo đảm
quyền của người bào chữa ở cấp x t xử sơ th m và thực trạng thi hành
Chương : ột số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm
quyền của người bào chữa ở cấp x t xử sơ th m
5


CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƢỜI BÀO CHỮA Ở CẤP XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1
án

n

ái niệm ảo ảm q

ền ủ n ƣời bào chữ ở ấp

ử ơ

m ụ



Hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một khái niệm chung
nhất về bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m vụ án hình sự. Các khái niệm
trong khoa học pháp lý hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về vị tr , vai trò
của NBC. Do đó, việc tìm hiểu và xây dựng khái niệm trên là rất cần thiết.

ột mặt,

giúp chúng Tòa án có câu trả lời câu hỏi tại sao phải bảo đảm quyền của NBC và sự
cần thiết phải bảo đảm quyền của họ.

ặt khác, bổ sung thêm quan điểm khoa học

về bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m. Trong nội hàm khái niệm bảo

đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m có một số nội dung mà chúng Tòa án cần
phải lần lượt đi làm rõ: Cấp x t xử sơ th m là gì Thế nào là hoạt động bảo đảm
quyền của người bào chữa

au khi lần lượt làm rõ các vấn đề trên chúng ta s có

một khái niệm chung về bảo đảm quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m vụ án hình
sự.
Trước hết có thể thấy, cấp xét xử sơ th m được coi là cấp xét xử thấp nhất.
Xét xử sơ th m được tiến hành theo trình tự, thủ tục do B TTH quy định, trong
đó, Tòa án cấp sơ th m có th m quyền, sau khi nghiên cứu toàn diện, khách quan và
đầy đủ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử công khai nhằm xác định có
hay không hành vi phạm tội xảy ra, một người có phải là người đã thực hiện hành vi
phạm tội xảy ra hay không, để từ đó ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của
Viện kiểm sát (V

) đã truy tố. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hoạt động

xét xử của Tòa án được coi là khâu trung tâm, bởi nó “thể hiện đầy đủ nhất bản chất
của hệ thống tư pháp của Nhà nước, là giai đoạn quyết định t nh đúng đắn, khách
quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và của
công dân.”[ ]
Khi tiến hành hoạt động xét xử, Tòa án với tư cách là CQTHTT thực hiện
chức năng x t xử vụ án, giải quyết những vấn đề bản chất của vụ án, bao gồm: định

6


tội danh, quyết định hình phạt đối với người có hành vi phạm tội. Như vậy, có thể
thấy, cấp xét xử sơ th m có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết đúng

đắn, khách quan vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Nhiệm vụ hàng đầu của xét xử sơ th m là giải quyết
chính xác, hợp tình, hợp lý. Điều này thể hiện qua việc xác định sự thật khách quan
của vụ án; xác định các quy phạm pháp luật để áp dụng trng trường hợp cụ thể của
vụ án; ra phán quyết trê cơ sở sự thật khách quan được xác định theo các quy định
của pháp luật. Không những vậy, cấp xét xử sơ th m còn có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Bởi l , quá trình chứng minh được
thực hiện công khai trực tiếp tại phiên tòa. Việc chứng minh được các chủ thể có
quyền và lợi ích khác nhau thực hiện một cách dân chủ và bình đẳng. Những người
tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng mà pháp luật quy định
cho họ như quyền đưa ra chứng cứ và các yêu cầu, quyền đề nghị người thay đổi
tiến hành tố tụng…họ được tại điều kiện pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình liên quan đến vụ án. Chính phiên tòa ở cấp xét xử sơ th m là nơi thể
hiện đầy đủ nhất các nguyên tắc tố tụng hình sự, cũng ch nh ở đây quyền của những
người tham gia tố tụng, NBC được thể hiện và bảo đảm thực hiện. Với tầm quan
trọng đó, cấp xét xử sơ th m được hiểu như thế nào. Hiện nay, đang tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cấp x t xử sơ th m được hiểu là: “hoạt động x t xử một
vụ án với tư cách là Tòa án ở cấp x t xử thấp nhất”.[

]

Quan điểm thứ hai: “Cấp x t xử sơ th m là cấp x t xử lần đầu bản án hoặc
quyết định của Tòa án cấp sơ th m sau khi tuyên án mười lăm ngày, nếu không có
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật thì s có hiệu lực pháp luật.[

]

Quan điểm thứ ba: “Cấp x t xử sơ th m là x t xử lần đầu để giải quyết tất cả
những vấn đề liên quan trong vụ án. Trong cấp x t xử sơ th m, Tòa án xem x t và

giải quyết mọi vấn đề của vụ án bằng việc ra bản án và quyết định. Hội đồng x t xử
có hội th m nhân dân tham gia. Trong thời gian kháng cáo, kháng nghị, bản án và
quyết định sơ th m chưa có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo
trình tự phúc th m”.[

, Tr. 0-221]

7


Tất cả các quan điểm trên đều thừa nhận cấp x t xử sơ th m là cấp x t xử thứ
nhất, cấp x t xử thấp nhất vụ án hình sự. Tòa án cấp sơ th m thực hiện chức năng
x t xử của mình từ khi nhận hồ sơ vụ án và vào sổ thụ lý vụ án cho đến khi bản án
hoặc quyết định đó có hiệu lực pháp luật. Hay nói đúng hơn, bản án, quyết định đó
của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc th m. Tuy nhiên, các
khái niệm, quan điểm trên theo tác giả chưa làm rõ được bản chất nội dung của cấp
x t xử sơ th m. V dụ như quan điểm đầu tiên mang nặng t nh hình thức, chưa làm
rõ nội dung thuộc về bản chất của cấp x t xử sơ th m là cấp x t xử lần đầu bản án,
quyết định của Tòa án sơ th m tuyên chưa có hiệu lực pháp luật mà còn có thể bị
kháng cáo, kháng nghị. Hay như quan điểm thứ hai, thì lại chưa ch nh xác ở ch
không phải mười lăm ngày sau khi tuyên án không có kháng cáo, kháng nghị là bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành mà có khi phải sau thời hạn
dài hơn…Do đó, để khắc phục những hạn chế nêu trên, chúng ta có thể đưa ra một
cách hiểu về cấp x t xử sơ th m như sau:
vụ n

n sự v

ng ng


n n qu t
t

t

nn

p

nh củ t
pp

t
n

s t
ps t

p xét x thứ nh t
t

ng

o

t

Theo đó, cấp xét xử sơ th m có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thời điểm bắt đầu được xác định từ khi hồ sơ vụ án cùng với bản cáo trạng
của V


được chuyển sang Tòa án có th m quyền. Sau khi vụ án đã được thụ lý,

Chánh án Tòa án phân công Th m phán (hoặc một nhóm Th m phán) nghiên cứu hồ
sơ và tham gia tố tụng tại phiên Tòa với tư cách là chủ tọa hoặc Th m phán xét xử;
- Thời điểm kết thúc bằng việc Tòa án cấp sơ th m ra bản án hình sự do Hội
đồng xét xử tuyên tại phiên Tòa hoặc quyết định đình chỉ vụ án;
- Nhiệm vụ của Tòa án cấp sơ th m là xem xét và giải quyết nội dung vụ án
theo quy định của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Bên cạnh Tòa án cấp sơ th m đóng vai trò ch nh trong hoạt động xét xử, còn
có sự tham gia tố tụng của những chủ thể khác như: đại diện VKS, bị cáo, người
bào chữa, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch…
Khác với các chủ thể còn lại khi tham gia tố tụng, NBC tham gia tố tụng không
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính bản thân mình. Nếu những chủ thể khác

8


khi tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc người mà
họ đại diện thì NBC tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ch hợp pháp cho
người đang bị cáo buộc có hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, sự tham gia tố tụng của
NBC còn góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.[ ] Muốn làm tốt được điều này trước hết, NBC phải tôn trọng sự
thật và tôn trọng pháp luật. Bên cạnh đó, muốn góp phần bào việc bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo trên cơ sở
của pháp luật. NBC phải chú ý cả hai nhiệm vụ trên. Nếu chỉ chú ý đến nhiệm vụ bảo
vệ quyền lợi của bị can, bị cáo thôi thì s dấn đến tình trạng ngụy biện. Ngược lại,
nếu chỉ chú ý đến bảo vệ pháp luật thì có thể biến mình thành người buộc tội bị can,
bị cáo.[25,Tr.68] Vậy NBC được hiểu như thế nào? Hiện nay, trong khoa học pháp lý

chưa có một định nghĩa thống nhất về NBC. ở dĩ tồn tại nhiều quan điểm khác như
vậy, xuất phát từ việc B TTH năm 00 không đưa ra khái niệm cụ thể về NBC.
Ch nh vì vậy, khi nghiên cứu về chế định NBC, m i tác giả lại xây dựng riêng cho
mình một khái niệm trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Điều

B TTH năm 00 quy định có ba chủ thể có tư cách của NBC, bao

gồm: Luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân
dân. Khoản

Điều

quy định: “Người bào chữa có thể là:

a) Luật sư;
b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Bào chữa viên nhân dân”.
Trước hết, uật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật, tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ch
hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật.[ 0, tr.

] Theo Điều

uật luật sư năm 00 : “ uật sư là người có đủ tiêu chu n, điều kiện hành nghề
theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức (sau đây gọi là khách hàng)”. Người muốn được hành nghề luật sư phải
gia nhập một đoàn luật sư, phải có đủ các điều kiện theo quy định của uật luật sư, cụ
thể là theo quy định tại Điều 0 uật luật sư: “Công dân Việt Nam, trung thành với
Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời

gian tập sự, hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở

9


thành luật sư”. Và khi đã đạt đủ điều kiện theo quy định tại Điều 0 còn phải hội đủ
điều kiện hành nghề luật sư theo quy định được quy định tại Điều

uật luật sư:

“Người có đủ tiêu chu n quy định tại Điều 0 của uật này muốn được hành nghề
uật sư phải có chứng chỉ hành nghề và gia nhập một Đoàn luật sư”.
Hiện nay, do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân Tòa án còn
nhiều hạn chế nên khi nói đến NBC là chỉ nghĩ ngay tới Luật sư. Còn những người
khác không phải là Luật sư thì không được coi là NBC. Trong quá trình soạn thảo
B TTH năm 00 cũng có ý kiến đề nghị chỉ quy định Luật sư là người bào chữa.
Còn những người khác nếu bào chữa thì quyền và nghĩa vụ của họ như đối với Luật
sư. Nhưng ý kiến này đã không được chấp nhận, vì Luật sư là khái niệm nghề
nghiệp, còn người bào chữa là khái niệm tố tụng. Tuy nhiên, khi nói đến NBC,
người Tòa án thường nghĩ đến Luật sư, vì uật sư là nhân vật trung tâm của hoạt
động bào chữa.[19]
Bên cạnh Luật sư, người đại diện hợp pháp cũng có tư cách của NBC khi
tham gia tố tụng. Theo đó, người đại diện hợp pháp là cha m hoặc người giám hộ
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về
thể chất, tinh thần.[ 0,tr.

] Bao gồm: người đại diện hợp pháp cho bị cáo là bố

m đ , bố m nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định
của pháp luật đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm

về thể chất, tinh thần. Họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp.
Nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là NBC thì họ có quyền và nghĩa vụ như
NBC.[19,Tr.17]
Một chủ thể khác cũng có tư cách của NBC đó là bào chữa viên nhân dân.
Chức danh Bào chữa viên nhân dân ở nước Tòa án ra đời trên cơ sở ắc lệnh số
ngày

và chế định bào chữa viên nhân dân vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Theo đó, bào chữa viên nhân dân là người được Ủy ban
Nam, tổ chức thành viên của Ủy ban

ặt trận Tổ quốc Việt

ặt trận Tổ quốc Việt Nam cử NBC cho thành

viên của tổ chức mình trong những trường hợp theo quy định của pháp luật để đảm
bảo quyền và lợi ch ch nh đáng của bị can, bị cáo trong những trường hợp do pháp
luật quy định. Bào chữa viên nhân dân khi tham gia tố tụng với tư cách là NBC đều
có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho NBC.

10


Pháp luật một số quốc gia trên thế giới cũng có những quy định rất khác nhau
về NBC.
Pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc quy định:“ hi một người bị truy tố
và đưa ra x t xử, người đó có quyền tự bào chữa hoặc yêu cầu sự giúp đỡ của uật
sư, trong trường hợp, công tố viên truy tố trước Tòa án và nếu bị cáo không yêu cầu
người bào chữa thì Tòa án phải chỉ định NBC cho người đó. Bào chữa viên do Tòa

án chỉ định là uật sư chuyên nghiệp”.
uật Tố tụng hình sự của iên Bang Nga thì: “Người bào chữa có thể là Luật
sư hoặc đại diện của tổ chức công đoàn và tổ chức xã hội đối với thành viên của họ,
hoặc những người khác trong những trường hợp do pháp luật quy định. Tòa án hoặc
Th m phán có thể quyết định công nhận người bào chữa là người thân thích hoặc
người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. (Điều 47)
Luật Tố tụng hình sự của Hàn Quốc: “Người bào chữa phải là Luật sư. Trong
trường hợp đặc biệt, trừ Tòa án tối cao thì các Tòa án khác có thể đồng ý cho việc
cử người không phải Luật sư làm người bào chữa” (Điều 34)
BLTTHS Nhật Bản cũng có quy định tương tự: “Ở Tòa giản lược, Tòa án gia
đình hoặc Tòa án khu vực, Luật sư bào chữa có thể được lựa chọn trong số những
người chưa hành nghề Luật sư nhưng với sự cho phép của Tòa án. Tuy vậy, điều đó
áp dụng ở Tòa án khu vực chỉ đối với những vụ án đã có một Luật sư bào chữa khác
được lựa chọn trong số những Luật sư đang hành nghề”. (Điều 31)[25]
ặc dù quan niệm về NBC của một số quốc gia trên thế giới có nhiều khác
biệt, nhưng nhìn chung, nhưng đều có đặc điểm chung là người có kiến thức pháp lý
được bị can, bị cáo hoặc người được pháp luật cho ph p đề tiến hành hoạt động bào
chữa nhằm mục đ ch bảo vệ quyền và lợi ch hợp pháp của người bị tạm giữ, người
bị tinh nghi, bị can, bị cáo. Như vậy có thể hiểu: NBC trong tố tụng hình sự l ngư i
tham gia tố tụng
củ ngư i b bu c t

chứng minh sự vô t i hoặc làm gi m nhẹ trách nhiệm hình sự
g p ngư i b bu c t i về mặt pháp lý nh m b o vệ quyền và

l i ích h p pháp của họ t ông qu

o vệ pháp ch xã h i chủ ng ĩ

Đề nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo, bảo vệ pháp luật, pháp chế

xã hội chủ nghĩa, khi tham gia tố tụng, NBC được trao một số quyền năng nhất định
để thực hiện nhiệm vụ của mình. Đồng thời, song song với đó, pháp luật quy định

11


thêm các cơ chế bảo đảm để các quyền năng đó được thực hiện. Đây là một công
cụ, phương tiện quan trọng để NBC thực hiện được nhiệm vụ của mình. Có thể
thấy, ở m i giai đoạn tố tụng, NBC lại có nhưng quyền năng khác nhau. Trong giai
đoạn điều tra NBC có quyền có mặt khi lấy lời khai, có quyền đề nghị cơ quan điều
tra thông báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị
can, gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam...hay trong giai đoạn
x t x t xử NBC có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa, có quyền đưa ra các
tài liệu đồ vật, yêu cầu, có quyền khiếu nại quyết định tố tụng hoặc hành vi tố tụng
của Tòa án. NBC s sử dụng những quyền năng này để tham gia tố tụng nhằm bảo
vệ lợi ch hợp pháp cho người mà mình nhận bảo vệ và cùng với các cơ quan tiến
hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án.
Khi tham gia tố tụng, các chủ thể được pháp luật ghi nhận một số quyền năng
pháp lý nhất định và được bảo đảm thực hiện bằng các cách thức, phương tiện, biện
pháp khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của các hoạt động tố tụng.[

,Tr.

-

]

Theo Từ điển uật học, thuật ngữ “quyền” được hiểu là “những điều mà pháp luật
công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân, tổ
chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn

chế”[

]. Còn thuật ngữ “bảo đảm” được nhìn nhận dưới hai góc độ khác nhau.

Trong Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được hoặc đủ những gì cần thiết”.[

]. Từ điển uật học định nghĩa

cụ thể hơn khi cho rằng: “Bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được những điều
cần thiết là trách nhiệm của một chủ thể (cá nhân hoặc tổ chức) phải làm cho quyền
và lợi ch hợp pháp của bên kia chắc chắn được thực hiện, được giữ gìn nếu xảy ra
thiệt hại thì phải bồi thường.”[

]

Tóm lại, trên cơ sở phân t ch các quan điểm, có thể đưa ra khái niệm chung
nhất về bảo đảm quyền của NBC trong tố tụng hình sự ở cấp x t xử sơ th m như
sau:
T

o
nv n

qu ền ủ
ng ngư

trong tố tụng hình sự
t


n ệ t ực hiện nghiêm chỉn
t ực hiện ư

qu ền
qu

p

t

p
n

t

u vụ n

nh của pháp luật v t o

ủ các quyền n ng

12

s t

TTHS qu

vệ

n sự


tr

ều ện

nt

nh.

t


1.2. Cá

iện p áp ảo ảm q

ền ủ n ƣời bào chữ ở ấp

ử ơ

m

1.2.1 Biệ
Thực chất của hoạt động bảo đảm về mặt pháp lý là chúng ta tạo ra hành lang
pháp lý cần thiết và đủ mạnh để các quyền năng đó được thực hiện trên thực tế. Có
thể thấy, hoạt động bào chữa là một trong ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự.
Hoạt động bào chữa của NBC không chỉ là phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội mà còn góp phần quan trọng trong việc xác định sự
thật của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng
pháp luật, đảm bảo không làm oan người vô tội. NBC thông qua hoạt động của

mình đã góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ của tố tụng hình sự đó
là phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm.[22] Muốn làm được như vậy, trước hết, pháp luật phải có
những quy định mang tính toàn diện, đồng bộ, minh bạch và phù hợp để làm cơ sở
pháp lý cho NBC thực hiện hoạt động bào chữa, những quy định có sự ràng buộc
trách nhiệm của cơ quan và NTHTT trong việc bảo đảm cho NBC thực hiện quyền
của mình, tạo môi trường pháp lý tốt để NBC thực hiện hoạt động bào chữa. Song
song với đó, phải quy định về chế tài xử lý đối với những hành vi trái pháp
luật. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà người có hành vi vi phạm
pháp luật s phải gánh chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự hoặc
trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh đó, luật pháp phải quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của các
chủ thể có th m quyền tiến hành tố tụng khi hạn chế hoạt động bào chữa của NBC
một cách trái pháp luật. Những quy định này là cơ sở để những người có th m
quyền tiến hành tố tụng nhận thức rõ trách nhiệm và điều chỉnh hành vi tố tụng của
mình. Phải xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền của NBC. Đồng thời, phải có
cơ chế giám sát hoạt động tố tụng hình sự và vận hành tốt cơ chế này để kịp thời
yêu cầu các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong việc

13


bảo đảm quyền của Luật sư và phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi xâm
phạm trái phép hoạt động bào chữa của NBC.
ặc dù hoạt động bảo đảm các quyền của NBC không được xác định là một
trong những nguyên tắc hiến định hay luật định, nhưng cơ sở pháp lý của việc bảo

đảm quyền của NBC được B TTH xác định thông qua các quy định mang tính
nguyên tắc chung, những quy định mang tính thủ tục bắt buộc đối với các CQTHTT
và những quy định xác định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng khi tiến hành giải quyết vụ án. Cụ thể, Điều

của B TTH năm

00 quy định: “Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải
chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình. Người làm trái pháp luật
trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, x t xử, thi hành án thì tùy theo
t nh chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Hoạt động bảo đảm quyền của NBC còn được thông qua nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng trước tòa án được quy định tại Điều

B TTH

00 :“ iểm sát viên, bị

cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan
của vụ án”. Đây là những quy định mang t nh nguyên tắc, định hướng nhằm xác
định trách nhiệm của CQTHTT, NTHTT trong việc bảo đảm quyền của những
người tham gia tố tụng nói chung và của NBC nói riêng.
Ngoài những quy định mang t nh nguyên tắc trên, rải rác trong một số điều
luật của B TTH năm 00 cũng đã quy định về trách nhiệm bảo đảm các quyền
của NBC ở cấp xét xử sơ th m như Điều

Điều

về giao các quyết định của Tòa án;

về sự có mặt của NBC; Điều 202 về giải quyết việc đề nghị thay đổi Th m

phán, Hội th m, Kiểm sát viên, Thư k Tòa án, người giám định, người phiên dịch;
Điều 205 giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người
vắng mặt; Điều

đối đáp... ặc dù chưa ghi nhận được hết các cơ chế bảo đảm

nhưng đó cũng là những cơ sở pháp lý quan trọng để quyền của NBC có thể được
thực thi trên thực tế.

14


Không chỉ vậy, B TTH năm 00 còn quy định chế độ trách nhiệm của các
CQTHTT trong việc bảo đảm quyền của NBC. Cụ thể, theo Điều 12 BLTTHS quy
định: “Trong quá trình tiến hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu
trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình. Người làm trái pháp luật trong
việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, x t xử, thi hành án thì tuỳ theo t nh
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Trong m i giai đoạn tố tụng khác nhau, trách nhiệm bảo đảm quyền của NBC
lại được xác định khác nhau. Ở cấp xét xử sơ th m, trách nhiệm chính trong việc
bảo đảm các quyền cuả NBC được xác định là Tòa án cấp sơ th m với tư cách là cơ
quan xét xử lần đầu vụ án hình sự. Trách nhiệm đó được thể hiện thông qua những
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án theo quy định tại

điểm c khoản

Điều 38 BLTTHS:“…Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào

chữa…”; thông qua trách nhiệm của Th m phán khi giải quyết vụ án: “Th m phán
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình”;
thông qua trách nhiệm của Hội th m nhân dân khi tham gia phiên tòa với tư cách là
thành viên của hội đồng xét xử: “Hội th m phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
những hành vi và quyết định của mình”.
nhân dân năm 0

hoản

Điều 76 Luật Tổ chức Tòa án

quy định về trách nhiệm của Th m phán khi thực hiện nhiệm

vụ: “Th m phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của luật. Th m phán trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Th m phán thực hiện nhiệm vụ xét xử có trách
nhiệm bồi thường và Th m phán đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa
án theo quy định của luật”.
Ngoài ra, trách nhiệm của Tòa án cấp sơ th m còn được xác định trong những
quy định khi giải quyết vụ án hình sự như việc bảo đảm tranh tụng trong hoạt động
xét xử tại phiên tòa. Theo Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án năm 0

: “Nguyên tắc


tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những
người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của luật tố tụng”.

15


Bên cạnh đó, uật uật sư năm 00 , sửa đổi, bổ sung một số điều năm 0
cũng đã ghi nhận rất rõ cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của uật sư. Theo Điều
của uật luật sư năm 00 , sửa đổi, bổ sung một số điều năm 0

thì: “Người có

chức vụ, quyền hạn, mà có hành vi xâm phạm quyền và lợi ch hợp pháp của uật
sư, tổ chức hành nghề uật sư hoặc cản trở uật sư, tổ chức hành nghề uật sư thực
hiện quyền và nghĩa vụ này thì tùy theo t nh chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì s phải bồi thường
theo quy định của pháp luật”.
Với những quy định trên s là cơ sở pháp lý quan trọng và cần thiết để những
quyền năng của NBC được thực thi trên thực tế và được các cơ quan, tổ chức cá
nhân tôn trọng và bảo vệ.
1.2.2 Các biện pháp b
ngũ

1.2.2.1 Về

m khác

n


Bảo đảm về mặt tổ chức để quyền của NBC ở cấp x t xử sơ th m vụ án hình
sự là một vấn đề quan trọng. Ngoài việc chúng ta có một hành lang pháp lý vững
chắc để cho các quyền của NBC được bảo đảm, thì cần phải có sự bảo đảm từ ph a
các cơ quan, tổ chức mà trước hết là đội ngũ cán bộ Th m phán, Hội th m – những
người trực tiếp tham gia vào quá trình xét xử vụ án hình sự. Trong những năm gần
đây, toàn ngành Tòa án đã có những thay đổi nhằm tạo mọi điều kiện để cho NBC
được tham gia thực chất hơn vào hoạt động xét xử. Bằng việc có những biện pháp
nhằm bảo đảm cho NBC thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp
của họ, được trình bày hết ý kiến của mình, những câu hỏi của HĐXX và

iểm sát

viên được khách quan hơn; được tranh luận một cách khách quan, dân chủ và bình
đẳng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác; phán quyết của Tòa
án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án”.[

]

ột trong những biện pháp đầu tiên được nhắc đến là phát triển số

lượng đội ngũ Th m phán, Hội th m, Thư ký Tòa án và cán bộ ngành Tòa án, đi đôi
với đó là nâng cao chất lượng chuyên môn đối với họ.
Theo Báo cáo của TANDTC, t nh đến tháng tháng năm 0 , toàn ngành Tòa
án đã có .

Th m phán[ ]. Về trình độ của đội ngũ Th m phán, t nh đến cuối năm

0 , 00% Th m phán các cấp có trình độ Cử nhân luật trở lên. Cụ thể là trong số


16


Th m phán của Tòa án nhân dân tối cao có

% trình độ trên Đại học,

% có trình

độ Cử nhân luật, 00% có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận ch nh trị, gần 0% có
trình độ ngoại ngữ và tin học cơ sở; trong số Th m phán trung cấp có % có trình độ
trên Đại học,

% có trình độ Cử nhân luật, 0% có trình độ cao cấp hoặc cử nhân lý

luận ch nh trị, 0% có trình độ trung cấp lý luận ch nh trị, hơn 0% có trình độ ngoại
ngữ và tin học cơ sở; trong số Th m phán sơ cấp có , % có trình độ trên Đại học,
93,5% có trình độ cử nhân luật,
trị,

, % có trình độ cao cấp hoặc cử nhân lý luận ch nh

, % có trình độ trung cấp lý luận ch nh trị, gần

độ ngoại ngữ và tin học cơ sở. T nh đến tháng

% Th m phán sơ cấp có trình

năm 0 , có trên 0% Th m phán


Toà án địa phương đã được bổ nhiệm làm Th m phán nhiệm kỳ thứ hai, nhiều trường
hợp là nhiệm kỳ thứ ba, cá biệt có trường hợp có trên 0 năm làm Th m phán nên
t ch luỹ được nhiều kinh nghiệm trong công tác.[ ]
ong song với việc bảo đảm về số lượng, chất lượng đội ngũ Th m phán, cán
bộ công chức ngành Tòa án, thì số lượng, chất lượng đội ngũ Hội th m cũng từng
bước được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm cụ của Cải cách Tư
pháp. T nh đến tháng

0

thì tổng số Hội th m nhân dân Tòa án nhân dân

(TAND) dân địa phương (nhiệm kỳ 2011- 0 ) đã bầu được
Hội th m TAND cấp tỉnh là .

. 0 người, trong đó

người và Hội th m TAND cấp huyện là 13.859

người. Về chất lượng, Hội th m nhân dân có trình độ cử nhân luật là 2.887 người
(chiếm 18,5%); cử nhân chuyên ngành khác là .

người (chiếm 52,8%); còn lại

. 0 người có trình độ dưới đại học (chiếm 28,7%). Hội th m quân nhân Toà án
quân sự (TAQS) (nhiệm kỳ 2009- 0 ) đã cử được
quân nhân TAQS cấp quân khu là
khu vực là

người, trong đó Hội th m


người và Hội th m quân nhân Toà án quân sự

người. Về chất lượng, Hội th m quân nhân có trình độ Cử nhân luật là

người (chiếm 17%); Cử nhân chuyên ngành khác là

0 người (chiếm 83%).[32]

Không chỉ tăng lên về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, mà nhận thức của
đội ngũ cán bộ ngành Tòa án về vai trò của NBC khi tham gia tố tụng cũng có ý
nghĩa rất quan trọng. Việc thực hiện các quyền của NBC trong B TTH s trở lên
rất khó khăn nếu như nó không được các cơ quan tiến hành tố tụng, NTHTT nhận
thức đúng nội dung, ý nghĩa hoạt động của NBC. NBC tham gia phiên tòa nhằm
cùng với Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ch

17


hợp pháp của bị cáo và h trợ họ về mặt pháp lý để tự bảo vệ quyền và lợi ch ch nh
đáng của mình. Có l , ch nh vì nhận thức chưa đầy đủ hoặc chưa hiểu rõ về tầm
quan trọng của NBC khi tham gia phiên tòa mà nhiều cán bộ Tòa án cho rằng, NBC
tham gia phiên tòa s cản trở quá trình x t xử vụ án hoặc làm ảnh hướng để việc xác
định sự thật khách quan của vụ án.
Đầu tiên, phải thấy rằng, Tòa án cấp sơ th m là cấp xét xử thứ nhất vụ án hình
sự. Tòa án s căn cứ vào những tài liệu có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã
thu thập được cùng với những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án thu thập được hoặc
những tài liệu chứng cứ mà bị cáo cung cấp để tiến hành x t xử và ra phán quyết
cuối cùng về vụ án đó. Việc bảo đảm các quyền của NBC khi tham gia tố tụng
ch nh là giúp Tòa án giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.

Việc NBC tham gia tố tụng không những tạo sự giúp đỡ vững chắc bảo vệ quyền lợi
của bị can, bị cáo mà còn góp phần không làm sáng tỏ nội dung vụ án và bảo đảm
t nh ch nh xác và có căn cứ của phán quyết. Đây cũng là nhiệm vụ mà pháp luật
giao cho NBC. Với những luận cứ, lý l mà NBC đưa ra nhằm làm sáng tỏ những
tình tiết có lợi cho bị cáo. Đồng thời, với sự “cọ sát” giữa những chứng cứ buộc tội
và chứng cứ gỡ tội s giúp Tòa án cấp sơ th m khách quan hơn trong quá trình giải
quyết vụ án.[

, Tr.108]

Tuy nhiên, trên thực tế, không t các Th m phán, Hội th m có nhận thức rằng:
“tội phạm đã rõ ràng thì uật sư không thể bào chữa cho k phạm tội”. Thậm ch
một số Th m phán cho rằng: “Có NBC tham gia chi gây khó khăn cho công tác x t
xử, vì thế đã có thái độ không đúng với NBC. Bên cạnh đó, vẫn còn có những tư
tưởng hạ thấp vai trò của NBC, vì sự tham gia của NBC làm yếu đi hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giúp cho k phạm tội trốn tránh trách
nhiệm hình sự”. Quan niệm như vậy đối với luật sư nói riêng và NBC nói chung là
trái với quy định của pháp luật và ch nh sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Việc
có sự tham gia của NBC trong hoạt động x t xử của Tòa án chẳng những không cản
trở mà còn thúc đ y cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xử lý vụ án, x t xử
không có căn cứ người vô tội. Do đó, khi tiến hành hoạt động x t xử, những
NTHTT mà trước hết là đội ngũ Th m phán, Hội th m phải nhận thức được rằng:

18


ự tham gia tố tụng của NBC là yếu tố khách quan để vụ án được giải quyết
một cách đúng đắn;
NBC có vai trò quan trọng trong việc đưa ra những chứng cứ và những

chứng cứ giúp cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng
tránh được những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra khi đưa ra các quyết định, phán
quyết về vụ án;
Đồng thời, về ph a NBC, họ là người có kiến thức pháp luật, có nghiệp vụ. Do
đó, cùng với việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ch hợp pháp của bị can, bị
cáo thì họ còn có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật. Để làm tốt được việc này, cùng với việc
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng bào chữa thành thạo với tinh thần
trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, khi đã nhận thức đúng đắn bản chất của hoạt động
bào chữa thì chắc chắn NBC s thành công trong việc bào chữa.[ , Tr. 0]
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, hưởng ứng cuộc vận động và sinh hoạt
chính trị “sống và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Ch

inh” ngành Tòa án

nhân dân đã triển khai thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Ch

inh với chủ đề: “Nâng cao bản lĩnh ch nh trị, ph m chất đạo đức, lối

sống của đội ngũ Th m phán, cán bộ, công chức ngành TAND” nhằm từng bước xây
dựng, kiện toàn đội ngũ Th m phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án đủ về số lượng,
đảm bảo về chất lượng với mục tiêu xây dựng ngành Tòa án nhân dân trong sạch,
vững mạnh về ch nh trị tư tưởng và tổ chức; đội ngũ Th m phán, cán bộ, công chức
Tòa án phải “phục vụ nhân dân”, “phụng sự Tổ quốc” để củng cố lòng tin của xã hội,
của nhân dân đối với ngành Tòa án. Thông qua cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng đó,
đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ ngành Tòa án đã được nâng lên đáng kể. Bản
lĩnh ch nh trị được giữ vững, tình trạng đội ngũ cán bộ Th m phán, Hội th m Tòa án
vi phạm pháp luật đã giảm, với cam kết: “ 00% Th m phán, cán bộ, công chức ngành
Tòa án nhân dân có cam kết và thực hiện đúng cam kết về việc thực hiện đúng Quy
tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân, không vi phạm ph m chất

chính trị, đạo đức l i sống, không vi phạm kỷ luật và pháp luật.”[ ]
1222

o

về

s vật

t

Việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết để tòa án cấp sơ th m thực
hiện được trách nhiệm của mình cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Không chỉ bảo đảm

19


điều kiện hoạt động bình thường của Tòa án, mà còn góp phần thực hiện Chiến
lược Cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị:“Đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của Người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.[ ]
Để bảo đảm tốt hơn các quyền của NBC, ngành Tòa án đã chủ động đầu tư hệ
thống cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm bảo đảm những như cầu tối thiểu của NBC.
Theo đó, hệ thống trụ sở Tòa án được xây dựng, các phòng xử án được bố trí riêng
biệt. T nh đến ngày 30-6-2013, trong số 700 TAND cấp huyện, có

đơn vị đã có


trụ sở. Ở TAND cấp tỉnh, từ năm 00 đến nay, có 39/63 trụ sở đã được đầu tư
(trong đó có

trụ sở xây mới, 11 trụ sở cải tạo mở rộng đã hoàn thành đưa vào sử

dụng và 8 trụ sở đang xây mới, 6 trụ sở đang cải tạo, mở rộng).[32]
Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị phục vụ cho hoạt động xét xử, sao chụp
tài liệu, bàn ghế, ch ngồi của NBC và của những người tham gia tố tụng khác cũng
được chú trọng đầu tư. T nh đến 30/6/2013 toàn ngành hiện có 1.250 bộ bàn ghế xét
xử, có 2.149 chiếc máy photocopy. Ngoài ra, ngành Tòa án còn xây dựng hệ thống
mạng Internet để phục vụ nhu cầu tra cứu thông tin pháp luật cho đội ngũ cán bộ
Tòa án, NBC khi tham gia tố tụng tại phiên tòa.[32]
Đặc biệt, để bảo đảm quyền của NBC và để giám sát hoạt động của Tòa án,
nhiều Tòa án đã đầu tư hệ thống trang thiết bị ghi âm, ghi hình gắn tại các phòng xử
án. Đi đầu trong việc này phải kể đến TAND tỉnh Khánh Hòa. Tại đây, hầu hết các
phòng xử án của TAND tỉnh đã được bố trí lắp đặt hệ thống camera để theo dõi,
giám sát hoạt động xét xử, hoạt động bảo đảm các quyền của những người tham gia
tố tụng, tham gia bào chữa tại phiên tòa.
1223
t eo

u

u ủ

o

ố v
qu n t n


ngư

o

t

g

o

n tố tụng

Bảo đảm các chế độ đối với NBC có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong ác vụ
án NBC tham gia tố tụng theo yêu cầu của CQTHTT. Theo đó, hiện nay, chế độ
ch nh sách của uật sư khi tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng được điều chỉnh bởi Nghị định

0

20

NĐ-CP ngày

0 0

quy định


×