Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO - Kinh nghiệm cho Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.64 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DOUNGKEO BUONMADYLA

CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO –
KINH NGHIỆM CHO LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60.38.01.08

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thanh Tâm

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại học
Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa Sau đại học và Khoa Luật quốc tế đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương trình sau đại
học tại Trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Tiến sĩ Nguyễn
Thanh Tâm - người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên, quan
tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2015
HỌC VIÊN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật Hà Nội xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO.............................................................................................4
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại quốc tế và cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO ............................................................................................................................4
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ......8
1.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO.......................................................13
1.4. Mục tiêu của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.........................................14
1.5. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO ..........................................................................................................................20
1.6. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO............................................................22
1.7. Thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO.............................................................26

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ..........................................................................................37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CÁC THÀNH
VIÊN ĐANG PHÁT TRIỂN THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA
WTO.....................................................................................................................................................38
2.1. Vị trí, vai trò của các thành viên đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO ...........................................................................................................38
2.2. Những quy định của Hiệp định về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp
của WTO (DSU- Dispute Settlement Understanding) có liên quan đến các thành
viên đang phát triển ...................................................................................................41
2.3. Tình hình giải quyết tranh chấp của WTO dưới góc nhìn của các thành viên
đang phát triển ...........................................................................................................45
2.4. Đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ góc độ của các thành viên
đang phát triển ...........................................................................................................49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ..........................................................................................60
CHƯƠNG 3 .: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI LÀO
KHI THAM GIA VÀO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ................61
3.1. Cơ hội và thách thức của CHDCND Lào khi tham gia cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO ...........................................................................................................61


3.2. Một số kinh nghiệm đối với Lào nhằm tham gia có hiệu quả vào cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO ........................................................................................67
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ACWL

: Trung tấm tư vấn Luật WTO


DSB

: Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO

DSU

: Dispute Settlement Understanding (Hiệp định về các quy tắc
và thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO)

EC

: European Commumnities (Các Cộng đồng châu Âu)

EC

: European Commission (Ủy ban châu Âu)

GATS

: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO

GATT

: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại của WTO

GSP

: Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập


INCOTERMS

: Các điều kiện cơ sở giao hàng trong mua bán hàng hoá quốc tế

NGOs

: Các tổ chức phi chính phủ

UNCITRAL

: Uỷ ban của Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế

WB

: Ngân hàng Thế giới

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vòng Đàm phán đa phương Uruguay (1986-1994) được đánh giá là thành công
nhất trong các vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT về nhiều phương diện như
phạm vi điều chỉnh, số lượng các nước thành viên tham gia, thành lập được thiết chế
quản lý các vấn đề thương mại quốc tế - đó chính là Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Đặc biệt, kết quả của Vòng Uruguay về cơ chế giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế là một sự tiến bộ có ý nghĩa đặc biệt, mang tính cách mạng, là công cụ

đảm bảo sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của các Chính phủ.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO kế thừa các giá trị của GATT, nhưng
mạnh hơn nhiều so với các cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT trước đó. Với bộ
máy cưỡng chế thi hành các quy tắc thương mại quốc tế giống như cơ quan tư pháp,
WTO đã chứng minh được tính hiệu quả của mình trong giải quyết tranh chấp so với
trước, khi mà các tranh chấp này thường gây ra các cuộc trả đũa thương mại đầy nguy
hại. Từ đó phạm vi điều chỉnh của WTO đã được mở rộng gồm hàng loạt các lĩnh vực:
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ, cơ chế rà soát chính sách thương mại, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Khi đã là thành viên của WTO, bất kể nước nào cũng có quyền đưa các tranh
chấp thương mại của mình ra WTO để giải quyết, nhưng trên thực tế cơ chế này chủ
yếu có lợi cho các nước phát triển. Biện pháp trả đũa được WTO cho phép là cơ hội để
các cường quốc thương mại thể hiện sức mạnh của mình. Trong khi đó, các nước đang
phát triển, nhất là các nước nhỏ như Lào, ít có khả năng áp dụng biện pháp này.
Lào là một nước chậm phát triển (LDCs), sau hơn 10 năm đàm phán và qua
nhiều thủ tục phức tạp, ngày 02/02/2013 Lào chính thức trở thành thành viên thứ 158
của WTO. Với việc trở thành thành viên của WTO, Lào đương nhiên chấp thuận và
tuân thủ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Ít nhất trong 12 năm sau khi gia nhập
WTO, Lào bị coi là nền kinh tế phi thị trường (NME), và điều đó dễ bị các đối tác tận
dụng để áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ đặc biệt khác. Tranh
chấp thương mại quốc tế khi tham gia vào sân chơi chung này là không thể tránh khỏi.
Vì vậy, việc tìm hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế đối với các nước
đang phát triển và tìm ra bài học kinh nghiệm cho Lào trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế là một nội dung rất đáng quan tâm. Chính vì thế, đề tài “Cơ chế giải quyết


2
tranh chấp của WTO - Kinh nghiệm cho Lào” là một đề tài mang tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một vấn đề có tính thời sự và được

nghiên cứu phổ biến hiện nay. Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về vấn
đề này như: - “Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ góc độ các quốc gia đang
phát triển” (Khoá luận tốt nghiệp / Phạm Thị Thuý Nga (2010), Trường Đại học Luật
Hà Nội), “Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhìn từ góc độ các nước đang phát
triển” (Khoá luận tốt nghiệp / Phạm Thị Hậu (2011), Trường Đại học Luật Hà Nội).
Ngoài ra còn một số bài tạp chí như: “Doanh nghiệp Việt Nam và cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO” (Bùi Anh Thuỷ, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật., Số 2/2007),
“Các nước đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO: vị trí, cơ hội
và thách thức” (Lý Vân Anh / Nhà nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số
4/2011), “Chế độ đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển
trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO” (Lê Thị Ngọc Hà / Khoa học pháp lý Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số 1/2012). Các công trình này đã
phần nào chỉ rõ những ưu việt của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với
GATT, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tại WTO cũng đánh giá hiệu quả việc áp
dụng cơ chế này đối với các nước đang phát triển và những giải pháp hoàn thiện pháp
luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả khi tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO.
Là một nước đang phát triển, mới gia nhập WTO năm 2013, cũng như cơ chế
giải quyết tranh chấp này khá mới, mà tại Lào hiện nay mới có một số bài báo, tạp chí
đánh giá hiệu quả áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, chứ chưa có một
công trình nào chỉ ra một cách tổng thể về quá trình hình thành và phát triển, trình tự
thủ tục giải quyết tranh chấp tại WTO, sự tham gia của các nước đang phát triển vào
cơ chế này cũng như những kinh nghiệm đối với Lào khi tham gia vào cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO. Do đó, có thể nói nội dung của luận văn này là hoàn toàn
mới và không trùng lặp với bất kì đề tài nào.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là tìm hiểu quá trình hình thành - phát triển của cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO, việc áp dụng cơ chế này đối với các nước đang phát


3

triển - từ đó đánh giá, nhận xét trên cơ sở góc nhìn của các nước đang phát triển, rút ra
bài học kinh nghiệm quý báu cho Lào trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, tác giả
phân tích và đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại với các nước đang
phát triển, chỉ giới hạn trong những vụ giải quyết điển hình có liên quan đến các nước
đang phát triển. Từ đó nêu những kinh nghiệm, bài học cho Lào khi đã trở thành thành
viên chính thức của WTO.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả đã nghiên cứu giải quyết đề tài Luận văn dựa trên phương pháp luận
Mác_Lênin, quan điểm của Đảng nhân dân cách mạng Lào về phát triển nền kinh tế
hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp lịch
sử, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa, … Thông qua đó, những vấn
đề có liên quan tới cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xem xét, đánh giá từ
nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực theo
những nội dung cụ thể trong luận văn này.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã đặt ra những vấn đề về lý luận và thực tiễn, góp phần làm sáng tỏ
các khía cạnh về cơ chế giải quyết tranh chấp WTO từ góc độ các nước đang phát
triển. Luận văn đưa ra một số kiến nghị để Lào chủ động hơn trong tham gia cơ chế
giải quyết tranh chấp, chủ động hội nhập. Từ đó có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các doanh nghiệp khi Lào đã chính thức trở thành thành viên WTO.
6. Cơ cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp của các thành viên đang phát triển theo
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Chương 3: Cơ hội, thách thức và những kinh nghiệm đối với Lào khi tham gia vào cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO



4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại quốc tế và cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại quốc tế
Theo Từ điển Tiếng Việt, tranh chấp là sự giành giật, giằng co cái không rõ thuộc
về bên nào [20; tr. 989]. Từ điển Luật học Black Law Dictionary định nghĩa “Tranh
chấp là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng về các yêu cầu hay quyền lợi, sự đòi hỏi về các
yêu cầu hay quyền lợi từ một bên được đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái
ngược từ bên kia”. Từ đó có thể hiểu rằng: tranh chấp là sự bất đồng về quyền lợi, lợi
ích, quan điểm mà trong đó yêu cầu hay đòi hỏi của một bên bị bên kia từ chối hay
khiếu nại lại.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thương mại. Trước đây, khái niệm
thương mại được hiểu theo nghĩa khá hẹp, chỉ bao gồm các hành vi: mua bán hàng
hóa, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý
mua bán hàng hóa, gia công trong thương mại, đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ giao nhận hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa, khuyến mại, quảng cáo
thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa và hội chợ, triển lãm thương mại. Hiện nay,
khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa rộng. Theo Luật mẫu UNCITRAL về
Trọng tài thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, thương mại bao gồm toàn bộ các
giao dịch mang bản chất thương mại nhưng không hạn chế ở các giao dịch sau: mọi
giao dịch nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; hợp đồng phân phối; đại
diện thương mại; sản xuất; cho thuê; xây dựng; tư vấn; dịch vụ lắp đặt máy móc; cấp
phép; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; hợp đồng khai thác hoặc nhượng bộ; liên
doanh và các hình thức khác của hoạt động sản xuất kinh doanh; vận chuyển hàng hóa
bằng đường hàng không, đường biển hoặc đường bộ.

Tranh chấp thương mại quốc tế là sự mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi, lợi ích
hay quan điểm phát sinh trong quan hệ thương mại quốc tế. Tranh chấp thương mại
quốc tế, một mặt, được hiểu là tranh chấp giữa các quốc gia, các chủ thể của pháp luật
quốc tế về các vấn đề thương mại, kinh tế quốc tế. Mặt khác, “tranh chấp thương mại
quốc tế” còn được hiểu theo nghĩa là “trang chấp thương mại có yếu tố nước ngoài”.


5
Theo Luật trọng tài thương mại Việt Nam, tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài là “tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà một bên hoặc các bên
là nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia, hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
tranh chấp đó ở nước ngoài” [8].
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức quốc tế mà thành viên của nó
là các quốc gia (đại diện là các Chính phủ), các lãnh thổ độc lập về mặt hải quan.
Tranh chấp thương mại quốc tế trong khuôn khổ WTO được hiểu là bất đồng giữa các
thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp
định của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO.
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
Cơ chế là cách thức sắp xếp, tổ chức để làm định hướng, cơ sở để thực hiện [20;
tr. 368]. Nói đến cơ chế là nói đến một hệ thống các yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, liên quan đến cách thức tổ chức, hoạt động, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Trên cơ sở khái niệm cơ chế nói chung, ta có thể hiểu khái niệm “cơ chế giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế” là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở, đường hướng
cho việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế luôn là vấn đề phức tạp, bởi vì: Thứ
nhất, tham gia vào các quan hệ này có nhiều loại chủ thể với địa vị pháp lý không
giống nhau, trong đó có nhiều chủ thể có địa vị pháp lý rất đặc biệt như các quốc gia,
các tổ chức liên chính phủ. Thứ hai, luật pháp áp dụng bao gồm nhiều ngành, thuộc
các hệ thống pháp luật khác nhau, pha trộn luật quốc gia và luật quốc tế. Thứ ba, đối

tượng điều chỉnh bao gồm các quan hệ pháp lý rất đa dạng thuộc mọi lĩnh vực kinh tế.
Đặc biệt trong tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới với nhiều tập đoàn tư bản, sự
bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, sự phát triển của lĩnh vực công nghệ
thông tin đã nhân lên gấp bội tính phức tạp trong các vụ việc tranh chấp thương mại
quốc tế. Cùng với việc mở rộng của các tranh chấp thương mại quốc tế, thì các định
chế về giải quyết tranh chấp cũng ngày cành phát triển mạnh mẽ về cả lý luận lẫn thực
tiễn. Ứng với mỗi loại tranh chấp đều có cơ chế giải quyết phù hợp. Cụ thể:
* Đối với tranh chấp thuộc quan hệ quốc tế giữa các quốc gia có chủ quyền,
do đây là tranh chấp giữa các chủ thể của luật quốc tế và có nhiều yếu tố đặc thù, nên
xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng, chủ quyền của quốc gia thì việc giải quyết tranh


6
chấp sẽ theo các biện pháp quy định tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc gồm có
đàm phán trực tiếp (thông qua con đường ngoại giao), hòa giải (thông qua trung gian
hoặc nhiều biện pháp khác nhau), và giải quyết bằng trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế
hoặc các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, dù quan hệ tranh chấp loại này có đặc thù gì đi
nữa, thì việc giải quyết tranh chấp vẫn phải bằng các biện pháp truyền thống của công
pháp quốc tế, và trong mọi trường hợp đều có sự thỏa thuận ý chí của các quốc gia.
* Đối với tranh chấp thuộc quan hệ pháp lý dân sự giữa một bên là chủ thể
của luật quốc tế (quốc gia độc lập có chủ quyền) và một bên là chủ thể của luật quốc
gia (pháp nhân, cá nhân), thì cũng xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc
gia và phải tôn trọng quyền miễn trừ tài phán quốc gia và tài sản quốc gia. Việc khiếu
nại của các pháp nhân, cá nhân chỉ có thể thực hiện qua con đường ngoại giao và chỉ
có thể kiện tại tòa án, trọng tài là nơi quốc gia của bị đơn, đồng thời phương thức này
chỉ khả thi khi quốc gia liên quan chấp nhận từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp của mình.
* Đối với tranh chấp giữa các pháp nhân và cá nhân ở các nước khác nhau
với nhau, tranh chấp loại này tồn tại phổ biến và chiếm đa số trong các tranh chấp
thương mại quốc tế và được lĩnh vực tư pháp quốc tế và luật quốc gia điều chỉnh. Việc
giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành tại tòa án trong nước hoặc nước ngoài,

trọng tài trong nước hoặc quốc tế. Do tính chất rộng khắp, phổ biến của các tranh chấp
thuộc loại này mà các chế định pháp lý để giải quyết các tranh chấp loại này được coi
là hoàn chỉnh và đầy đủ nhất.
Thông lệ chung nhất để giải quyết các tranh chấp quốc tế là thông qua hình thức
trọng tài. Đây là hình thức được chấp nhận và sử dụng phổ biến khi mà mọi biện pháp
đàm phán, hòa giải giữa các bên tranh chấp không đạt được kết quả. Lý do để hình
thức này được chấp nhận rộng rãi là do nó có nhiều ưu điểm hơn việc xét xử tại các tòa
án như chi phí thấp hơn, thủ tục đơn giản hơn, linh hoạt hơn, thời gian giải quyết
nhanh hơn, đảm bảo bí mật, v.v và phù hợp với hoạt động kinh doanh. Sự phát triển và
tính ưu việt của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã khiến phương
thức này được áp dụng rộng rãi sang cả các lĩnh vực khác ngoài kinh tế như lĩnh vực
chính trị, xã hội.
Tranh chấp thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO có nhiều điểm tương đồng với
loại tranh chấp thứ nhất - tranh chấp giữa các chủ thể của luật quốc tế. Tuy nhiên, về
chủ thể mà nội dung tranh chấp và cách thức giải quyết tranh chấp có nhiều điểm khác


7
biệt như: chủ thể còn lại là các quốc gia chứ không bao gồm các tổ chức quốc tế liên
chính phủ; tranh chấp sẽ được giải quyết trong khuôn khổ tổ chức WTO và đôi khi
cũng không cần đến sự thỏa thuận ý chí của quốc gia trong quan hệ tranh chấp. Việc
giải quyết tranh chấp được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế, trả đũa,
trừng phạt (yếu tố không có trong giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thông
thường). Chính vì thế đối với tranh chấp thuộc loại này, cần có cơ chế giải quyết đặc
thù của GATT/WTO (trình bày cụ thể trong phần sau). Cơ chế giải quyết tranh chấp
của GATT/WTO cũng kế thừa và phát triển nhiều nội dung cơ bản của chế định trọng
tài, tạo thành cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất, được thừa nhận rộng rãi.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là cách thức, phương pháp hoặc các hoạt
động của WTO để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột giữa các thành viên WTO
liên quan đến việc thực hiện, các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định của WTO,

nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các thành viên [6; tr.5].
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hiện nay được xem như là một trong các
cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất trong hệ thống luật pháp quốc tế. Cơ chế
này không chỉ đóng vai trò như một cơ quan tư pháp, mà còn như là một cơ chế phòng
ngừa tranh chấp, giúp làm cân bằng giữa các quyền và nghĩa vụ của các thành viên
WTO. Nó thực hiện ba chức năng chính: đảm bảo hệ thống thương mại đa phương
hoạt động một cách an toàn và dễ dự đoán bằng cách củng cố và tăng cường tính bắt
buộc phải thi hành các quy định của pháp luật (rule of law) [24; tr. 2]; đảm bảo các
quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO (Điều 3.2 DSU); và làm rõ quyền và nghĩa
vụ này thông qua việc giải thích Hiệp định WTO phù hợp với các qui tắc có tính tập
quán về giải thích công pháp quốc tế (Điều 3.2 DSU). Với các chức năng này, các bên
tranh chấp bắt buộc phải tuân thủ các cam kết của họ theo các hiệp định liên quan. Các
khuyến nghị và phán quyết của Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) mang tính bắt
buộc thực thi đối với các bên trong vụ tranh chấp.
Mục tiêu của WTO trong việc thiết lập cơ chế này là "để đạt được một giải pháp
tích cực cho các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên" (Điều 3.7 DSU). Thông qua
cơ chế này, các thành viên WTO có thể đảm bảo rằng các quyền của họ theo các Hiệp
định WTO được thực thi. Điều này tạo thuận lợi cho mỗi thành viên có thể khởi kiện
chống lại bất kỳ thành viên nào khác vi phạm các chính sách thương mại, nhằm bắt


8
buộc các thành viên đó phải tuân thủ những nghĩa vụ của mình theo các cam kết gia
nhập WTO. Theo cơ chế này, các thủ tục giải quyết tranh chấp sẽ bắt đầu bằng một
cuộc tham vấn song phương và nếu tham vấn không thành công, các thành viên khiếu
nại có thể yêu cầu DSB thành lập Ban Hội thẩm. Nếu các thành viên WTO có quan
tâm đến tranh chấp, họ có thể tham gia như các bên thứ ba. Tính đến tháng 6 năm
2015, đã có tổng cộng 494 tranh chấp được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh
chấp DSU của WTO, trong đó có 236 vụ tranh chấp liên quan đến chống bán phá giá,

chống trợ cấp và thuế đối kháng, và các biện pháp tự vệ.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Mục tiêu của hệ thống giải quyết tranh chấp GATT/WTO là nhằm giải quyết hai
loại tranh chấp có thể phát sinh trong quan hệ giữa các thành viên của GATT/WTO, đó
là:
- Những khiếu nại của một quốc gia cho rằng quốc gia khác vi phạm các quy
định của GATT và sau này là vi phạm các hiệp định của WTO;
- Khiếu nại về việc các quốc gia khác làm tổn hại đến lợi ích trực tiếp của quốc
gia khiếu nại mặc dù biện pháp thương mại bị khiếu nại không vi phạm các quy định
của GATT cũng như các hiệp định của WTO sau này.
WTO được thành lập ngày 01/01/1995 theo Hiệp định Marrakesh về thành lập Tổ
chức thương mại thế giới, là kết quả của Vòng đàm phán Uruguay với tiền thân là
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1947 (gọi tắt là GATT 1947).
Trước khi WTO ra đời, các tranh chấp của các nước thành viên của GATT được
giải quyết thông qua một cơ chế tham vấn và điều tra được quy định chủ yếu tại các
điều XXII và XXIII của GATT.
Trong gần 50 năm tồn tại, chế định giải quyết tranh chấp của GATT 1947 đã góp
phần xử lý tranh chấp thương mại quốc tế. Tuy nhiên, chính nguyên tắc đồng thuận
tuyệt đối đã làm cho GATT 1947 có nhiều hạn chế. Bên bị khiếu nại có thể cản trở
việc thành lập Ban Hội thẩm, xác định những điều kiện tham chiếu, chỉ định thành
viên Ban Hội thẩm, thông qua phán quyết và cho quyền trả đũa. Đây là nguyên nhân
gây chậm chễ hoặc bế tắc trong việc thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm, bởi bất kỳ
một bên ký kết nào, kể cả bên tranh chấp cũng có quyền trì hoãn những việc làm này.
Vì vậy, trên thực tế đã có nhiều tranh chấp không được đưa ra trước GATT vì bên
khiếu kiện nghi ngờ rằng bên bị khiếu kiện sẽ thực hiện quyền phủ quyết. Do đó, rủi ro


9
trong việc thực hiện quyền phủ quyết đã làm suy yếu hệ thống giải quyết tranh chấp
của GATT 1947.

Vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994. Trong đó, năm
1989 các thành viên WTO đã thỏa thuận được một số quy định về việc cải thiện chế
định giải quyết tranh chấp thương mại theo hướng:
- Thừa nhận quyền của Panel trong tố tụng;
- Thông qua gần như là tự động (the quasi-automatic adoption) các vấn đề như
yêu cầu thành lập Panel, Báo cáo giải quyết tranh chấp và các yêu cầu cho phép dừng
thực thi nhượng bộ thương mại;
- Quy định khung thời gian chặt chẽ về các giai đoạn, các bước khác nhau của
quy trình giải quyết tranh chấp;
- Có khả năng xử phúc thẩm đối với Báo cáo của Panel.
Hiệp định về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU), được thông qua
tại Vòng đàm phán Uruguay đã cho ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu
quả, hiệu lực và nhanh chóng. Đây là thành công lớn của các thành viên trong việc
thiết lập nên “xương sống” cho một hệ thống giải quyết các tranh chấp dựa trên các
quy tắc được xác định rõ ràng, kèm theo một lịch trình cụ thể để xem xét một vụ kiện.
WTO ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển các nền tảng kinh nghiệm của GATT
1947. Một trong những nội dung quan trọng được kế thừa - đó chính là việc hoàn thiện
cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT trước kia. Đây cũng là vấn đề được nhiều
nước thành viên quan tâm - đàm phán trong Vòng đàm phán Uruguay 1994, bởi lẽ việc
củng cố cơ chế giải quyết tranh chấp cũ GATT 1947 sẽ giúp các thành viên WTO an
tâm rằng họ có các phương tiện đảm bảo rằng các quốc gia khác thi hành đầy đủ các
nghĩa vụ của họ. Vòng đàm phán Uruguay kết thúc với việc thành lập WTO và một bộ
phận chức năng quan trọng của WTO là Cơ quan giải quyết tranh chấp (Dispute
Settlement Body- DSB) cùng với một Hiệp định về giải quyết tranh chấp của WTO
(viết tắt là DSU). Có thể hiểu DSB là Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, còn
DSU là nền tảng, hành lang pháp lý để DSB thực hiện các chức năng mà WTO giao
phó. Tổng hợp DSB, DSU và các quy định chuyên sâu về giải quyết tranh chấp nêu
trong các hiệp định, thỏa thuận của WTO tạo thành cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO (WTO Settlement Mechanism).



10
Mục tiêu của các nước khi thông qua DSU là đưa ra một thủ tục, trình tự chung
để giải quyết tranh chấp. Trình tự chung được áp dụng để giải quyết mọi tranh chấp
phát sinh trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, do hoạt động của WTO sẽ bao trùm nhiều
lĩnh vực khác nhau như thương mại dịch vụ, thuế quan, đầu tư, sở hữu trí tuệ, nên
tranh chấp trong lĩnh vực hàng hóa sẽ có một số đặc thù khác với tranh chấp trong lĩnh
vực dịch vụ, ví dụ: vụ tranh chấp liên quan đến hàng hóa dễ hỏng thì cần giải quyết
với thủ tục nhanh hơn. Tương tự, chấp trong lĩnh vực đầu tư cũng khác cũng khác so
với tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Do vậy, trong mỗi hiệp định của WTO
đều quy định viện dẫn áp dụng DSU trong giải quyết tranh chấp, bên cạnh đó cũng quy
định thêm một số quy định được áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh thuộc
phạm vi điều chỉnh của hiệp định đó. Để tránh xung đột, Điều 1 DSU quy định nguyên
tắc chọn luật phải được áp dụng như sau: “Các quy tắc và thủ tục của DSU sẽ được áp
dụng cho những quy tắc và thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung về giải quyết tranh chấp
được ghi trong các hiệp định thuộc diện điều chỉnh được nêu rõ trong Phụ lục 2 của
Hiệp định này. Trong những trường hợp có sự khác biệt giữa những quy tắc và thủ tục
của Hiệp định này và những quy tắc thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung trong Phụ lục 2,
thì những quy tắc và thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung trong Phụ lục 2 sẽ được ưu tiên
áp dụng. Đối với những tranh chấp liên quan đến những quy tắc thủ tục không chỉ
nằm trong một hiệp định thuộc diện điều chỉnh, nếu có mâu thuẫn giữa những nguyên
tắc, thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung trong những hiệp định thuộc diện điều chỉnh như
vậy đang được xem xét, và khi các bên tranh chấp không thể thỏa thuận với nhau các
quy tắc và thủ tục trong vòng 20 ngày kể từ khi thành lập Ban hội thẩm thì Chủ tịch
của Cơ quan giải quyết tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 2 (trong Hiệp định này
được gọi là “DSB”), sau khi tham vấn với các bên tranh chấp sẽ quyết định những quy
tắc và thủ tục nào phải tuân thủ trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của
một trong hai bên. Chủ tịch sẽ hướng dẫn, về mặt nguyên tắc, những quy tắc hoặc thủ
tục chuyên biệt bổ sung nào sẽ được sử dụng khi có thể, và những quy tắc và thủ tục
nào được nêu trong Hiệp định này sẽ được sử dụng tới mức cần thiết để tránh xung

đột”.
Với mục tiêu nhằm bảo vệ tất cả các thành viên WTO được tôn trọng đầy đủ các
quyền, các cơ hội về cạnh tranh và thương mại, cả trong lĩnh vực nhập khẩu và xuất
khẩu hàng hóa với dịch vụ cùng với các quyền về sở hữu trí tuệ, đầu tư nước ngoài.


11
Tuy nhiên, việc hình thành được cơ chế giải quyết tranh chấp phải mất hai năm đàm
phán căng thẳng giữa các nước thành viên. Mục tiêu đàm phán là kế thừa tính tiến bộ
của cơ chế giải quyết tranh chấp GATT 1947 và hoàn thiện, loại bỏ các thiếu sót mà
GATT có. Như phần trên đã phân tích, nguyên nhân yếu kém của cơ chế giải quyết
tranh chấp trong GATT 1947 là thiếu một quy định pháp lý chung cụ thể, thống nhất
và rõ ràng về toàn bộ tiến trình giải quyết tranh chấp, điều mà các Điều XXII, XXIII
GATT 1947 chưa đưa ra được. Khởi xướng cho việc đàm phán DSU xuất phát từ đề
xuất của phía Hoa Kỳ. Ngày 18/11/1994, Hoa Kỳ đã nêu ra đề nghị cần phải có một
khung pháp lý rõ ràng hơn mạnh mẽ hơn GATT 1947 để điều chỉnh hoạt động thương
mại quốc tế trong đó bao hàm một cơ chế giải quyết tranh chấp đáng tin cậy. Để có
được cơ chế này điều quan trọng là phải đảm bảo được tính thống nhất, liên tục, tính
công bằng, khách quan trong thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như các biện pháp để
đảm bảo thi hành các khuyến nghị của cơ quan giải quyết tranh chấp. Đề xuất của Hoa
Kỳ được nhiều nước ủng hộ. Tuy nhiên, ngay cả khi WTO đã đi vào hoạt động (ngày
01/01/1995), thì DSU vẫn chưa được đàm phán xong. Đến tháng 12/1995, dự thảo lần
đầu mới được đệ trình lên Đại hội đồng WTO và một năm sau đó, tháng 12/1996,
DSU được thông qua và có hiệu lực thi hành. DSU được coi là yếu tố mang lại sức
mạnh cho hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. DSU đã cơ bản khắc phục được
các nhược điểm của GATT 1947, và phát triển lên một bước mới đáp ứng đòi hỏi của
quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
Nếu so sánh với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947, thì cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO vượt trội về nhiều mặt, như: thủ tục đơn giản hơn, thời gian
của toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp được rút ngắn lại và quy định cụ thể rõ

ràng; các bước thủ tục pháp lý được hình thành tự động (automaticaly); các khuyến
nghị của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm (Appelate Body) bây giờ đã ràng buộc
trách nhiệm thi hành của các bên. Thêm vào đó, nếu bên thắng kiện (winning party)
không thỏa mãn với những thay đổi mang tính pháp lý hay sự bồi thường của bên thua
kiện (losing party), thì nước đó có quyền trả đũa, chống lại việc xuất khẩu từ nước vi
phạm, không chỉ với loại hàng trong tranh chấp mà có thể toàn bộ các sản phẩm hàng
hóa theo quy định của WTO. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO sẽ khắc phục
tương đối triệt để các khiếm khuyết của hệ thống giải quyết tranh chấp tồn tại trong
GATT 1947, đó là:


12
Thứ nhất, với việc ban hành DSU, WTO đã đưa ra một trình tự pháp lý chung
cho toàn bộ tiến trình giải quyết tranh chấp, qua đó đảm bảo các thủ tục giải quyết
tranh chấp của WTO thống nhất, gắn kết với nhau, được diễn ra tuần tự một cách tự
động đem lại sự dễ dàng trong vận dụng vào tính khả thi cao.
Thứ hai, nguyên tắc đồng thuận được hiểu theo nghĩa của GATT 1947 đã được
thay thế bằng nguyên tắc “đồng thuận nghịch” của WTO. Việc sửa đổi nguyên tắc
đồng thuận được coi là một trong những tiến bộ lớn nhất của hệ thống giải quyết tranh
chấp của WTO. Với nguyên tắc này, toàn bộ quá trình thông qua quyết định của WTO
nói chung, của DSB nói riêng được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, do đó đảm bảo
được về mặt thời gian cho tiến trình giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, liên quan đến tính chất vô tư, công bằng và trình độ của các thành viên
Ban hội thẩm, DSU đã quy định một loạt các tiêu chuẩn cho thành viên Ban hội thẩm,
quy định các trường hợp không được làm hội thẩm. Hơn thế nữa, DSU còn quy định
trách nhiệm của hội thẩm phải thông báo toàn bộ các lợi ích, các mối quan hệ của
mình có thể liên quan đến vụ tranh chấp, cũng như thông báo các vấn đề có thể tạo ra
sự nghi ngờ về tính vô tư của mình. Với quy định trên WTO đã khắc phục được nhược
điểm này tồn tại trong GATT.
Thứ tư, các khuyến nghị, báo cáo kết luận của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm

sau khi giải quyết vụ việc đều được DSB thông qua. Sau khi được thông qua, chúng sẽ
trở thành các quy định chung của DSB/WTO ràng buộc trách nhiệm thi hành của tất cả
các bên có liên quan. Để đảm bảo giám sát việc thi hành, DSU quy định DSB sẽ trực
tiếp thực hiện trách nhiệm này. Như vậy, với quy định trên, DSU vừa là cơ quan thông
qua quyết định, vừa là cơ quan giám sát thi hành quyết định, nên các quyết định đưa ra
khi giải quyết tranh chấp đều mang tính khả thi cao.
Thứ năm, vấn đề trả đũa được sử dụng hiệu quả trong hệ thống giải quyết tranh
chấp của WTO, với việc quy định rằng: nếu trong thời hạn nhất định, bên thua kiện
không thực hiện các khuyến nghị của DSB, thì bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB
cho phép mình tiến hành các biện pháp trả đũa. Ngay khi nhận được yêu cầu trả đũa
DSB sẽ thông qua quyết định cho phép bên thắng kiện được tiến hành các biện pháp
trả đũa. Quy định trên làm cho việc trả đũa được tiến hành ngay lập tức, nếu bên thua
kiện không thực thi phán quyết của DSB. Thực tế cho thấy việc trả đũa được tiến hành
khá hiệu quả trong hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO.


13
Tóm lại, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là tổng hợp các quy định pháp lý
của WTO về cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB); các quy định về thủ tục, trình tự
giải quyết tranh chấp (DSU), và các quy định chuyên biệt khác liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp trong từng lĩnh vực điều chỉnh cụ thể của từng hiệp định của WTO.
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO đã cơ bản khắc phục các khiếm khuyết tồn
tại trong hệ thống giải quyết tranh chấp trong GATT 1947.
1.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một bộ phận trong tổ chức và hoạt
động của WTO, bởi vậy cơ chế giải quyết tranh chấp cuả WTO phải tuân theo những
nguyên tắc chung. Đó là các nguyên tắc: nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên
tắc công khai và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, nguyên tắc bảo hộ thông qua thuế
quan, nguyên tắc tiếp cận thị trường, nguyên tắc bảo hộ phòng ngừa bất trắc [22].
Ngoài các nguyên tắc chung, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO còn bao gồm

các nguyên tắc sau:
1.3.1. Nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên tranh chấp
Theo nguyên tắc này, các thành viên tranh chấp dù là nước lớn hay nhỏ, phát
triển hay chậm phát triển, đều bình đẳng với nhau trong giải quyết tranh chấp phát
sinh. Nguyên tắc này chi phối toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp: bình đẳng khi
tham vấn, bình đẳng khi đưa ra tranh chấp Ban hội thẩm, trong quá trình kháng cáo,
khi thi hành khuyến nghị, phán quyết của DSB, đều tuân thủ nguyên tắc bình đẳng.
Nguyên tắc bình đẳng cũng chi phối hoạt động của các thành viên Ban hội thẩm
và Cơ quan phúc thẩm. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các thành viên hoàn
toàn bình đẳng trong việc đưa ra ý kiến, quan điểm về các vấn đề được giải quyết.
1.3.2. Nguyên tắc bí mật
Các cuộc họp của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm là các cuộc họp kín, không
công khai, các bên tranh chấp chỉ được mời tham dự khi cần thiết. Như vậy, nội dung
cuộc họp của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm là bí mật đối với các thành viên là bên
thứ ba. Nguyên tắc bí mật phần nào cũng được thể hiện trong giai đoạn tham vấn, theo
đó nội dung tham vấn giữa nước thành viên tranh chấp không được thông báo cho các
thành viên WTO biết.


14
1.3.3. Nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết” (hay “đồng thuận nghịch”)
Theo Điều 2.4, Điều 6.1, Điều 16.4 và Điều 17.14 DSU, việc ra quyết định thành
lập Ban hội thẩm, thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đều dựa
trên nguyên tắc đồng thuận phủ quyết (hay đồng thuận nghịch), nghĩa là trong mọi
trường hợp, Ban hội thẩm sẽ được thành lập để giải quyết tranh chấp và các báo cáo
của Ban hội thẩm, của Cơ quan phúc thẩm sẽ được thông qua, trừ khi DSB quyết định
trên cơ sở đồng thuận không thành lập Ban hội thẩm hay không thông qua các báo cáo
này. Điều này dẫn tới việc hầu như Ban hội thẩm được thành lập một cách thụ động
khi có yêu cầu bằng văn bản của nguyên đơn, và các báo cáo cũng được thông qua một
cách tự động.

Đây là một điểm độc đáo và tiến bộ trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
so với GATT 1947 trước đây. Trong cơ chế của GATT 1947, nguyên tắc đồng thuận
được hiểu rằng Ban hội thẩm chỉ được thành lập và một báo cáo chỉ được thông qua
khi có sự nhất trí của tất cả các thành viên trong Hội đồng GATT. Vì vậy, khi một bên
tranh chấp không có thiện chí, thì bên đó có thể gây ra tình trạng trì trệ trong việc
thành lập Ban hội thẩm. Nhiều báo cáo của Ban hội thẩm đã không được thông qua
hoặc chậm trễ thông qua do một hay một số bên không chấp nhận những đề xuất trong
báo cáo.
1.3.4. Nguyên tắc đối xử ưu đãi với các thành viên đang phát triển và chậm
phát triển
Việc đưa ra ưu đãi với các thành viên đang phát triển chỉ thể hiện ở chỗ Ban thư
ký WTO dành hỗ trợ về mặt pháp lý cho các thành viên này, có thể kéo dài một số thời
hạn trong quá trình giải quyết tranh chấp, và tình hình kinh tế của thành viên này được
chú ý tới trong các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp.
1.4. Mục tiêu của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
1.4.1. Bảo đảm sự an toàn và tính dự báo cho hệ thống thương mại đa phương
Mục tiêu trọng tâm của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là bảo đảm sự an
toàn và tính dự báo của hệ thống thương mại đa phương. Mặc dù thương mại quốc tế
được hiểu trong WTO như là dòng hàng hóa và dịch vụ lưu chuyển giữa các thành
viên, nhưng nói chung, các Chính phủ không trực tiếp tiến hành các hoạt động thương
mại này mà do các đối tác kinh tế tư nhân tiến hành. Các đối tác tham gia thị trường
này cần sự ổn định và tính dự báo trong các luật lệ, quy định, nguyên tắc điều chỉnh


15
hoạt động thương mại của họ, đặc biệt là khi họ thực hiện thương mại trên cơ sở các
giao dịch dài hạn.
Do đó, mục tiêu của DSU là bảo đảm có một hệ thống hoạt động trên cơ sở quy
định pháp luật, tin cậy, hiệu quả và nhanh chóng để giải quyết các tranh chấp liên quan
đến việc áp dụng các điều khoản của các hiệp định WTO. Thông qua việc tăng cường

nguyên tắc pháp quyền, cơ chế giải quyết tranh chấp làm cho hệ thống thương mại trở
nên an toàn hơn và có khả năng dự đoán. Khi một thành viên bị cho là không tuân thủ
các hiệp định WTO, thì cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ đưa ra cách giải quyết tương
đối nhanh chóng đối với vấn đề đó bằng một quyết định độc lập buộc phải thi hành
ngay, và nếu thành viên thua kiện không chịu thi hành thì có thể sẽ bị trừng phạt
thương mại.
1.4.2. Bảo toàn các quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO
Một tranh chấp phát sinh khi một thành viên WTO thông qua một biện pháp
chính sách thương mại mà một hay nhiều thành viên khác coi là không phù hợp với
nghĩa vụ theo Hiệp định WTO. Trong trường hợp đó, bất kỳ thành viên nào cho rằng
mình bị thiệt hại, thì đều được phép viện dẫn đến các điều khoản và thủ tục của hệ
thống giải quyết tranh chấp để chính thức phản đối lại biện pháp đó.
Nếu các bên tranh chấp không thể hoà giải được, thì bên khiếu kiện được bảo
đảm giải quyết tranh chấp bằng một quy trình dựa trên nguyên tắc mà theo đó tính
đúng đắn của đơn kiện sẽ được xem xét bởi một cơ quan độc lập (Ban hội thẩm hoặc
Cơ quan phúc thẩm). Nếu bên khiếu kiện thắng kiện thì kết quả mong muốn là việc
bên bị kiện rút bỏ biện pháp bị coi là không phù hợp với Hiệp định WTO. Bồi thường
và các biện pháp trả đũa chỉ là các biện pháp thứ yếu và có tính tạm thời đối với sự vi
phạm Hiệp định WTO.
Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cho phép các thành viên có thể
bảo đảm rằng các quyền của họ theo các hiệp định WTO được thực hiện. Cơ chế này
cũng quan trọng đối với cả bên bị khiếu kiện để họ tự bảo vệ mình nếu họ không đồng
ý với lời cáo buộc của bên khiếu kiện. Trong trường hợp này, cơ chế giải quyết tranh
chấp đóng vai trò bảo vệ quyền và nghĩa vụ của thành viên theo các hiệp định WTO.
Các quyết định của các cơ quan liên quan nhằm mục tiêu phản ánh và thực thi một
cách đúng đắn các quyền và nghĩa vụ như được quy định tại các hiệp định WTO.


16
1.4.3. Làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ thông qua giải thích các hiệp định WTO

Phạm vi chính xác của quyền và nghĩa vụ được nêu trong Hiệp định WTO không
hoàn toàn được rõ ràng ngay, nếu chỉ đọc văn bản Hiệp định. Các điều khoản pháp lý
thường được viết ra theo ngôn ngữ chung để có thể áp dụng chung và bao trùm một số
lượng lớn các trường hợp, tình huống cụ thể. Do đó, việc một số tình tiết nào đó có
gây ra vi phạm quy định pháp luật được hàm chứa trong một điều khoản cụ thể nào đó
hay không, là một câu hỏi mà không dễ trả lời. Trong phần lớn các trường hợp, câu trả
lời chỉ có thể được tìm thấy sau khi giải thích được các nội dung của quy định liên
quan. Thêm vào đó, các quy định pháp lý trong các điều ước quốc tế thường thiếu sự
rõ ràng, bởi câu chữ của chúng là kết quả của sự thỏa hiệp sau các vòng đàm phán đa
phương. Những thành viên khác nhau tham gia vào quá trình đàm phán thường phải
dung hòa các quan điểm khác nhau, thông qua việc thống nhất nội dung của văn kiện
sao cho có thể hiểu theo nhiều cách để vẫn thỏa mãn được yêu cầu của các nhóm có
quyền lợi kinh tế khác nhau. Các nhà đàm phán cũng có thể nhờ đó mà hiểu những
quy định cụ thể theo các cách trái ngược và khác nhau. Tuy nhiên, DSU chỉ ra một
cách rõ ràng rằng hệ thống giải quyết tranh chấp có mục tiêu làm rõ các quy định của
Hiệp định WTO “phù hợp với những quy tắc về tập quán trong giải thích công pháp
quốc tế”.
Như vậy, DSU đã công nhận sự cần thiết phải làm rõ các quy định của WTO và
yêu cầu bắt buộc rằng việc làm rõ này phải theo đúng quy tắc có tính tập quán về giải
thích điều ước quốc tế. Thêm vào đó, Điều 17.6 DSU đã ngầm công nhận rằng các
Ban hội thẩm được phép phát triển các giải thích pháp lý. Do đó, “thẩm quyền duy
nhất” theo Điều IX:2 của Hiệp định WTO phải được hiểu là khả năng thông qua những
giải thích “chính thức”, có hiệu lực chung đối với tất cả các thành viên WTO. Điều này
khác với các giải thích của các Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm là chỉ áp dụng cho
các bên tranh chấp và cho một tranh chấp cụ thể.
Về phương pháp giải thích, DSU dẫn chiếu đến các “quy tắc về tập quán trong
giải thích công pháp quốc tế (Điều 3.2 DSU). Tuy nhiên, các quy tắc của pháp luật tập
quán quốc tế thường không được viết thành văn bản, nhưng đã có một số điều ước
quốc tế pháp điển hóa một số quy tắc của pháp luật tập quán về giải thích điều ước
quốc tế. Đáng chú ý là các Điều 31 (Quy định chung về giải thích); Điều 32 (Phương

tiện bổ trợ để giải thích) và Điều 33 (Giải thích điều ước được chứng thực bằng hai


17
hay nhiều ngôn ngữ) của Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước hàm chứa nhiều
quy tắc có tính tập quán về giải thích công pháp quốc tế.
Do vậy, việc giải thích các hiệp định WTO cần được giải thích phù hợp với nghĩa
thông thường của từ ngữ trong quy định liên quan, được cân nhắc trong “bối cảnh” của
chúng và theo mục đích và đối tượng của hiệp định. Những định nghĩa của thuật ngữ
này trong từ điển có thể sử dụng để trợ giúp cho mục tiêu đó. “Bối cảnh” nghĩa là nói
đến các kết luận có thể được đưa ra trên các cơ sở, chẳng hạn như cấu trúc, nội dung
hoặc thuật ngữ ở các điều khoản khác cùng trong hiệp định, đặc biệt là những điều
khoản có trước và sau quy định cần giải thích. “Đối tượng và mục đích” là nói đến
mục đích rõ ràng hay ngụ ý của quy định liên quan hay cả hiệp định nói chung.
Trên thực tế, Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm dường như dựa nhiều vào
nghĩa thông thường và bối cảnh hơn là vào đối tượng và mục đích của các điều khoản
cần giải thích. Lịch sử đàm phán hiệp định chỉ là một công cụ thứ cấp bổ trợ cho việc
giải thích, công cụ này chỉ được sử dụng để khẳng định sự giải thích theo nghĩa thông
thường, bối cảnh, đối tượng và mục đích hoặc nếu như kết quả giải thích có thể hiểu
theo nhiều cách, mơ hồ, rõ ràng là vô lý hoặc không hợp lý. Một trong những hệ luận
của các nguyên tắc giải thích điều ước quốc tế là ý nghĩa và hiệu lực phải được đưa ra
đối với tất cả các thuật ngữ của một hiệp định thay vì làm cho toàn bộ các phần của
một hiệp định trở nên thừa và vô dụng.
1.4.4. Giải pháp ưu tiên là “thỏa thuận”
Mặc dù cơ chế giải quyết tranh chấp được sử dụng để bảo toàn các quyền của các
thành viên bị xâm phạm và để làm rõ phạm vi các quyền và nghĩa vụ mà những quyền
và nghĩa vụ này đã dần đạt được ở mức cao hơn về tính an toàn và dự báo, nhưng mục
tiêu hàng đầu của cơ chế này không phải là để đưa ra các phán quyết hay để phát triển
án lệ. Giống như các hệ thống pháp luật khác, nó ưu tiên giải quyết tranh chấp với
mong muốn thông qua giải pháp được các bên tự dàn xếp, thỏa thuận và phù hợp với

các hiệp định WTO. Việc xét xử chỉ được sử dụng khi các bên không thể đưa ra được
giải pháp này. Với tư cách là giai đoạn đầu tiên của mỗi tranh chấp, DSU yêu cầu các
bên tham vấn chính thức đưa ra một khuôn khổ mà theo đó các bên tranh chấp phải ít
nhất là cố gắng đàm phán để đạt được hòa giải. Ngay cả khi vụ kiện đến giai đoạn xét
xử, các bên vẫn có thể tự dàn xếp với nhau và luôn được khuyến khích nỗ lực theo
hướng này.


18
1.4.5. Giải quyết tranh chấp nhanh chóng
DSU nhấn mạnh rằng giải quyết tranh chấp nhanh chóng là rất quan trọng nếu
WTO muốn hoạt động hiệu quả và sự cân bằng các quyền và nghĩa vụ giữa các thành
viên được duy trì. DSU đưa ra các thủ tục tương đối cụ thể và thời gian tương ứng phải
tuân thủ trong giải quyết tranh chấp. Thủ tục cụ thể được đưa ra nhằm mục tiêu đạt
hiệu quả, bao gồm cả quyền của bên khiếu kiện được đi tiếp theo các bước tố tụng với
đơn khiếu kiện ngay cả khi không có sự đồng ý của bên bị khiếu kiện. Nếu vụ kiện
được xét xử thì nó có thể cần không quá 12 tháng để Ban hội thẩm đưa ra phán quyết
và không quá 15 tháng trong trường hợp vụ kiện được phúc thẩm.
Tuy nhiên, các cuộc tranh chấp trong WTO thường rất phức tạp cả về tình tiết và
pháp luật. Các bên thường đưa ra một số lượng đáng kể các số liệu và tài liệu liên quan
đến biện pháp đang tranh chấp và họ cũng đưa ra những lập luận pháp lý rất cụ thể.
Các bên cần thời gian để chuẩn bị những lập luận về tình tiết và pháp luật để trả lời
cho những lập luận mà bên kia đưa ra. Ban hội thẩm và/hoặc Cơ quan phúc thẩm được
bổ nhiệm để giải quyết vấn đề sẽ cần phải xem xét tất cả các bằng chứng và lập luận,
có thể phải nghe ý kiến tư vấn của chuyên gia và đưa ra lập luận chi tiết, từ đó đưa ra
kết luận. Nếu tính đến tất cả các khía cạnh này, hệ thống giải quyết tranh chấp của
WTO hoạt động tương đối nhanh và trong mọi trường hợp, nhanh hơn nhiều so với các
hệ thống tòa án của thành viên hoặc hệ thống tài phán quốc tế khác.
1.4.6. Cấm quyết định đơn phương
Các thành viên WTO đã đồng ý sử dụng hệ thống đa phương để giải quyết các

tranh chấp thương mại trong WTO của họ thay vì sử dụng đến hành động đơn phương.
Nếu một thành viên khiếu kiện thành viên khác là đã vi phạm các quy tắc WTO và
hành động một cách đơn phương áp dụng biện pháp đối kháng, thì có nghĩa thành viên
đó cũng vi phạm nghĩa vụ. Thành viên đó có thể lập luận rằng mình đã hành động
đúng luật vì sự vi phạm của họ được lý giải với tư cách là biện pháp đối kháng với sự
vi phạm trước đó của thành viên khác. Tuy nhiên, nếu thành viên bị khiếu kiện không
đồng ý rằng biện pháp của họ là vi phạm nghĩa vụ của WTO, thì họ cũng sẽ không
chấp nhận lập luận về biện pháp đối kháng mà thành viên khiếu kiện đưa ra. Do vậy,
thành viên bị khiếu kiện có thể cho rằng biện pháp đối kháng đó là bất hợp pháp và họ
có lý do chính đáng để áp dụng một biện pháp đối kháng để chống lại. Bên khiếu kiện
ban đầu dựa trên quan điểm pháp lý của mình có thể sẽ lại không đồng ý và tiếp tục


19
đưa ra một biện pháp đối kháng khác. Sự việc có thể gia tăng căng thẳng ngoài tầm
kiểm soát và nếu như không có một bên rút lui thì nguy cơ hạn chế thương mại giữa
các bên sẽ ngày càng leo thang và điều này có thể dẫn đến “chiến tranh thương mại”.
Để ngăn chặn mâu thuẫn gia tăng như vậy, DSU yêu cầu bắt buộc sử dụng hệ
thống đa phương để giải quyết tranh chấp mà các thành viên WTO phải sử dụng khi họ
muốn một thành viên khác sửa sai trong khuôn khổ Hiệp định WTO. Điều này áp dụng
đối với trường hợp một thành viên tin tưởng rằng thành viên khác đã vi phạm Hiệp
định WTO, hoặc làm triệt tiêu, hoặc suy giảm các lợi ích theo các hiệp định WTO,
hoặc làm cản trở việc đạt mục tiêu của một trong số các hiệp định.
Trong các trường hợp như vậy, một thành viên không thể hành động dựa trên các
quyết định đơn phương khi xảy ra một trong các tình huống trên mà chỉ có thể hành
động sau khi đã sử dụng việc giải quyết tranh chấp theo các thủ tục và quy tắc của
DSU. Nếu thành viên khiếu nại được hành động gì thì họ đều chỉ có thể dựa trên các
kết luận của Ban hội thẩm được thông qua hoặc báo cáo của Cơ quan phúc thẩm hoặc
phán quyết của trọng tài đã được thông qua. Thành viên liên quan cũng phải tuân thủ
các thủ tục được đề ra trong DSU đối với việc xác định về thời gian thực hiện và áp

dụng các biện pháp trả đũa chỉ trên cơ sở được phép của DSB.
1.4.7. Tính chất bắt buộc
Cơ chế giải quyết tranh chấp có tính bắt buộc. Tất cả các thành viên WTO đều
phải tuân thủ nó bởi họ đã ký và phê chuẩn các hiệp định WTO như là “cả gói” cam
kết chung mà DSU là một phần trong đó.
DSU buộc tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ cơ chế giải quyết tranh chấp
đối với tất cả các tranh chấp phát sinh trong khuôn khổ các hiệp định WTO. Do đó,
không giống các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế khác, các bên tranh chấp không
cần thiết phải có một tuyên bố riêng hay thỏa thuận riêng về việc chấp nhận quyền tài
phán của DSB. Việc chấp thuận quyền tài phán đã được hàm chứa trong việc thành
viên gia nhập WTO. Kết quả là từng thành viên WTO được bảo đảm quyền tiếp cận cơ
chế giải quyết tranh chấp và không thành viên bị kiện nào có thể trốn tránh được
quyền tài phán này.


×