Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý nhà nước về môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.76 KB, 77 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ THU HIỀN

HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG
LĨNH VỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG
CỦA SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ THỦY

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Thu Hiền



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ THANH TRA VÀ THANH TRA CHUYÊN
NGÀNH .....................................................................................................................7
1.1. Khái niệm thanh tra.............................................................................. 7
1.1.1. Quan niệm về thanh tra: ................................................................ 7
1.1.2.Đặc điểm của thanh tra: ................................................................. 8
1.2. Khái niệm thanh tra chuyên ngành ....................................................... 9
1.2.1. Khái niệm: ..................................................................................... 9
1.2.2. Đặc điểm: .................................................................................... 12
1.3. Vai trò của thanh tra chuyên ngành trong quản lý nhà nước về môi
trường....................................................................................................... 14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN
NGÀNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI
TRƯỜNG CỦA SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI .............. 17
2.1. Đánh giá các quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực môi trường. ................................................................................. 17
2.2.1 Ưu điểm ........................................................................................ 18
2.2.2. Những hạn chế:............................................................................ 18
2.1.3. Nguyên nhân của những bất cập.................................................. 26
2.2. Thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực môi trường
của Sở Tài nguyên và môi trường Hà Nội. ................................................ 27
2.2.1 Hiện trạng môi trường Hà Nội: .................................................... 27
2.2.2 Kết quả công tác thanh tra môi trường từ 2011 đến nay ............... 31
2.2.3. Những bất cập, hạn chế của công tác thanh tra chuyên ngành môi
trường.................................................................................................... 42


2.2.4. Một số nguyên nhân tồn tại ......................................................... 44

CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG................................................................ 46
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra trong lĩnh vực
môi trường. ............................................................................................... 46
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra ............................... 49
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh tra và thanh tra
chuyên ngành......................................................................................... 49
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về môi trường ................. 53
3.3. Các giải pháp khác ............................................................................. 60
3.4. Nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp của công tác thanh tra................. 63
3.4.1. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra và cơ quan quản
lý trong lĩnh vực môi trường .................................................................. 63
3.4.2. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan chuyên môn với các chủ thể
hoạt động trong lĩnh vực môi trường. .................................................... 66
3.4 3 Đảm bảo nguyên tắc thanh tra không ảnh hưởng đến các hoạt động
của chủ thể thanh tra ............................................................................. 67
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 71


1

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh quốc tế hóa và hiện đại hóa tồn cầu hiện nay, vấn đề

phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với môi trường bền vững luôn là vấn đề được

quan tâm và đặt ra nhiều chính sách, chiến lược phát triển hiện tại cũng như
tương lai của nhiều quốc gia. Chính vì vậy, một trong những mục tiêu phát
triển Thiên niên kỷ của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) là
đảm bảo bền vững về môi trường. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của môi
trường bền vững đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước, nhất là từ sau khi
nền kinh tế bước vào giai đoạn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã tham gia
nhiều cơng ước quốc tế về mơi trường, sau đó ban hành nhiều chủ trương,
chính sách nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát triển môi trường như Luật Bảo vệ
môi trường 1993, Nghị quyết 41/2004/NQ-BCT ngày 15/11/2004 của Bộ
Chính trị về việc đẩy mạnh bảo vệ môi trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Luật Bảo vệ mơi trường 2005 và Luật Bảo vệ mơi trường 2014…
Với vai trị là Thủ đô của cả nước, Hà Nội mang trong mình những giá
trị văn hóa, lịch sử riêng có nhưng cũng đứng trước những thách thức lớn lao
về yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, lượng người nhập cư q đơng, q trình
hội nhập quốc tế hóa diễn ra nhanh chóng … khiến vấn đề mơi trường đang
ngày càng trở nên nghiêm trọng và yêu cầu cần được chú trọng quan tâm đặc
biệt. Kể từ khi Nghị quyết 15/BCT về sáp nhập địa giới hành chính của Hà
Nội có hiệu lực đến nay, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có
nhiều quan tâm chỉ đạo về chủ trương chính sách cho cơng tác quản lý bảo vệ
mơi trường như Chương trình 07-Ctr/TU ngày 18/10/2011 của Thành ủy Hà
Nội về tập trung xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, bảo vệ và nâng cao chất
lượng mơi trường giai đoạn 2011-2015 đồng thời cũng ln có sự quan tâm
đầu tư thích đáng cho việc cải tạo, xây dựng và duy trì một thành phố được


2

ghi nhận là Thành phố vì hịa bình, một thành phố với nỗ lực Xanh – Sạch –
Đẹp mà cả chính quyền cũng như tất cả người dân đều hướng đến.
Là cơ quan chuyên môn tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố Hà

Nội về lĩnh vực đất đai, tài ngun khống sản và mơi trường, Sở Tài ngun
và môi trường Hà Nội, bên cạnh việc tham mưu đề xuất nhiều chủ trương,
chính sách liên quan đến đất đai, tài ngun, mơi trường khống sản góp phần
thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao đã chỉ đạo các bộ phận
chuyên môn thực hiện nghiêm chỉnh, quyết liệt công tác thanh tra, kiểm tra, xử
lý các vi phạm về mơi trường, đóng góp phần khơng nhỏ phịng ngừa, hạn chế
các rủi ro, ô nhiễm môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội, không xảy ra các
điểm nóng, khiếu kiện khiếu nại kéo dài gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.
Để làm rõ hơn các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về công tác thanh
tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý nhà nước về bảo vệ mơi trường, cần
thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa về những quy định của
pháp luật về công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực môi trường, thông
qua việc đánh giá thực trạng tình hình cơng tác thanh tra bảo vệ mơi trường
của một cơ quan chuyên môn cấp tỉnh là Sở Tài nguyên và Môi trường Hà
Nội trong thời gian qua để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn,
đề xuất các kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện hơn nữa các quy định của
pháp luật trong lĩnh vực thanh tra, tôi đề xuất triển khai nghiên cứu đề tài:
“Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội” nhằm củng cố thêm
các lý luận về khoa học thanh tra, thông qua thực tiễn hoạt động thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường
Hà Nội để kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động thanh tra chuyên ngành về môi trường đảm bảo cho hoạt
độngB quản lý môi trường ngày bền vững hơn, góp phần xây dựng Thủ đơ
ngày càng Xanh – Sạch – Đẹp.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu chuyên sâu về thanh tra chuyên ngành chưa có nhiều song đã
có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến dưới các góc độ khác nhau như:
+ Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong tổ
chức và hoạt động của Thanh tra ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thu Oanh –
2004 bàn về tổ chức và hoạt động của bộ máy thanh tra hành chính ở Việt
Nam nói chung trong đó có thanh tra chuyên ngành.
+ Luận văn Thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường” của Phan Thị Tố Uyên – 2011 nghiên cứu pháp luật
và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực mơi trường, trong đó có vai trị của thanh tra chun ngành mơi trường.
+ Luận văn Thạc sỹ luật học “Tổ chức và hoạt động của cơ quan Thanh tra
chuyên ngành ở nước ta hiện nay” Nguyễn Thị Thục – 2012 đề cập đến các
vấn đề lý luận về tổ chức hoạt động cũng như thực trạng tổ chức và hoạt động
của cơ quan thanh tra chuyên ngành.
+ Luận văn Thạc sỹ luật học “Bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra
trong quản lý hành chính nhà nước – thực tiễn tại tỉnh Bình Định” – Đặng
Vĩnh Sơn – 2012 đưa ra các giải pháp đảm bảo cho nguyên tắc độc lập trong
hoạt động thanh tra tại một địa phương cụ thể
Ngồi ra, cịn các bài viết tạp chí,các nghiên cứu cá nhân của các nhà nghiên
cứu:
+ Bàn về vai trò Thanh tra trong bộ máy hành chính nhà nước - Nguyễn Văn
Tuấn, Website Thanhtravietnam.vn;
+ Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy định của pháp luật về
hoạt động thanh tra chuyên ngành, Bùi Thị Thanh Thúy, Tạp chí dân chủ và
pháp luật.


4

+ Quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi

trường – một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện. PGS,TS Vũ Thu Hạnh – Tạp
chí Luật học 5/2013.
+ Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy định pháp luật về hoạt động
thanh tra chuyên ngành. Ths Nguyễn Thị Hải Yến – Tạp chí Thanh tra, 6/2014.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập từ vấn đề chung đến vấn đề
cụ thể dưới các góc độ khác nhau về tổ chức và hoạt động của thanh tra nói
chung và thanh tra chun ngành nói riêng chứ khơng đề cập chun sâu về
vấn đề thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực mơi trường.
Từ sau Luật Thanh tra 2010 sửa đổi có hiệu lực đến nay, chưa có cơng
trình khoa học nào được công bố về những nghiên cứu cụ thể và toàn diện về tổ
chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành và cơ quan thanh tra chuyên ngành.
Luận văn là sự tiếp tục những nghiên cứu mới, cụ thể về tổ chức và hoạt động
cơ quan thanh tra chuyên ngành từ khi Luật Thanh tra 2010 sửa đổi được ban
hành và có hiệu lực ngày 01/7/2011. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu về
cơ quan thanh tra chuyên ngành của các cơng trình nghiên cứu trước, Luận văn
làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn về thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về môi trường, nêu lên những kiến nghị và giải pháp cụ
thể góp phần hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý nhà nước về môi trường.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu vào những nội dung chủ yếu sau:
- Khái quát chung về thanh tra và thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về môi trường.
- Thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành về môi trường của Sở Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội từ năm 2011 đến nay.
- Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động
thanh tra chuyên ngành môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.


5


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được triển khai thực hiện trên cơ sở phương pháp luận và
các phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó:
*Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn này dựa trên lý luận
của Triết học Mác – Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật; các tư tưởng quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng và chủ trương,
chính sách của Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật, hiệu quả pháp
luật và xây dựng nhà nước pháp quyền và về vấn đề thanh tra, thanh tra
chuyên ngành và quản lý nhà nước về mơi trường. Đề tài tập trung nghiên cứu
phân tích các quan điểm khoa học có liên quan để giải quyết một số vấn đề lý
luận cơ bản về thanh tra, thanh tra chuyên ngành và trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về mơi trường nói riêng.
Ngồi ra, đề tài gồm các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đánh
giá, tổng hợp, … để nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về
thanh tra và thanh tra chuyên ngành, thực tiễn áp dụng pháp luật tại một Sở
quản lý ngành và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật
về thanh tra chuyên ngành quản lý nhà nước về môi trường, tiến tới góp phần
hồn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, cơ chế chính sách quản lý nhà
nước về thanh tra và mơi trường, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là từ chỗ nghiên cứu về lý luận thanh
tra và thực tiễn công tác thanh tra chuyên ngành về môi trường, đề xuất một
số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực môi trường của Sở Tài ngun và Mơi trường Hà Nội nhằm góp phần
nâng cao hơn nữa hiệu quả chuyên môn của công tác thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về mơi trường tại địa phương, tiến tới góp
phần duy trì đảm bảo phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường bền vững
.



6

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn.
- Thứ nhất: Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh
vực quản lý nhà nước về môi trường.
- Thứ hai: Thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành về môi trường của Sở
Tài nguyên và Môi trường Hà Nội từ khi Luật Thanh tra sửa đổi 2010 có hiệu
lực đến nay.
- Thứ ba: Đề xuất một số, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý nhà nước trong lĩnh vực
môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm có ba chương:
Chương 1: Khái quát về thanh tra và thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực môi trường.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà
Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về môi trường.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


7

CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT VỀ THANH TRA VÀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH

1.1. Khái niệm thanh tra
1.1.1. Quan niệm về thanh tra:
Theo Tiếng Latinh – Inspection thì thanh tra có nghĩa là “nhìn vào bên trong”
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt – thì Thanh tra là hoạt động “ điều tra, xem xét
để làm rõ sự việc”.
Ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, khái niệm “Thanh tra” chưa được sử
dụng, nhưng dưới các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan “ Ngự sử đài” có
nhiệm vụ giúp Vua trong việc theo dõi, xem xét các việc quan trọng trong
Triều đình, có quyền can gián Vua là có chức năng gần giống như cơ quan
thanh tra nhà nước hiện nay.
Năm 1945 Cách mạng tháng Tám diễn ra thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Từ sắc lệnh này,
thuật ngữ thanh tra ra đời, quyền thanh tra được xác định giao cho Chính phủ.
Tuy nhiên Hiến pháp năm 1946 lại chưa sử dụng thuật ngữ thanh tra và chưa
có cơ quan chuyên trách về thanh tra, quyền kiểm soát đối với Chính phủ
được giao cho Thường vụ của Nghị viện.
Dưới góc độ Luật học, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của
Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa “Thanh tra là hoạt động kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước
của cơ quan, tổ chức, cá nhân và giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền”
Theo Giáo trình Thanh tra và Giải quyết khiếu nại tố cáo – Trường Đại
học luật – NXB Cơng an nhân dân năm 2009 thì Thanh tra là một hoạt động


8

chuyên trách do bộ máy thanh tra đảm nhiệm có nội dung là việc kiểm tra,
xem xét, đánh giá, kết luận chính thức về việc thực hiện chính sách pháp luật,

nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý hành
chính nhà nước nhằm phịng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, góp phần
nâng cao hiệu lực quản lý hành chính nhà nước.
Như vậy, khái niệm thanh tra đã được phát triển qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau, từ “Thanh tra” ban đầu chỉ cơ bản là thanh tra hành chính đến nay
mở rộng từ ngoại diên đến nội hàm của khái niệm, thanh tra nhà nước bao
hàm: Thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành
1.1.2.Đặc điểm của thanh tra:
Từ những khái niệm trên, dưới góc độ quản lý hành chính nhà nước,
thanh tra là một loại hình hoạt động có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Thanh tra là hoạt động mang tính chuyên trách, chủ yếu do
cơ quan thanh tra nhà nước thuộc hệ thống cơ quan hành chính đảm nhiệm.
Cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm cơ quan thanh tra được thành lập
theo cấp hành chính từ Trung ương là Thanh tra Chính chủ đến địa phương là
Thanh tra nhà nước cấp tỉnh (Thành phố), Thanh tra nhà nước cấp huyện và
cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực là các Bộ, Cục, Tổng cục … để đảm
nhiệm hoạt động thanh tra nhà nước. Các cơ quan này được tổ chức thành một
hệ thống trực thuộc bộ máy hành chính nhà nước và chịu sự chỉ đạo trực tiếp
về tổ chức, hoạt động của bộ máy này. Do được phân công chuyên trách thực
hiện hoạt động thanh tra nên các cơ quan thanh tra nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù, phù hợp với tính chất cơng việc mà
nó đảm nhiệm. Cũng vì thế mà Nhà nước trao cho cơ quan thanh tra những
nhiệm vụ quyền hạn đặc biệt để đảm bảo hoàn thành một cách tốt nhất những
nhiệm vụ được giao.


9

Thứ hai: Nội dung của hoạt động thanh tra là việc kiểm tra các cơ quan,

tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ, kế
hoạch nhà nước, trên cơ sở đó đưa ra kết luận chính thức về vụ việc thanh tra
cũng như những kiến nghị, biện pháp xử lý phù hợp với quyền hạn của bộ
máy thanh tra theo quy định của pháp luật.
Hoạt động thanh tra được tiến hành dựa trên những căn cứ do pháp luật
quy định. Những căn cứ này xác lập cơ sở cho việc thực hiện hoạt động thanh
tra đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc thực hiện pháp
luật, nhiệm vụ, kế hoạch của nhà nước. Thông qua hoạt động này, thanh tra sẽ
phát hiện ra những việc làm trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp trong giới hạn pháp
luật cho phép nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật, trật tự quản lý hành chính
nhà nước đã bị xâm phạm, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt
động quản lý hành chính.
Thứ ba: Hoạt động thanh tra được tiến hành theo trình tự thủ tục, dưới
hình thức do pháp luật quy định.
Là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước nên
hoạt động thanh tra phải tuân thủ chặt chẽ các quy định về trình tự thủ tục
thanh tra như về ban hành kế hoạch thanh tra hàng năm, Quyết định thành lập
đồn thanh tra, thơng báo kế hoạch thanh tra … Những yêu cầu này đặt ra
nhằm đảm bảo sự hệ thống, tuân thủ pháp luật của người chấp pháp thì mới có
uy tín, có hiệu lực cao đối với đối tượng thanh tra, đảm bảo sự tuân thủ pháp
luật cao của cả hệ thống cơ quan thanh tra và đối tượng thanh tra.
1.2. Khái niệm thanh tra chuyên ngành
1.2.1. Khái niệm:
Đã có nhiều quan niệm khác nhau đưa về khái niệm thanh tra chuyên
ngành. Ở các quốc gia khác nhau thì khái niệm về thanh tra, thanh tra chuyên


10


ngành cũng có sự khác nhau, vì cấu trúc nhà nước hoặc cơ cấu kinh tế,
phương thức hoạt động cũng như các tổ chức thanh tra khác nhau: có nước
chỉ sử dụng thanh tra nhà nước (thanh tra của Quốc hội); thanh tra của Chính
phủ (thanh tra hành pháp); có nước lại sử dụng thanh tra như một lực lượng
cảnh sát (hoặc bán cảnh sát) hoặc phân về các ngành quản lý để phục vụ
quyền lực; có nước chỉ sử dụng thanh tra chuyên ngành. Nhưng ở bất kỳ hình
thức nào, thanh tra chuyên ngành là loại hoạt động nhân danh quyền lực nhà
nước tác động đến đối tượng quản lý để phát hiện sai phạm, bảo vệ pháp luật,
pháp luật chuyên ngành, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ở nước ta,
thanh tra chuyên ngành được hiểu là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn, kỹ
thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực đó.
Để làm rõ khái niệm thanh tra chuyên ngành thì cũng cần xem xét khái
niệm ngành và quản lý ngành hiện nay. “Ngành” là khái niệm “chỉ tổng thể
những đơn vị, tổ chức sản xuất, kinh doanh có cùng cơ cấu kinh tế kỹ thuật
hay các tổ chức, đơn vị hoạt động với mục đích giống nhau”. Xét từ thực tiễn
cịn có một khái niệm về “ngành”, theo đó ngành là một “hệ thống cơ quan
nhà nước từ Trung ương tới địa phương. Như vậy, có sự phân chia các lĩnh
vực hoạt động trong xã hội thành các ngành thì địi hỏi phải có hoạt động
quản lý ngành. Sự phân chia các mặt hoạt động xã hội thành ngành là kết quả
phân công lao động xã hội xảy ra đồng thời với quá trình phát triển sản xuất
và chun mơn hóa các loại hoạt động khác nhau của con người. Tùy theo các
cách phân loại sản phẩm chung – riêng, rộng – hẹp khác nhau mà người ta
chia ra các ngành, phân ngành, ngành chuyên sâu. Sự phân công lao động xã
hội phần nhiều quy định sự phân cơng lao động quản lý và Bộ chính là tổ
chức đứng ra thực hiện công việc này. Tuy nhiên, không hẳn mỗi ngành đều


11


cần một trung tâm quản lý duy nhất ở Bộ. Vai trị của Bộ, trong bộ máy hành
chính hiện nay thường là cơ quan quản lý đa ngành, đa lĩnh vực hoạt động
kinh tế, văn hóa, xã hội.Xu hướng chung hiện nay là tách quản lý nhà nước
với quản lý sản xuất kinh doanh sẽ khơng cịn Bộ chủ quản. Các cơ quan quản
lý ngành là Bộ sẽ có chức năng “xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển, quản lý phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng, thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật”, đây là hoạt động mang tầm vĩ mô, hướng
quản lý nhà nước của Bộ ngành đi đúng hướng, đúng mục đích và đạt hiệu
quả. Thanh tra chuyên ngành cũng nằm trong bối cảnh này. Rõ ràng, thanh tra
chuyên ngành là một tất yếu khách quan trong quản lý nhà nước ở các bộ,
ngành và càng nhiều ngành thì tổ chức thanh tra càng rộng và diện hoạt động
càng chuyên sâu.
Trong cách phân chia theo ngành và lĩnh vực thì Bộ quản lý ngành đều
có hoạt động thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính và hai loại này
khác nhau cả về tổ chức và hoạt động. Vấn đề ở đây cần phân biệt, thanh tra
hành chính chỉ là loại thanh tra hẹp, thanh tra nội bộ, thanh tra trách nhiệm
(trách nhiệm kỷ luật) của cán bộ công chức trong bộ máy quản lý hành chính
nhà nước của Bộ, để thấy hoạt động thanh tra chuyên ngành mới là chủ yếu vì
đối tượng thanh tra rất rộng.
Việc xác định vị trí, chức năng của thanh tra chuyên ngành như trên là
hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, có quan
điểm cho rằng cần xem xét các khái niệm này một cách khoa học hơn: (i) nếu
đã xác định thanh tra chuyên ngành là loại hình nhân danh quyền lực nhà
nước thì khơng nên quy định nó là một bộ phận của Thanh tra nhà nước (vì lý
thuyết, khơng có khái niệm thanh tra nhà nước), chỉ có thanh tra nhân danh
quyền lực nhà nước trong ngành, lĩnh vực) chứ khơng có “tổ chức thanh tra
nhà nước”. Tức là thanh tra chuyên ngành mang tính chất nhà nước chứ



12

khơng phải thanh tra chun ngành của nhà nước nói chung; (ii) cần hiểu rõ
tính chất nhà nước trong điều kiện hiện nay, có thể do Nhà nước thành lập
(các bộ thành lập) như thanh tra chuyên ngành ở một số bộ, ngành hiện đang
hiện hữu, nhưng cũng có thể không do Nhà nước thành lập (mà ủy quyền
thành lập). Sự ủy quyền ở đây lại được chia ra thành hai phạm vi: (1) Bản
thân cơ quan, bộ, ngành thành lập; (2) có thể ủy quyền cho các tổ chức xã hội
hoặc hiệp hội gắn với chuyên ngành (Hội bảo vệ người tiêu dùng, Hội quy
chuẩn, tiêu chuẩn, Hiệp hội giao thơng vận tải v.v…) Khơng nhất thiết là cứ
có ngành nào thì cơ quan ngành đó lại thành lập thanh tra chuyên ngành
nhằm khắc phục tình trạng cục bộ, vừa đá bóng, vừa thổi cịi.
Tuy nhiên, quan điểm này cần được đặt trong tương quan trình độ quản
lý nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay, việc quan niệm về thanh
tra chuyên ngành như Luật Thanh tra 2010 là phù hợp với điều kiện thực tiễn,
“Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy
tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”.
1.2.2. Đặc điểm:
- Mục đích của thanh tra chuyên ngành là bảo đảm sự chấp hành của mọi
cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, cũng như mọi lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội. Đây là
hoạt động mang tính chun sâu về chun mơn nghiệp vụ của ngành. Khi xem
xét, đánh giá và đưa ra kết luận, cơ quan thanh tra chuyên ngành phải vận dụng
những kiến thức mang tính chun mơn, nghiệp vụ, khoa học – kỹ thuật.
Ví dụ: Để thực hiện hoạt động thanh tra các cơ sở y tế, cơ sở khám
chữa bệnh thì ngồi kiến thức chung về quản lý hành chính nhà nước trong
lĩnh vực y tế, đòi hỏi Thanh tra viên là người có hiểu biết, kiến thức nhất định



13

trong lĩnh vực chun mơn về y khoa để có thể đưa ra những kết luận khách
quan, đúng đắn về vụ việc thanh tra.
- Phạm vi thanh tra chuyên ngành xuất hiện trong hoạt động của cơ
quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực chuyên môn và do các cơ quan
thanh tra tổ chức theo ngành lĩnh vực (Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở) thực hiện.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành được thực hiện không dựa trên cơ sở của
mối liên hệ phụ thuộc về tổ chức và xuất phát từ chức năng quản lý ngành,
lĩnh vực chuyên môn trong phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định.
- Đối tượng của thanh tra chuyên ngành có phạm vi rộng hơn rất nhiều
so với thanh tra hành chính; đó có thể là bất kỳ cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân nào thực hiện các công việc liên quan đến hoạt động quản lý chuyên
môn và trong phạm vi của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực và chủ yếu là ở
khu vực tư, chẳng hạn như các cuộc thanh tra về tài nguyên môi trường, thanh
tra khám chữa bệnh, thanh tra vệ sinh an tồn thực phẩm …
Ví dụ: hoạt động thanh tra chuyên ngành môi trường thuộc thẩm quyền
của Sở Tài nguyên – Môi trường Hà Nội được thực hiện đối với tất cả các đơn
vị, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực môi trường trong phạm vi địa
bàn Thành phố Hà Nội. Để thực hiện hiệu quả hoạt động này, pháp luật cũng
trao cho Thanh tra viên chuyên ngành những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt,
ngoài nhiệm vụ, quyền hạn chung của Thanh tra viên, trong đó phải kể đến
quyền được xử phạt vi phạm hành chính trong q trình thi hành cơng vụ.
- Chủ thể có thẩm quyền của thanh tra: Thanh tra chun ngành có
quyền xử phạt hành chính trong khi thanh tra hành chính, với đối tượng thanh
tra là cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước chủ yếu áp dụng các
biện pháp kỷ luật hành chính, hay nói cách khác thanh tra chuyên ngành thực
chất là họat động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý kết hợp với xử
lý vi phạm.



14

- Tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành thường do Chính
phủ quy định trên cơ sở đề nghị của các bộ, ngành và phụ thuộc vào tính chất,
phạm vi, đặc điểm của từng bộ, ngành đó.

1.3. Vai trò của thanh tra chuyên ngành trong quản lý nhà nước
về mơi trường
- Thanh tra chun ngành góp phần hồn thiện chủ trương, cơ chế,
chính sách, pháp luật về mơi trường.
Qua quá trình thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành thuộc lĩnh
vực môi trường, thanh tra phát hiện các sai sót, bất cập của các văn bản pháp
luật khi áp dụng vào thực tiễn, cũng như từ thực tiễn hoạt động thanh tra
chuyên ngành, tiếp thu các kiến nghị, phản hồi của đối tượng thanh tra về sự
thiếu thống nhất, không đồng bộ giữa các văn bản pháp luật với nhau về cùng
một lĩnh vực, hoặc cách xử lý cùng một vấn đề không đồng bộ giữa các ngành
khác nhau mà thanh tra chuyên ngành có các kiến nghị đề xuất của mình góp
ý cho các văn kiện dự thảo sửa đổi Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định …
góp phần ngày một hồn thiện chính sách, pháp luật về môi trường. Hệ thống
các văn bản pháp quy trong lĩnh vực môi trường hiện nay ở nước ta là tương
đối đầy đủ và liên tục được cập nhật, bổ sung thay đổi dựa trên những đánh
giá, kiến nghị, đề xuất thực tế của hoạt động thanh tra chuyên ngành, nhất là
các văn bản liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
mơi trường.
Thanh tra chun ngành mơi trường giúp các cơ quan quản lý có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực kiểm soát, ngăn ngừa, xử lý vi phạm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về
chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc lĩnh vực môi trường.



15

Dưới góc độ quản lý nhà nước, với đặc thù là hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền có chức năng hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với việc chấp hành pháp
luật trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường, chấp hành các quy định về chuyên môn,
kỹ thuật, quy tắc quản lý đặc thù của lĩnh vực quản lý nhà nước về môi trường, thanh tra
chun ngành mơi trường có thẩm quyền kiểm tra chuyên sâu hơn, phạm vi thanh tra
trọng tâm hơn đối với đối tượng thanh tra do đó có điều kiện kiểm tra theo dõi sâu sát, phát
hiện rõ ràng những sai sót, vi phạm trong q trình thanh tra đồng thời có các báo cáo, kiến
nghị xử lý tới các cơ quan chức năng giúp cơ quan có thẩm quyền thuộc ngành, lĩnh vực
đó kiểm sốt, ngăn ngừa và xử lý vi phạm trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành
thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý. Với các thiết bị hỗ trợ thanh tra như phịng phân tích,
phịng Lab, hóa chất thử nghiệm tại chỗ … các Đồn thanh tra mới có cơ sở nhận định cơ
sở này thuộc đối tượng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải di dời, cơ sở này
thuộc đối tượng gây ô nhiễm môi trường hay không … Các Báo cáo hiện trạng môi
trường hàng năm, 5 năm, 10 năm với các số liệu chi tiết về ô nhiễm môi trường đất, ô
nhiễm môi trường nước, không khí, chất thải rắn … là kết quả của công tác quản lý nhà
nước về môi trường mà phần lớn các số liệu đánh giá, kiến nghị là từ công tác thanh tra
kiểm tra chuyên ngành thơng qua các đồn kiểm tra, thanh tra thường xuyên theo định kỳ,
thanh tra đột xuất, qua số liệu quan trắc môi trường … Từ các báo cáo thực tế này các cơ
quan quản lý mới có cơ sở khoa học cũng như thực tiễn cho các đề xuất kiến nghị sửa đổi
lại pháp luật chuyên ngành cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội hiện tại.
Thanh tra chuyên ngành môi trường giúp phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện
pháp khắc phục; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật;
Là một ngành đặc thù quản lý lĩnh vực với nhiều các yếu tố bất ổn định như đất đai,
mơi trường, tài ngun nước, khí tượng thủy văn, biển và hải đảo, …, công tác thanh tra
chuyên ngành môi trường gặp rất nhiều khó khăn, bất cập bởi bên cạnh những yếu tố chủ

quan do cá nhân, tổ chức gây ra, các yếu tố về địa hình, địa mạo tự nhiên, còn những yếu
tố ngoại cảnh tác động như thời gian, thời tiết,… và sự thay đổi chồng chéo giữa các văn
bản quản lý nhà nước khác nhau. Do vậy, trong quá trình thực thi chức trách nhiệm vụ, với


16

chức năng, nhiệm vụ được giao, thanh tra chuyên ngành mơi trường ngồi việc áp dụng
các lý thuyết khoa học vào mơi trường cịn phải định tính, định lượng hành vi vi phạm của
đối tượng thanh tra, kiểm tra qua việc lấy mẫu, phân tích mẫu tại phịng thí nghiệm, lấy số
liệu quan trắc định kỳ, đột xuất … mới thuyết phục được người vi phạm “tâm phục, khẩu
phục”, chấp nhận hành vi vi phạm pháp luật về môi trường đó là sai, từ đó mới đề xuất
các mức độ xử lý hành chính, hình sự hoặc dân sự khác nhau. Qua thực tiễn phối hợp với
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường kiểm tra môi trường thường xuyên và đột xuất
đồng thời đi đầu trong việc đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường,
thanh tra chuyên ngành môi trường đã phát hiện nhiều điểm cịn thiếu sót, những bất cập
trong cơ chế chính sách pháp luật từ đó có những đề xuất kiến nghị sửa đổi để ngày một
hồn thiện chính sách pháp luật, giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân đi đúng định hướng
quản lý của nhà nước về môi trường, thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Thanh tra chun ngành mơi trường phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và Nhà nước.
Yếu tố môi trường là một yếu tố ngày càng có tầm ảnh hưởng quan trọng trong đời
sống xã hội hiện đại, do đó với vai trị là cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện
quyền kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ lĩnh vực mơi trường, thanh tra mơi trường có cơ sở và điều kiện phát huy những
quyền năng được nhà nước giao cho giúp cho các đối tượng thanh tra đi đúng định hướng
pháp luật đề ra, vừa đảm bảo phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ làm ra sản phẩm cho
xã hội, vừa góp phần bảo vệ mơi trường, bảo vệ kỷ cương, pháp luật của nhà nước. Đồng
thời với đó, thanh tra mơi trường cũng góp phần nâng cao vị thế, uy tín của ngành mình

trong con mắt công dân, tổ chức và cả trong các hoạt động quản lý hành chính nhà nước
nói chung.


17

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG
CỦA SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

2.1. Đánh giá các quy định của pháp luật về thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực môi trường.
Pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực tài nguyên và
môi trường là tổng thể các quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm
quyền ban hành quy định về thanh tra trong lĩnh vực tài ngun và mơi
trường. Đó là các văn bản Luật có liên quan của Quốc hội như Luật
Thanh tra 2010, Luật Bảo vệ môi trường 2004, các Pháp lệnh như Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2008) và
được thay thế bằng Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; các Nghị định
của Chính phủ như Nghị định 117/2009/NĐ-Cp ngày 31/12/2009 về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường, Nghị định
179/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường; Nghị định
35/2009/NĐ-CP ngày 7/4/2009 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
tài nguyên và môi trường …
Với hệ thống các văn bản hiện hành, pháp luật thanh tra trong
lĩnh vực bảo vệ mơi trường có những ưu điểm như:
2.2.1 Ưu điểm
- Tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho việc thực hiện thống nhất

thanh tra về bảo vệ mơi trường giữa các cơ quan chức năng góp phần đảm bảo
hiệu quả của công tác quản lý môi trường.


18

- Thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp thanh tra được xác định rõ ràng
tạo điều kiện cho cơ quan thanh tra xác định được phạm vi vụ việc cần giải
quyết trong lĩnh vực mình được phân cơng.
- Việc quy định chi tiết từng hành vi vi phạm với mức xử phạt rõ ràng
tạo điều kiện cho người tiến hành thanh tra dễ dàng xác minh được mức độ vi
phạm và đưa ra mức xử phạt hợp lý.
2.2.2. Những hạn chế:
- Thiếu thống nhất trong quy định của pháp luật về thanh tra việc thực
hiện của của pháp luật về môi trường.
Một số quy định về thanh tra thực hiện pháp luật mơi trường chưa có sự
thống nhất giữa các quy định của Luật Bảo vệ môi trường cũng như giữa Luật
Bảo vệ môi trường với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Cụ thể:
+ Thiếu thống nhất trong quy định về tên gọi của cơ quan thanh tra việc
thực hiện pháp luật môi trường. Về vấn đề này, đang tồn tại sự không thống
nhất giữa quy định tại khoản 1 Điều 125 Luật Bảo vệ môi trường và Điều 4
Luật Thanh tra.
Điều 4 Luật Thanh tra quy định: “ Cơ quan thực hiện chức năng thanh
tra gồm Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm: thanh tra Chính phủ, thanh tra
Bộ, Cơ quan ngang bộ, thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thanh
tra Sở, thanh tra huyện, quận thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
Điều 125 Luật Bảo vệ môi trường quy định: “Thanh tra bảo vệ môi
trường là thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường” và “Thẩm quyền, nhiệm
vụ của thanh tra bảo vệ môi trường được thực hiện theo quy định của pháp

luật về thanh tra”. Như vậy, theo quy định tại Điều 4 Luật Thanh tra 2010 thì
khơng có thanh tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường trong hệ thống cơ
quan thanh tra như cách gọi tên cơ quan này tại Điều 125 Luật Bảo vệ môi


19

trường. Để đảm bảo sự thống nhất giữa hai văn bản quy phạm pháp luật này
cần sửa lại Điều 125 Luật Bảo vệ môi trường theo hướng đổi tên thanh tra
chuyên ngành bảo vệ môi trường thành thanh tra nhà nước về bảo vệ môi
trường cho phù hợp với Luật Thanh tra.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu trao đổi, đóng góp ý kiến cho việc khắc
phục bất cập giữa hai văn bản pháp lý này trước khi Dự thảo Luật Bảo vệ môi
trường 2014 được ban hành, tuy nhiên khi Luật Bảo vệ môi trường 2014 được
ban hành đã khơng cịn điều khoản quy định về thanh tra mơi trường mà chỉ
được ghi nhận chung tại Điều 159: “Trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện
kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường
+ Thiếu thống nhất trong quy định về trách nhiệm thanh tra của cơ
quan thanh tra và phân công, phân cấp trong thanh tra việc thực hiện pháp
luật môi trường.
* Về trách nhiệm của cơ quan thanh tra.
Quy định về trách nhiệm thanh tra của Ủy ban nhân dân cấp huyện
trong Luật bảo vệ môi trường mâu thuẫn với một số quy định khác của chính
Luật này và Luật thanh tra.
Điểm d Khoản 1 Điều 126 Luật Bảo vệ môi trường quy định: “Ủy ban nhân
dân cấp huyện kiểm tra, thanh tra việc thực hiện bảo vệ mơi trường của cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, trừ các đơn vị sự nghiệp quy định tại điểm
c khoản này và của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ quy mô nhỏ”. Điều
luật này quy định thẩm quyền thanh tra cho Ủy ban nhân dân cấp huyện là mâu
thuẫn với khoản 1 Điều 125 Luật Bảo vệ môi trường và các Điều 24, 26,27

Luật Thanh tra. Cụ thể: Khoản 1 Điều 125 quy định: Thanh tra bảo vệ môi
trường là thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường. Ủy ban nhân dân cấp
huyện không phải là cơ quan thanh tra chuyên ngành bảo vệ mơi trường do đó
khơng có chức năng thanh tra việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường.


20

Điều 4 Luật Thanh tra không quy định UBND cấp huyện là cơ quan
thanh tra nhà nước hay cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành.
Điều 26 và 27 Luật Thanh tra quy định: Thanh tra huyện là cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, có trách nhiệm giúp Ủy ban
nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra. Thanh tra huyện
chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch UBND cùng cấp và thực hiện chức
năng trong quản lý nhà nước về thanh tra thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
Ủy ban nhân dân cấp huyện. Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan
có thẩm quyền, chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra của thanh tra huyện
chứ không phải là cơ quan trực tiếp tiến hành thanh tra như quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 126 Luật Bảo vệ môi trường.
*Về phân công, phân cấp thanh tra.
Quy định phân công, phân cấp thanh tra việc thực hiện pháp luật mơi
trường có sự mâu thuẫn giữa Luật Bảo vệ môi trường, văn bản hướng dẫn thi
hành và chưa phù hợp với Luật thanh tra, cụ thể:
- Mâu thuẫn giữa quy định của Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số
35/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra tài nguyên và môi
trường. Theo quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật bảo vệ môi trường, trách
nhiệm thực hiện thanh tra bảo vệ môi trường được quy định như sau:
+ Thanh tra bảo vệ môi trường thuộc Bộ Tài nguyên và môi trường kiểm
tra, thanh tra việc thực hiện bảo vệ môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ thuộc thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của
Bộ tài nguyên và môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
phối hợp với thanh tra chun ngành của Bộ Quốc phịng và Bộ Cơng an để
kiểm tra, thanh tra việc bảo vệ môi trường của các đơn vị trực thuộc;


21

+ Thanh tra bảo vệ môi trường cấp tỉnh kiểm tra, thanh tra việc thực
hiện bảo vệ môi trường của tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp trên địa bàn đối
với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các dự án
thuộc thẩm quyền kiểm tra, thanh tra của Bộ tài ngun và mơi trường trong
trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
+ Ủy ban nhân dân cấp huyện kiểm tra, thanh tra việc thực hiện bảo vệ
mơi trường của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, trừ các đơn vị sự
nghiệp quy định tại điểm c khoản này và các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch
vụ quy mơ nhỏ.
Ngồi sự bất hợp lý trong quy định thẩm quyền thanh tra của UBND cấp
huyện như đã phân tích ở trên, quy định này còn thiếu sự thống nhất với quy
định tại Nghị định số 35/2009/NĐ-CP.
Các điều 10,12,14 Nghị định 35/2009/NĐ-CP quy định như sau:
+ Thanh tra Bộ Tài nguyên môi trường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành theo quy định tại luật thanh tra;
+ Thanh tra tổng cục, cục thực hiện nhiệm vụ quyền hạn thanh tra
chuyên ngành tài nguyên và môi trường trong phạm vi quản lý nhà nước của
Tổng cục, cục;
+ Thanh tra Sở tài nguyên và môi trường thực hiện nhiệm vụ quyền hạn
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tài nguyên và môi trường
trong phạm vi quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh; thanh tra vụ việc khác

do Giám đốc Sở Tài nguyên và môi trường giao.
Sự thiếu thống nhất giữa hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên về
vấn đề này thể hiện ở chỗ: Luật bảo vệ môi trường phân định thẩm quyền
thanh tra theo thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động mơi trường
(trong đó thẩm quyền thanh tra của Tổng cục và cục được hiểu là thẩm quyền,


×