Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 214 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
********************

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

ĐỀ TÀI

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003
NHẰM BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG
VÀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

Mã số: LH - 2010 - 05/ĐHL - HN
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: TS. PHAN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1. Những vấn đề chung về hoàn thiện BLTTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc
tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
2. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân trong tố tụng hình sự và nguyên nhân về pháp luật của thực trạng này
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc

1
8
8


21
37

tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
CÁC CHUYÊN ĐỀ

52

1. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân - Nguyên tắc cơ bản của
tố tụng hình sự.
2. Pháp luật quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

52

3. Các quyền cơ bản hiến định của công dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

84

4. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật và
pháp luật tố tụng hình sự.
5. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân trước pháp luật.

97

70

113

6. Hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm quyền bất khả xâm phạm

về thân thể của công dân.
7. Bảo đảm quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân trong tố tụng hình sự.

126

8. Hoàn thiện BLTTHS nhằm bảo đảm quyền không bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp
luật.

160

9. Bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan trong
tố tụng hình sự.
10. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.

173

TÀI LIỆU THAM KHẢO

206

144

186


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự


BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CHXHCN

Hiệu lực pháp luật

HLPL

Tòa án nhân dân tối cao

TANDTC

Viện kiểm sát

VKS

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSNDTC

Xã hội chủ nghĩa

XHCN



NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Chủ nhiệm đề tài: TS. Phan Thị Thanh Mai - Phó Chủ nhiệm Khoa Pháp luật
hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội (chuyên đề 5 và chuyên đề 10).
Thư ký đề tài: Ths. Nguyễn Hải Ninh - Giảng viên Bộ môn Luật tố tụng hình sự,
Trường Đại học Luật Hà Nội (chuyên đề 7).

Những người tham gia thực hiện:
1. TS. Bùi Kiên Điện - Phó Chủ nhiệm Khoa Pháp luật hình sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội (chuyên đề 9)
2. Ths. Mai Thanh Hiếu - Phó Bộ môn Luật tố tụng hình sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội (chuyên đề 8)
3. TS. Tô Văn Hòa - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu pháp luật về bộ máy nhà nước,
Trường Đại học Luật Hà Nội (chuyên đề 3).
4. PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi - Trưởng Bộ môn Lý luận nhà nước và pháp luật,
Trường Đại học Luật Hà Nội (chuyên đề 4).
5. Ths. Chu Mạnh Hùng - Phó Bộ môn Công pháp quốc tế, Trường Đại học
Luật Hà Nội (chuyên đề 2).
6. TS. Vũ Gia Lâm - Trưởng Bộ môn Luật tố tụng hình sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội (chuyên đề 6).
7. TS. Đỗ Thị Phượng - Giảng viên Bộ môn Luật tố tụng hình sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội (chuyên đề 1).


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị chung của các dân tộc, là thành quả phát triển lâu
dài của lịch sử nhân loại. Mỗi dân tộc, bằng hình thức này hay hình thức khác, trong
thời kỳ lịch sử này hay thời kỳ lịch sử khác, đều có những đóng góp vào giá trị đó.

Hiện nay, quyền con người luôn được cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia coi trọng
và xem đó như một thành tựu của nền văn minh và là thước đo của sự tiến bộ xã
hội. Vì vậy, nghiên cứu về quyền con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
xây dựng các cơ chế để đảm bảo quyền con người là đòi hỏi thiết yếu của các ngành
khoa học, trong đó có khoa học luật, đặc biệt là khoa học luật tố tụng hình sự, nhằm
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Quyền con người ngoài tính phổ cập còn mang tính cá biệt về dân tộc, khu
vực, bối cảnh, chính trị, lịch sử, văn hóa và tôn giáo. Vì vậy, hiện nay trên thế giới
còn nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Ở Việt Nam, quan điểm, nhận
thức về quyền con người và đảm bảo quyền con người có sự chuyển biến theo từng
thời kỳ lịch sử. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, công cuộc đổi
mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm thay đổi nhận thức về vấn đề bảo vệ
quyền con người. Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên
nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống
văn hoá dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người được
thế giới thừa nhận rộng rãi. Chỉ thị 12- CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban bí thư
Trung ương Đảng về “Vấn đề quyền con người và quan điểm của Đảng ta” đã chỉ rõ
“Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hoá nội
dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và với tiêu chuẩn
tiến bộ về quyền con người đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi”. Điều 50 Hiến pháp
năm 1992 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Điều 4 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 (BLTTHS) cũng quy định “tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của

1


công dân” là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng
hình sự cho thấy vẫn còn tình trạng có lúc, có nơi quyền cơ bản của công dân còn

chưa thực sự được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Có nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan dẫn đến tình trạng này, trong đó có nguyên nhân một số quy định của
BLTTHS còn bất cập, chưa tạo được cơ chế pháp lý hoàn chỉnh, hợp lý để đảm bảo
quyền cơ bản của công dân, đòi hỏi phải được hoàn thiện hơn. Những nghiên cứu
hoàn thiện BLTTHS nhằm đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân
trong tố tụng hình sự dù đã có nhưng còn chưa toàn diện hoặc chưa sâu, đòi hỏi cần
có sự nghiên cứu sâu rộng hơn nữa.
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm coi là
nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Để tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp,
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TƯ ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TƯ
ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các nghị quyết trên
đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải được nghiên cứu một
cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý nâng
cao hiệu quả của hoạt động tố tụng, đồng thời tăng cường hơn nữa việc đảm bảo các
quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự. Về lĩnh vực lập pháp, Nghị quyết
48 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 đã xác định mục tiêu “xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, trọng tâm, đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát
huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân”.
Qua những phân tích trên, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu đề tài Hoàn
thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là vấn đề khoa học có tính chất cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.

2



2. Tình hình nghiên cứu
Những nghiên cứu về quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình
sự đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở các cấp độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau.
Những nghiên cứu chung về quyền con người và quyền công dân có thể kể đến các
tác phẩm như “Quyền con người - quan điểm và chính sách của Đảng ta”, Trần
Minh Tơn, Tạp chí Cộng sản, 5/2007; “Quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Chế Đình Quang, Tạp chí Cộng sản, 9/2003; “Quyền
con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
và “Bàn về quyền con người, quyền công dân”, GS.TS. Trần Ngọc Đường, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Quyền con người và quyền công dân trong Hiến
pháp Việt Nam”, PGS.TS. Nguyễn Văn Động, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005;
“Cải cách tư pháp với việc bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ quyền công dân”,
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, Nhà nước và pháp luật, 9/2004; “Hiến pháp Việt Nam về
quyền con người, quyền công dân”, GS.TS. Nguyễn Văn Hảo, Luật học, 2/1999.
Trong các tác phẩm này, các tác giả đã nghiên cứu quan điểm của Đảng và tư tưởng
Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân; nghiên cứu về khái niệm về
quyền con người, quyền công dân; phân tích, đánh giá những quy định của Hiến
pháp Việt Nam về quyền con người, quyền công dân; nghiên cứu các cơ chế đảm
bảo quyền con người, quyền công dân, trong đó có cơ chế đảm bảo bằng pháp luật.
Cuốn sách “Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009 do GS.TS.
Võ Khánh Vinh chủ biên đã nghiên cứu các hướng tiếp cận nghiên cứu quyền con
người của các ngành khoa học xã hội có đối tượng nghiên cứu chính hoặc có một số
vấn đề liên quan đến quyền con người trong đó có ngành khoa học luật.
Việc nghiên cứu trực tiếp về vấn đề quyền con người, quyền công dân trong
tố tụng hình sự có thể kể đến một số tác phẩm như “Bảo vệ quyền con người trong
luật hình sự, luật tố tụng hình sự”, TS. Trần Quang Tiệp, Hà Nội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004; “Quyền con người trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003”, tác

giả Lê Quang Đạo, Tạp chí Kiểm sát, 8/2004; “Mấy ý kiến về bảo vệ quyền con

3


người trong tố tụng hình sự nước ta”, PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Nhà nước và pháp
luật, 3/2003. Trong đó, các tác giả chủ yếu phân tích, đánh giá tổng quát về việc bảo
vệ quyền con người được thể hiện trong các quy định của BLTTHS năm 2003.
Những nghiên cứu khác về quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự
như “Tòa án nhân dân với nhiệm vụ bảo vệ quyền của con người, quyền công dân”,
TS. Đặng Quang Phương, Nhà nước và pháp luật, 9/2004; “Hoàn thiện pháp luật để
bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo”, Hoàng Hùng Hải, Nhà nước và pháp
luật, 2/2003… chỉ nghiên cứu từng nội dung hẹp, cụ thể của việc đảm bảo quyền
con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Có những nghiên cứu chuyên sâu
về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự như đề tài cấp Đại học quốc gia Hà
Nội, “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
sự”, năm 2004 do GS. TSKH. Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Trí; TS. Trịnh Quốc Toản
chủ trì; hội thảo khoa học “Thực tiễn đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình
sự Việt Nam” tổ chức tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006
trong khuôn khổ đề tài khoa học cấp bộ do TS. Nguyễn Thái Phúc chủ nhiệm đề tài;
luận án tiến sĩ “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, TS. Nguyễn Quang
Hiền bảo vệ cấp nhà nước năm 2008. Phạm vi nghiên cứu của các công trình này
rộng hơn so với phạm vi đề tài chúng tôi nghiên cứu, tuy nhiên cũng có những vấn
đề các tác giả chưa đề cập hoặc cũng còn có những quan điểm, những ý kiến cần
tranh luận thêm. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình khoa học nào
tập trung nghiên cứu sâu, toàn diện về việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS
nhằm đảm bảo nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và về

nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quyền con
người, về vấn đề cải cách tư pháp và về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu.
Chúng tôi chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp
với nội dung nghiên cứu đó là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,

4


phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp lý luận kết hợp với thực
tiễn khi nghiên cứu đề tài này.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật tố tụng
hình sự, đề tài nghiên cứu đề ra những kiến nghị cụ thể sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTHS nhằm đảm bảo nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân trong tố tụng hình sự.
5. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những bất cập trong các quy định
của BLTTHS liên quan đến quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự, đề ra
những kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS.
- Về nguồn pháp luật: Đề tài tập trung nghiên cứu nhóm nguyên tắc tôn trọng
và bảo đảm các quyền cơ bản của công dân và các quy định khác có liên quan trong
BLTTHS năm 2003; nghiên cứu quy định của Hiến pháp Việt Nam về quyền cơ bản
của công dân và một số công ước quốc tế quan trọng về quyền con người.
- Về không gian, thời gian: Thực tiễn thi hành một số quy định của BLTTHS
được nghiên cứu trên phạm vi cả nước trong thời gian từ khi áp dụng BLTTHS đến nay.
Tuy nhiên, do đề tài tập trung vào nội dung hoàn thiện pháp luật nên phần nghiên cứu về
thực tiễn chủ yếu chỉ để làm rõ, chứng minh cho những lập luận về hoàn thiện một số
điều luật cụ thể của BLTTHS, vì vậy đây không phải là một nội dung được nghiên cứu
một cách toàn diện mà chỉ phản ánh một vài khía cạnh của việc đảm bảo quyền cơ bản

của công dân trong tố tụng hình sự (đề tài sử dụng báo cáo công các ngành Tòa án, Viện
kiểm sát; số liệu thống kê của TANDTC, VKSNDTC và những thông tin về thực tiễn tố
tụng trong các báo cáo công tác ngành Tòa án, Viện kiểm sát và các nguồn thông tin khác).
6. Nội dung nghiên cứu
- Nhận thức khái niệm quyền công dân và quyền con người làm cơ sở cho việc
nhận thức đúng nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong tố
tụng hình sự. Tuy nhiên, do đề tài tập trung nghiên cứu hoàn thiện luật tố tụng hình sự

5


nên chúng tôi không đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền
công dân mà chỉ nhận thức một cách đại cương về vấn đề này.
- Nghiên cứu những quy định của các Điều ước quốc tế phổ cập về quyền
con người mà đa số các quốc gia trong đó có Việt Nam gia nhập và cam kết thực
hiện. Việc nghiên cứu này giúp cho việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS có
sự định hướng nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
- Nghiên cứu các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam nhằm đảm bảo cho việc định hướng để đảm bảo sự
thống nhất giữa luật tố tụng hình sự với Hiến pháp.
- Nghiên cứu về nội dung của nguyên tắc ‘tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân” trong tố tụng hình sự và ý nghĩa của nguyên tắc trong việc xây
dựng và thi hành pháp luật tố tụng hình sự, định hướng cho các kiến nghị sửa đổi,
bổ sung các quy định của BLTTHS.
- Nghiên cứu về các tiêu chí cơ bản hoàn thiện BLTTHS dưới góc độ lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, định hướng cho việc nghiên cứu hoàn thiện các
quy định của BLTTHS.
- Nghiên cứu các quy định của BLTTHS, xác định những bất cập, vướng
mắc của các quy định này dẫn đến việc chưa thực sự bảo đảm các quyền cơ bản của
công dân, đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện BLTTHS theo hướng

đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân, đồng thời đảm bảo thực
hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm.
7. Cơ cấu đề tài
Mở đầu
Tổng thuật kết quả nghiên cứu
1. Những vấn đề chung về hoàn thiện BLTTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc
tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
2. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân trong tố tụng hình sự và nguyên nhân về pháp luật của thực trạng.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.

6


Các chuyên đề
1. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân - Nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự.
2. Pháp luật quốc tế về quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
3. Các quyền cơ bản hiến định của công dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
4. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật và
pháp luật tố tụng hình sự.
5. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân trước pháp luật.
6. Hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân.
7. Bảo đảm quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của công dân trong tố tụng hình sự.
8. Hoàn thiện BLTTHS nhằm bảo đảm quyền không bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

9. Bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan trong
tố tụng hình sự.
10. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.
Tài liệu tham khảo

7


TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOÀN THIỆN BLTTHS NHẰM BẢO ĐẢM
NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG VÀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

1.1. Một số nhận thức cơ bản về quyền con người và quyền công dân
Quyền con người là đặc tính tự nhiên vốn có, xuất hiện cùng với sự hình
thành của con người và xã hội loài người. Tuy nhiên quyền con người chỉ được đề
cập tới khi xã hội phân chia thành giai cấp. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ với đặc
trưng là không có sự phân biệt đối xử vì vậy tất cả các thành viên trong xã hội đều
bình đẳng. Đặc trưng này phản ánh yếu tố tự nhiên vốn có của con người đó là sự
bình đẳng giữa người với người. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, con người
được đưa về những vị trí khác nhau trong xã hội: chủ nô và nô lệ; thống trị và bị
trị…dù rằng đều là con người. Điều này đã phá vỡ bản chất tự nhiên vốn có của con
người đó là sự bình đẳng và quyền con người bắt đầu được nhắc đến như một đòi
hỏi tất yếu khách quan. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ và thời kỳ phong kiến, mặc dù con
người bị trà đạp một cách thô bạo nhưng quyền con người mới chỉ được đề cập đến
trong triết học, chính trị hoặc tôn giáo. Khi cách mạng tư sản nổ ra ở châu Âu và
nhà nước tư sản thành lập thì lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại quyền con người
đã được ghi nhận trong pháp luật của các nhà nước tư sản. Tuyên ngôn của Hợp
Chủng quốc Hoa kỳ năm 1776 khẳng định “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng,
tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy

có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 cũng khẳng định “tất cả mọi
người đều bình đẳng và luôn luôn bình đẳng về quyền lợi”.
Xét ở phương diện nhân văn việc ghi nhận những giá trị của quyền con
người trong pháp luật là đóng góp cho tiến trình phát triển của nhân loại và cùng với
lịch sử, quyền con người dần dần được ghi nhận và trở thành một nội dung quan
trọng của pháp luật quốc tế cũng như luật quốc gia. Tóm lại, quyền con người là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người được ghi nhận
và bảo vệ trong pháp luật quốc tế và quốc gia.
Quyền con người có những tính chất sau:

8


- Tính phổ biến: Quyền con người đó là những gì bẩm sinh, vốn có của con
người được áp dụng bình đẳng cho mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không
có sự phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do gì.
- Tính không thể chuyển nhượng: Quyền con người không thể bị tước đoạt
hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả cơ quan và viên chức
nhà nước, trừ một số trường hợp đặc biệt (ví dụ, người có tội bị tước tự do).
- Tính không thể phân chia: Các quyền con người đều có tầm quan trọng như
nhau, không có quyền nào có giá trị hơn quyền nào. Việc hạn chế hay tước bỏ bất
kỳ quyền nào cũ đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của
con người. Trong bối cảnh cụ thể, đối tượng cụ thể sự ưu tiên đối với những quyền
bị đe dọa vi phạm sẽ nhiều hơn quyền khác.
- Tính liên hệ và phụ thuộc: Quyền con người liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Việc
bảo đảm hay vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đảm bảo các quyền khác.1
Xét trên phương diện khoa học pháp lý, căn cứ vào bản chất và đặc điểm,
quyền con người được chia thành hai nhóm: quyền dân sự - chính trị; quyền kinh tế
- xã hội và văn hóa. Xét về mặt lịch sử quyền dân sự - chính trị là những nhân tố

đầu tiên tạo nên nội dung quyền con người. Vì vậy, lịch sử của quyền dân sự - chính
trị gắn liền với lịch sử phát triển của quyền con người. Quyền dân sự - chính trị liên
quan mật thiết đến tự do cá nhân, bao gồm:
- Quyền dân sự: quyền tự do đi lại và cư trú, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
quyền thừa kế, sở hữu…Đây là những quyền đặc biệt quan trọng bởi nó gắn chặt
với mỗi cá nhân không thể bị tước đoạt trong bất kỳ trường hợp nào.
- Quyền chính trị: gồm các quyền đảm bảo quá trình tham gia và quản lý nhà
nước, xã hội như quyền bầu cử, ứng cử, tự do ngôn luận, báo chí, hội họp v.v…
Căn cứ vào tính chất, nội dung của các quyền dân sự chính trị được nhìn
nhận từ hai góc độ khác nhau đó là quyền tuyệt đối và quyền tương đối2. Quyền

1
Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên,
Giáo trình Lý luận và phát triển về quyền con người. NXB Chính trị quốc gia, 2009, tr. 46 – 48.

9


tuyệt đối là những quyền có mối quan hệ mật thiết đến tình trạng cuộc sống cá
nhân, đến nhân phẩm, thể chất con người mà không có những quyền này thì cuộc
sống và tính mạng cá nhân khó có thể đảm bảo như quyền không bị bắt làm nô lệ,
quyền không bị tra tấn, nhục hình, quyền được bào chữa. Vì vậy, nhà nước và các
cơ quan công quyền phải thi hành mà không kèm theo một điều kiện ràng buộc nào.
Quyền tương đối là những quyền mà việc thực thi cần thiết phải xem xét mối tương
quan giữa những quyền đó trong việc đảm bảo tính hiệu quả của những quyền khác
như quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo. Vấn đề đặt ra là mức độ thực
hiện nó như thế nào để thực sự đảm bảo quyền này nhưng không gây nên những tác
động ngược chiều ảnh hưởng đến những quyền tự do khác. Quyền con người là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người được ghi nhận

và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và quốc tế
Quyền công dân là các quyền con người được ghi nhận trong luật quốc gia, gắn
liền với tư cách công dân (là người có quốc tịch của quốc gia đó). Khái niệm quyền cơ bản
của công dân bắt nguồn từ khái niệm mối quan hệ cơ bản giữa nhà nước và công dân. Bất
kỳ nhà nước nào muốn tồn tại và được công nhận đều phải xác lập chủ quyền của mình đối
với một phạm vi dân cư và lãnh thổ nhất định. Đối với một nhà nước hiện đại, khi xác định
chủ quyền đối với phạm vi dân cư có nghĩa là xác định mối quan hệ cơ bản giữa nhà nước
đó với người dân của mình. Khi chủ quyền của nhà nước đối với người dân được xác lập
thì cũng đồng thời xác lập mối quan hệ công dân. Vì vậy người ta thường nói, quan hệ
công dân chính là cơ sở pháp lý để hình thành mối quan hệ cơ bản giữa nhà nước và công
dân. Ở Việt Nam, nội dung của mối quan hệ này chính là việc nhà nước bảo đảm cho
người công dân của mình được hưởng những quyền tối thiểu gì và người công dân phải
thực hiện những nghĩa vụ tối thiểu gì đối với nhà nước. Nói một cách khác, khi một người
đã trở thành công dân Việt Nam thì người công dân đó được Nhà nước Việt Nam cam kết
bảo đảm có được những quyền tối thiểu nhất định, đó là những quyền cơ bản của công
dân, và nhà nước Việt Nam cam kết về điều này bằng việc ghi nhận những quyền cơ bản
của công dân Việt Nam trong Hiến pháp, đạo luật cơ bản của mình.
2
Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội 1997, tr. 28

10


Trong mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước Việt Nam và người công dân Việt Nam,
quyền cơ bản của công dân tương ứng với nghĩa vụ của nhà nước phải tôn trọng và bảo
đảm cho những quyền đó được thực thi trên thực tế. Điều này cũng có nghĩa là tất cả các
cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước, trong phạm vi chức năng của mình, có nghĩa vụ
và trách nhiệm bảo đảm cho những quyền đó được thực thi. Mỗi khi một quyền cơ bản của
công dân đã được quy định trong hiến pháp thì tất cả các cơ quan nhà nước đều phải bảo

đảm cho quyền đó được thực thi, không loại trừ bất kỳ một cơ quan nào. Cơ quan lập pháp
có trách nhiệm ban hành luật để cụ thể hóa và tạo khung pháp lý thi hành quyền cơ bản đó;
cơ quan hành pháp có nghĩa vụ tôn trọng, không được vi phạm quyền đó; cơ quan tư pháp
có nghĩa vụ tôn trọng, không được vi phạm và bảo vệ những quyền đó khi chúng bị vi
phạm. Chính vì đặc điểm này mà tổng thể các quyền cơ bản (và cả nghĩa vụ cơ bản) của
công dân tạo thành địa vị pháp lý của người công dân đối với nhà nước. Qua tổng thể các
quyền cơ bản của công dân, người ta có thể đánh giá được một nhà nước coi trọng địa vị
pháp lý của người dân của mình đến mức độ nào.
1.2. Nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân (Điều 4 BLTTHS)
1.2.1. Nội dung của nguyên tắc:
Điều 4 BLTTHS quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của
mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên
kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng kịp thời huỷ bỏ
hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần
thiết nữa”.
Theo quy định này, chủ thể có trách nhiệm phải “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân” là những người tiến hành tố tụng. Đó là những người đại diện cho nhà
nước, có trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể đó là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm. Trách nhiệm này thể hiện ở

11


những nội dung sau:
- Phải có thái độ đánh giá cao và xác định ý thức không được xâm phạm đến các
quyền cơ bản của công dân. Để có được sự tôn trọng này, đòi hỏi những người tiến hành tố

tụng phải có nhận thức đúng đắn về vấn đề quyền con người, quyền công dân, chống lại tư
duy nặng về buộc tội, có định kiến với bị can, bị cáo. Việc nhận thức đúng đắn là cơ sở cho
việc hành động đúng, quyền cơ bản của công dân trong tố tụng có được bảo vệ hay không
phụ thuộc rất nhiều vào việc những người tiến hành tố tụng có thực sự tôn trọng các quyền
cơ bản của công dân hay không.
- Phải có trách nhiệm chống lại mọi sự xâm phạm trái pháp luật các quyền cơ bản
của công dân. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng có quyền tiến hành những hoạt động tố tụng và ra những quyết định tố tụng có tính
chất bắt buộc đối với cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có liên quan. Trong các hoạt động
và quyết định đó, có những hoạt động, quyết định sẽ động chạm đến các quyền tự do cơ
bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận đặc biệt là các quyết định về việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế tố tụng. Tuy nhiên đấy là những quyền năng bắt buộc phải có của
những người tiến hành tố tụng để các chủ thể này thực hiện được nhiệm vụ của mình, để
bảo vệ lợi ích chung của xã hội, ngăn chặn và xử lý hành vi có dấu hiệu tội phạm và người
thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm. Điều đó không có nghĩa, những người tiến hành tố
tụng được phép lạm dụng quyền năng của mình mà khi thực hiện các quyền năng này họ
phải có trách nhiệm trong việc tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. BLTTHS đã qui
định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh
thực hiện những qui định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết
định của mình. Nếu có hành vi phạm pháp luật, tùy mức độ vi phạm mà những người tiến
hành tố tụng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi
thường hoặc bồi hoàn.
Chủ thể được “tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân” đó là công dân. Họ
có thể là người tham gia tố tụng hoặc những người khác có quyền cơ bản bị ảnh hưởng bởi
hành vi tố tụng hoặc quyết định tố tụng. Đó có thể là bị can, bị cáo, người bị tạm giữ,

12


nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cũng có thể là người

làm chứng, người tố giác tội phạm, người chứng kiến hoặc là người bị thiệt hại vật chất do
hoạt động tố tụng gây ra.
Những quyền được tôn trọng và bảo vệ theo quy định tại Điều 4 BLTTHS đó là
các quyền cơ bản của công dân. Đó là các quyền tối thiểu nhất định mà người công dân
được Nhà nước Việt Nam cam kết bằng việc ghi nhận trong Hiến pháp và bảo đảm thực
hiện. Đó là các quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân; quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện tín; quyền được bồi thường những thiệt
hại do cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền gây ra; quyền khiếu nại, tố cáo v.v.
Nguyên tắc “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” được quy định tại
Điều 4 BLTTHS với nội dung như trên mang tính khái quát cao. Nhiều nội dung cụ thể
của nguyên tắc này được quy định thành các nguyên tắc khác trong BLTTHS. Đó là các
nguyên tắc: bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (Điều 5); bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6); bảo hộ tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 7); bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở,
an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Điều 8); không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
(Điều 9); bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30); bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự…3
1.2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc
- Ý nghĩa chính trị: Việc quy định “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và áp dụng nguyên tắc này
3

Có nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự. Chúng tôi
cho rằng do quyền công dân cũng giống như quyền con người luôn có tính liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Việc
bảo đảm hay vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đảm bảo hay vi phạm các quyền khác. Vì vậy,
quyền cơ bản nào của công dân cũng có thể bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các hoạt động và quyết
định tố tụng. Việc xác định những quyền nào là quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự là tùy thuộc

vào cách tiếp cận và quan điểm của của từng tác giả. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi không đi sâu nghiên
cứu vấn đề này mà lựa chọn nghiên cứu một số quyền cơ bản của công dân được quy định trong Chương 5
Hiến pháp đồng thời được quy định trong BLTTHS.

13


trong thực tiễn tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng về chính trị. Nguyên tắc này thể hiện quan
điểm, chính sách của Đảng và nhà nước ta về vấn đề quyền con người nói chung và quyền
con người trong tố tụng hình sự nói riêng. Trong Chỉ thị 12/TW của Ban bí thư ngày
12/7/1992 Đảng đã chỉ đạo “Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng
bước thể chế hóa nội dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và
với tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi”. Trong giai
đoạn hiện nay, nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN đòi hỏi phải tiến hành cải cách tư pháp và vấn đề đảm bảo quyền
con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Mục
tiêu của cải cách tư pháp được Đảng xác định là “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.4
Việc quy định và áp dụng nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải đảm
bảo tôn trọng pháp luật, tạo được ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý
nhà nước, chống lại sự tùy tiện của những người có quyền. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi
phải xác định đúng đắn trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân. Việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung về
Nhà nước pháp quyền. Một trong những dấu hiệu nổi bật của Nhà nước pháp quyền là tính
hợp hiến và vấn đề tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước nhằm tạo sự đồng bộ, hiệu quả của
quá trình sử dụng quyền lực nhà nước.5 Nguyên tắc “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản

của công dân” đã thể hiện rõ nét và đáp ứng các nội dung của nhà nước pháp quyền. Quan
hệ giữa những người tiến hành tố tụng với công dân trong tố tụng hình sự thể hiện mối
quan hệ giữa nhà nước với công dân. Nhà nước trao quyền cho những người tiến hành tố

4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020
5
Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới”, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr. 214 – 219.

14


tụng thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Những người này có trách
nhiệm tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp
và BLTTHS. Việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền công dân phải tuân thủ pháp luật
và không được lạm quyền.
- Ý nghĩa xã hội: Việc quy định và áp dụng nguyên tắc “tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân” đảm bảo việc thực hiện công bằng, dân chủ trong tố tụng tố
tụng hình sự, qua đó đảm bảo công bằng trong xã hội. Việc quy định những người tiến
hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong tố
tụng hình sự còn đảm bảo lòng tin của người dân vào cơ quan tiến hành tố tụng, vào pháp
luật và nhà nước, góp phần ổn định trật tự xã hội.
- Ý nghĩa pháp lý: Nguyên tắc “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân” là căn cứ pháp lý để từ đó quy định các nguyên tắc cụ thể bảo đảm các quyền cơ bản
của công dân. Nguyên tắc này cũng là định hướng cơ bản, quan trọng cho việc xây dựng
các quy định khác trong BLTTHS và định hướng cho việc áp dụng pháp luật tố tụng hình
sự. Nguyên tắc này là căn cứ pháp lý để công dân được hưởng các quyền cơ bản trong tố

tụng hình sự đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xác định trách nhiệm của những người
tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong tố
tụng hình sự.
1.3. Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS
nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
1.3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
BLTTHS năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa 11
thông qua ngày 26/11/2003 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 (BLTTHS năm 2003).
BLTTHS năm 2003 đã thể hiện bước tiến bộ quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật,
tạo khuôn khổ pháp luật ngày càng hoàn chỉnh trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Bộ luật này
đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

15


bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật
tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân.
Hiện nay, công cuộc cải cách tư pháp đang được Đảng và nhà nước ta tích cực thực
thiện và là nhân tố quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong thời gian
qua, Đảng ta đã ra Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020. Nghị quyết này chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự đòi hỏi
phải được nghiên cứu và thể chế hóa thành những quy định trong BLTTHS, tạo cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết vụ án hình sự. Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 cũng xác định rõ: nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ,
thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Việc nghiên cứu và tổ chức
thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ;
việc phải tiến hành xây dựng hoàn thiện pháp luật Việt Nam là đòi hỏi cấp bách. BLTTHS

năm 2003 cũng có những hạn chế chung như trên và có những hạn chế riêng khác, đặc biệt
là còn nhiều hạn chế trong việc tạo cơ chế pháp lý thực hiện các quyền cơ bản của công
dân trong tố tụng hình sự. Vì vậy rất cần hoàn thiện BLTTHS để đáp ứng những yêu cầu
cải cách tư pháp và những đòi hỏi của thực tiễn tố tụng. Mặt khác, trong thời gian qua,
nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành với những nội dung liên quan đến tố tụng hình
sự như Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 2009; Luật Thi hành án năm
2010; Luật Đặc xá năm 2007; Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 v.v,
đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung BLTTHS để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ
thống pháp luật và nhằm thực hiện tốt hơn những nhiệm vụ của tố tụng hình sự, trong đó
có nhiệm vụ quan trọng là bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân trong
tố tụng hình sự.
1.3.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện BLTTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn trọng
và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
Việc hoàn thiện BLTTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền
cơ bản của công dân phải đảm bảo yêu cầu về tính khoa học và phải “thể chế hóa kịp thời,
đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng

16


nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân”6
Việc hoàn thiện BLTTHS phải đáp ứng được ngày càng tốt hơn yêu cầu của những
tiêu chí mà một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đòi hỏi. Đó là phải đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch. Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 cũng xác định rõ mục tiêu “xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực
hiện quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân”.
Tính toàn diện của hệ thống pháp luật : Tính toàn diện của hệ thống pháp

luật thể hiện ở khả năng bao quát đời sống xã hội của nó, bảo đảm tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật đều có pháp luật để điều
chỉnh. Đối với BLTTHS, tính toàn diện được thể hiện ở chỗ nội dung phải có đầy đủ
các chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật cần thiết để điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong những lĩnh vực giải quyết vụ án hình sự.
Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật: Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật
thể hiện ở chỗ các quy định của pháp luật phải thống nhất với nhau, không mâu
thuẫn, trùng lặp chồng chéo hoặc loại bỏ lẫn nhau. Điều đó thể hiện ở sự phù hợp
giữa các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác với Hiến pháp, ở sự
thống nhất giữa các quy định trong các đạo luật với nhau, giữa các quy định trong
các văn bản quy phạm của các cấp cơ quan nhà nước và giữa các quy định trong văn
bản quy phạm của các cơ quan trong cùng một cấp. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực tố
tụng hình sự, tính đồng bộ của pháp luật đòi hỏi hỏi các quy định trong BLTTHS
phải thống nhất, không mâu thuẫn với các quy định của Hiến pháp và các đạo luật
hiện hành khác, đặc biệt là với Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân
sự; Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước...; các quy định trong các văn bản hướng
dẫn thi hành luật phải thống nhất, không mâu thuẫn với quy định trong luật; các quy

6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

17


định trong bản thân luật và trong mỗi văn bản hướng dẫn thi hành cũng phải thống
nhất và không mâu thuẫn với nhau.
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật: Tính phù hợp của hệ thống pháp luật
thể hiện ở sự phù hợp, sự tương thích giữa các quy định của pháp luật với trình độ
phát triển của kinh tế xã hội, chế độ chính trị, trình độ của nền dân chủ, phong tục

tập quán, đạo đức, truyền thống, đặc điểm, tâm lý dân tộc, lẽ phải, lẽ công bằng,
trình độ dân chí, sự cần thiết, thông lệ hay tập quán và điều ước quốc tế… Xác định
được tầm quan trọng của tính phù hợp trong hệ thống pháp luật, Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ, việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật phải “xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng và thi hành pháp luật, kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật”. Nếu các
quy định của pháp luật phản ánh đúng các quy luật và trình độ phát triển kinh tế, xã
hội, thể hiện được ý chí, nguyện vọng và yêu cầu của đại đa số dân cư thì nó có đủ
điều kiện để trở thành hiện thực và sẽ được đa số nhân dân tự giác thực hiện, nhờ
đó, hệ thống pháp luật có tính khả thi cao và sẽ có hiệu quả cao. Trong công cuộc
cải cách tư pháp hiện nay, việc hoàn thiện BLTTHS phải phù hợp với quan điểm
của Đảng về cải cách tư pháp mà trọng tâm là “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố
tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng
thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng
tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng
cao chất lượng hoạt động tư pháp”.7 Để bảo đảm sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư
pháp, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, BLTTHS cần phải có những sửa đổi bổ sung phù hợp để đáp ứng được
yêu cầu này.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020

18


Tính minh bạch của hệ thống pháp luật: Tính minh bạch của hệ thống pháp
luật thể hiện ở chỗ các quy định của pháp luật nhất quán, công khai, dễ dàng tìm

được, có thể tin cậy được và có thể dự đoán trước được.
Tính nhất quán của pháp luật thể hiện qua việc các quy định của pháp luật
thống nhất với nhau, không trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn hoặc loại bỏ lẫn nhau;
ngôn ngữ biểu đạt là ngôn ngữ phổ thông, từ ngữ rõ ràng, bảo đảm có thể hiểu theo
một nghĩa nhằm giúp cho pháp luật được hiểu và được thực hiện một cách thống
nhất, tránh những từ ngữ mập mờ, khó hiểu hoặc có thể hiểu theo nhiều nghĩa.
Tính công khai của pháp luật đòi hỏi việc xây dựng, ban hành và thực hiện
pháp luật phải được tiến hành công khai, tạo điều kiện cho mọi lực lượng xã hội bảo
vệ và cân bằng lợi ích của mình. Trong quá trình xây dựng pháp luật phải tạo điều
kiện cho mọi người dân được biết và được tham gia một cách rộng rãi vào quá trình
thảo luận dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng để họ có điều kiện
tìm hiểu và hiểu được các quy định, các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật đối với họ và
cách xử sự cụ thể khi họ tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó. Sau khi được
ban hành, pháp luật phải được công bố công khai bằng nhiều hình thức để bất kỳ ai
muốn biết đều có thể tìm được, có thể dễ dàng truy cập.
Tính có thể tin cậy được và dự đoán trước được đòi hỏi các quy định của
pháp luật phải đáng tin cậy, phải là đại lượng tượng trưng cho công bằng, lẽ phải và
sự hợp lý. Việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật không gây ra sự ngạc
nhiên và sự bất ngờ cho đối tượng được áp dụng. Việc sửa đổi, bổ sung pháp luật
phải được thông báo công khai trước một thời hạn hợp lý để người dân có thời gian
chuẩn bị. Thời điểm phát sinh hiệu lực của những quy định pháp luật mới được ban
hành cũng phải là khoảng thời gian hợp lý để các đối tượng chịu sự tác động của văn bản
có đủ thời gian chuẩn bị cho việc thực thi pháp luật.
Tính ổn định và minh bạch của hệ thống pháp luật sẽ giúp cho các chủ thể dễ
dàng tìm được và có thể hiểu đúng yêu cầu của các quy định pháp luật liên quan đến
mỗi hành vi cụ thể của mình, có thể dự đoán trước được hậu quả pháp lý của hành
vi đó, những kết quả tốt đẹp có thể được nhận, những hậu quả bất lợi có thể phải
gánh chịu, phản ứng có thể có của nhà nước, của xã hội đối với hành vi đó… Từ đó

19



gíúp cho các chủ thể có đủ điều kiện để tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi lựa
chọn và thực hiện một hành vi nào đó. Xã hội càng phát triển, càng dân chủ, văn
minh thì đòi hỏi của xã hội đối với tính ổn định và minh bạch của pháp luật càng
cao, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng như hiện nay. Tính ổn định và minh bạch của hệ thống pháp
luật có liên quan mật thiết và tương quan tỉ lệ thuận với tính đồng bộ và tính phù
hợp, khả thi của nó. Một hệ thống pháp luật hay thay đổi, thiếu nhất quán, mức độ
phù hợp với thực tế cuộc sống thấp, không rõ ràng và thiếu công khai thì tất yếu sẽ
thiếu tính khả thi và sẽ có hiệu quả thấp. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 của Ban chấp hành Trung ương đã xác định quan điểm chỉ đạo
là phải “dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật”.
Tuy nhiên, tính ổn định của pháp luật cũng chỉ là ổn định tương đối, bởi vì, khi một quy
định của pháp luật đã thực sự không còn phù hợp với thực tế cuộc sống thì cần phải được
sửa đổi, bổ sung, thay thế kịp thời để đảm bảo tính phù hợp và khả thi của pháp luật.
Về kỹ thuật lập pháp: Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là hệ thống pháp
luật được xây dựng ở trình độ kỹ thuật lập pháp cao. Kỹ thuật lập pháp là tổng thể
các phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống
hóa pháp luật, chứa đựng các nguyên tắc, các quy tắc khoa học nhằm đảm bảo cho
pháp luật có đủ khả năng điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Toàn bộ quá
trình lập pháp được thực hiện bởi một hệ thống các phương pháp mang tính công nghệ.
Đó là các phương pháp phát hiện nhu cầu điều chỉnh pháp luật, điều tra khảo cứu, xác
định các mục tiêu, các nguyên tắc đến việc chọn hình thức thể hiện, sử dụng ngôn ngữ
pháp lý, xây dựng các quy phạm, các dự thảo văn bản, kiểm nghiệm, giám định văn bản
trên thực tế…
Trình độ kỹ thuật lập pháp cao thể hiện ở việc xác định đúng nhu cầu điều
chỉnh pháp luật, các nguyên tắc xây dựng pháp luật được xác định là tối ưu, cơ cấu
hệ thống pháp luật được xác định chính xác, ngôn ngữ biểu đạt cô đọng, logic, chặt

chẽ… Trình độ, kỹ thuật lập pháp của nhà lập pháp cao không chỉ giúp họ đủ khả
năng nhận thức đúng các yêu cầu, đòi hỏi của các quan hệ xã hội thực tại mà xây

20


dựng nên các quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh chúng một cách có hiệu
quả, mà còn có thể dự đoán được xu hướng phát triển tất yếu của chúng trong tương
lai để kịp thời điều chỉnh. Nhờ thế, có thể đảm bảo tốt tính đồng bộ, phù hợp và ổn
định của hệ thống pháp luật.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, có thể khẳng định kỹ thuật lập pháp được thể
hiện trong BLTTHS năm 2003 cao hơn nhiều so với BLTTHS năm 1988, điều đó
thể hiện qua việc bố trí, sắp xếp các chương, các điều, qua nội dung và hình thức
của từng điều luật... Tuy nhiên, để nâng cao mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp
luật, kỹ thuật lập pháp phải tiếp tục được cải tiến vì trong thực tế, kỹ thuật lập pháp thể
hiện trong BLTTHS hiện hành vẫn còn một số điểm hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện.
2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG VÀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN
CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ NGUYÊN NHÂN VỀ
PHÁP LUẬT CỦA THỰC TRẠNG NÀY

2.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân trong tố tụng hình sự
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị ngày
2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp tổ chức hoạt động của các cơ quan tư
pháp có một số đổi mới. Việc tăng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, nâng cao
chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng
được thực hiện bước đầu có kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày
càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội
phạm. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng
lên. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp một mặt đảm

bảo đấu tranh phòng chống tội phạm cương quyết, triệt để; mặt khác ngày càng
bảo đảm tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình
sự. Thực tế cho thấy, các kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự đã có nhiều cố gắng trong
việc thực hiện việc tranh tụng dân chủ với người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác; đưa ra những lý lẽ có căn cứ và trả lời hết những vấn đề

21


×