Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRỊNH THỊ THU THẢO

PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG TRÊN WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRỊNH THỊ THU THẢO

PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG TRÊN WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THU PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, số liệu
được nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ
quan chức năng đã công bố.

Tác giả Luận văn

Trịnh Thị Thu Thảo


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự 2005

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự 2004

BVQLNTD : Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
TMĐT


: Thương mại điện tử

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TRÊN

8

WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về hợp đồng trên website thương mại điện tử

8

1.1.

Khái niệm hợp đồng trên website thương mại điện tử

8

1.2.


Đặc điểm của hợp đồng trên website thương mại điện tử

13

1.2.1. Chủ thể của hợp đồng trên website thương mại điện tử

13

1.2.2. Đối tượng của hợp đồng trên website thương mại điện tử

19

1.2.3. Hình thức của hợp đồng trên website thương mại điện tử

22

1.2.4. Nội dung của hợp đồng trên website thương mại điện tử

23

2. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng trên website thương mại điện tử

25

2.1.

Nguồn pháp luật điều chỉnh hợp đồng trên website thương mại điện tử

25


2.2.

Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về hợp đồng trên website

27

thương mại điện tử
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC

30

HIỆN HỢP ĐỒNG TRÊN WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM
1. Giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử

30

1.1.

30

Thông báo mời đề nghị và đề nghị giao kết hợp đồng trên website
thương mại điện tử

1.2.

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử

40


1.3.

Thời điểm giao kết và địa điểm giao kết hợp đồng trên website

41

thương mại điện tử
2. Thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử

44

2.1.

45

Nghĩa vụ thanh toán


2.2.

Nghĩa vụ giao hàng

48

2.3.

Cơ chế xử lý vi phạm

49


3. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp

53

đồng trên website thương mại điện tử
3.1.

Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và

53

thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử
3.2.

Các hình thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và thực

54

hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC

59

HIỆN HỢP ĐỒNG TRÊN WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM
1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp

59


đồng trên website thương mại điện tử
1.1.

Nhận thức đầy đủ và đảm bảo đặc thù của hợp đồng trên website

59

thương mại điện tử
1.2.

Đảm bảo sự thống nhất của pháp luật

60

1.3.

Tạo sự thuận lợi cho các chủ thể

61

1.4.

Bảo vệ quyền lợi cho bên yếu thế, người tiêu dùng

61

2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng

62


trên website thương mại điện tử
2.1.

Hoàn thiện nội dung pháp luật về hợp đồng trên website thương mại

62

điện tử
2.2.

Đảm bảo thực thi pháp luật về hợp đồng trên website thương mại điện

65

tử

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71

PHỤ LỤC

74


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khoảng 10 năm trở lại đây cả trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã chứng kiến
sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực
công nghệ thông tin. Mạng Internet không còn giới hạn trong quốc gia nào mà đã phủ
rộng toàn cầu, nó không chỉ cung cấp thông tin cho người dùng mà còn mang lại một hình
thức giao dịch mới với nhiều lợi ích đặc trưng chỉ nó có được, đó là giao dịch điện tử.
Nhờ có hình thức giao dịch này người tiêu dùng có thể dễ dàng xem các thông số của sản
phẩm và đặt mua chỉ bằng những động tác nhấn chuột đơn giản. Hơn thế nữa hoạt động
mua sắm này còn không bị hạn chế về không gian hay thời gian, điều này có nghĩa là
người tiêu dùng không phải chờ đến giờ cửa hàng mở cửa để mua sắm mà có thể giao
dịch bất cứ lúc nào họ muốn; đồng thời việc giao dịch này có thể xảy ra tại nhiều địa
phương trong cùng một quốc gia hay ở nhiều quốc gia khác nhau. Đối với các doanh
nghiệp, thương mại điện tử giúp tìm kiếm và ký kết hợp đồng với các đối tác, đặc biệt là
với đối tác nước ngoài với việc mở rộng phạm vi thông tin ra toàn thế giới, giảm chi phí
và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Những ưu thế trên khiến thương mại điện tử càng ngày
càng trở nên phổ biến và phát triển nhanh trên thế giới mà Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ.
Ngày 15/9/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ban
hành “Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010” đề ra những
yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể để thương mại điện tử có thể triển khai thực hiện trên thực tế.
Đánh giá kết quả năm 2010 cho thấy thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn này
đã trở thành ứng dụng quan trọng trong các doanh nghiệp: Trên 81% doanh nghiệp tham
gia khảo sát sử dụng email trong hoạt động kinh doanh, với tỷ lệ là 96% với các doanh
nghiệp lớn và 80% với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tỷ lệ doanh nghiệp nhận đặt hàng
qua email là 52%, qua website là 15% đồng thời tỷ lệ doanh nghiệp đặt hàng qua email là
53% và qua website là 21% [11]. Bên cạnh đó, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua
mạng cũng phát triển nhanh, đặc biệt là ở những đô thị lớn. Theo kết quả khảo sát của Bộ



2

Công thương đối với 500 hộ gia đình tại Hà Nội thì có 49% đã kết nối Internet, trong đó
có 18% cho biết truy cập Internet có liên quan đến thương mại điện tử và 4% từng sử
dụng sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hoặc ngân hàng trực tuyến khi truy cập
Internet [11].
Tiếp nối kế hoạch này là “Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai
đoạn 2011-2015” của Thủ tướng Chính phủ. Tính đến cuối năm 2013, thương mại điện tử
đã có những bước phát triển rất khả quan với ước tính giá trị mua hàng trực tuyến của một
người là 120 USD; khảo sát 781 người ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ
lệ người tham gia mua sắm trực tuyến là 57%. Đối với các doanh nghiệp, theo kết quả
khảo sát thì 94% doanh nghiệp nhận đặt hàng qua điện thoại, 83% qua email và 35% qua
website; về đặt hàng thì 95% doanh nghiệp sử dụng hình thức điện thoại, 83% qua email
và 50% qua website [12]. Những con số thống kê này đã cho thấy tốc độ tăng trưởng
nhanh chóng của thương mại điện tử trong nền kinh tế.
Là một bộ phận quan trọng của thương mại điện tử, hoạt động thương mại trên
website thương mại điện tử đang xâm nhập rất nhanh vào đời sống và phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt là hoạt động giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng và giữa người tiêu dùng với
nhau. Để thực hiện được những hoạt động thương mại nói chung và hoạt động trên
website thương mại điện tử nói riêng thì hợp đồng luôn là công cụ chủ yếu trong các giao
dịch. Do đó khi thương mại điện tử xuất hiện thì kéo theo đó cũng là sự hình thành của
hợp đồng trên website thương mại điện tử. Trong quan hệ hợp đồng, các bên tự nguyện
thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mình. Với
phương thức truyền thống, các bên trong hợp đồng sẽ gặp mặt trực tiếp, bàn bạc các điều
khoản hợp đồng và đi đến ký kết, thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên hiện nay với sự phát
triển của mạng máy tính và công nghệ thông tin, việc trực tiếp gặp mặt để thỏa thuận hợp
đồng ít đi và các bên sử dụng các phần mềm để tìm hiểu thông tin, gửi thông tin cho nhau,
thượng lượng và ký kết hợp đồng. Đó chính là nguyên lý cho sự hình thành hợp đồng
thương mại điện tử trong đó có hợp đồng trên website thương mại điện tử. Hình thức hợp

đồng này giúp giảm chi phí, tiết kiệm thời gian và mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho


3

các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hợp đồng trên website thương mại điện tử cũng chứa đựng
những rủi ro nhất định như lừa đảo, chiếm đoạt tài sản; vấn đề an toàn thông tin, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng….
Để tạo môi trường pháp lý vững chắc và minh bạch cho việc giao kết và thực hiện
hợp đồng trên website thương mại điện tử, Luật giao dịch điện tử đã được ban hành năm
2005, cùng với đó là một số quy định trong Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005,
Luật Công nghệ thông tin 2006 và rất nhiều văn bản hướng dẫn khác đã thừa nhận giá trị
pháp lý của hợp đồng trên website thương mại điện tử trong giao dịch dân sự và thương
mại đồng thời có những quy định nền tảng cho những vấn đề liên quan đến hợp đồng trên
website thương mại điện tử như nêu định nghĩa website thương mại điện tử, các loại hình
website thương mại điện tử, trình tự ký kết và thực hiện hợp đồng trên website thương
mại điện tử, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm….
Mặc dù vậy thực tế cho thấy pháp luật về hợp đồng trên website thương mại điện
tử còn chưa được cụ thể chi tiết, còn tồn tại nhiều bất cập khiến cho việc ký kết, thực hiện
hợp đồng trên thực tế còn chưa hiệu quả, quyền của các bên bị xâm phạm, việc xử lý vi
phạm chưa hợp lý. Thông qua khảo sát cho thấy người tiêu dùng hầu hết đều lo ngại về
chất lượng của hàng hóa khi mà quảng cáo và các thông số sản phẩm trên trang web
không đúng với hàng hóa mà họ nhận được, việc thanh toán chưa rõ ràng và thời gian
giao nhận hàng cũng thường xuyên không đúng với thỏa thuận trong hợp đồng. Về phía
các doanh nghiệp cũng tồn tại những trường hợp ký kết hợp đồng với những đối tác
không có thực do bị lừa đảo về thông tin, đối tác không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng thỏa thuận hợp đồng….
Vì những lý do này tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp
đồng trên website thương mại điện tử ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài

Thương mại điện tử là một lĩnh vực tương đối mới ở Việt Nam nhưng trên thế giới
đây là một hình thức kinh doanh thương mại rất phổ biến và thông dụng, đặc biệt là ở
những quốc gia phát triển. Đã có rất nhiều văn bản pháp lý được xây dựng để điều chỉnh


4

về vấn đề này như Luật Mẫu về Thương mại Điện tử của UNCITRAL (Ủy ban Liên hợp
quốc về Luật Thương mại Quốc tế) năm 1996, Luật Mẫu về Chữ ký điện tử của
UNCITRAL năm 2000…. Trong các văn bản này, những quy định về hợp đồng trên
website thương mại điện tử là nội dung không thể thiếu và làm cơ sở pháp lý rất quan
trọng cho những hoạt động thương mại điện tử trên thực tế.
Ở Việt Nam, mặc dù thương mại điện tử đã xuất hiện được khoảng 10 năm nhưng
hiện nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về thương mại điện tử nói chung và hợp đồng trên
website thương mại điện tử nói riêng. Dưới góc độ pháp lý về thương mại điện tử có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
-

Vũ Hải Anh (1999), Một số khía cạnh pháp lý về thương mại điện tử, Luận văn

thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-

Lê Hà Vũ (2006), Xây dựng khung pháp luật nhằm phát triển thương mại điện tử ở

Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-

Đoàn Quỳnh Thương (2013), Giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử ở


Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-

Nguyễn Phụng Dương (2014), Hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển thương mại

điện tử ở nước ta, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-

Một số bài viết trên Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật…

Nhìn chung những công trình nghiên cứu này đã đóng góp những tri thức lý luận cũng
như thực trạng pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam, trong đó có đề cập phần nào
đến pháp luật về hợp đồng trên website thương mại điện tử ở Việt Nam.
Mặc dù chưa có những tác phẩm nghiên cứu riêng về pháp luật hợp đồng trên website
thương mại điện tử nhưng vấn đề này đã được khai thác trong một số nghiên cứu về pháp
luật hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam trong một số sách, luận văn, bài viết tạp chí
đáng chú ý sau:
-

GS TS Nguyễn Thị Mơ (chủ biên) (2006), “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp

đồng điện tử”, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội.


5

-

TS Trần Văn Biên (2012), “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Nxb Tư


pháp, Hà Nội.
-

Trần Đình Toản (2004), Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương

mại điện tử, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
-

Trần Văn Biên (2012), Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ.

-

Lê Thị Kim Hoa (2008), Hợp đồng thương mại điện tử và các biện pháp hạn chế

rủi ro, Tạp chí Luật học, số 11/2008.
-

Trần Văn Biên (2010), Pháp luật và hợp đồng điện tử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số

20/2010, tr. 17-24.
-

Đặng An Thanh (2014), Những bất cập trong quy định của pháp luật về quy trình,

thủ tục giao kết hợp đồng điện tử và một số giải pháp đề xuất, Tạp chí Tòa án Nhân dân,
số 7/2014, tr. 26-30.
Như vậy có thể thấy chưa có nghiên cứu đầy đủ và hoàn chỉnh về hợp đồng trên
website thương mại điện tử mà chỉ có một số nghiên cứu gần đây chỉ tập trung làm rõ một
hoặc một vài khía cạnh của hợp đồng thương mại điện tử trong đó có phân tích hợp đồng
trên website thương mại điện tử như vấn đề về khái niệm hợp đồng điện tử, về giao kết

hợp đồng hay về chữ ký điện tử.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Hợp đồng trên website thương mại điện tử là một đề tài nghiên cứu mới, có phạm
vi tương đối rộng và ngày càng được mở rộng trong hoàn cảnh đất nước hội nhập kinh tế
toàn cầu với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện đại. Do đó trong
khuôn khổ có hạn của một luận văn thạc sĩ, luận văn không thể bao quát toàn diện cũng
như đi sâu tìm hiểu được mọi khía cạnh của hợp đồng trên website thương mại điện tử mà
tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trên website thương mại
điện tử thông qua việc phân tích, đánh giá nội dung của pháp luật trên website thương mại
điện tử được quy định tại Luật Giao dịch điện tử 2005 và một số văn bản hướng dẫn thi
hành cũng như pháp luật khác liên quan như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng 2010. Cụ thể, luận văn đi sâu nghiên cứu khái niệm và đặc điểm của hợp


6

đồng trên website thương mại điện tử, giá trị pháp lý của hợp đồng trên website thương
mại điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng khi giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại
điện tử. Mặt khác, luận văn không đề cập đến những hợp đồng trên website thương mại
điện tử được ký kết bằng những hình thức như bằng email, gọi điện thoại hay mua hàng
trực tiếp; hợp đồng trên website thương mại điện tử mà luận văn nghiên cứu là những hợp
đồng được giao kết bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương
mại điện tử.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
 Phương pháp luận nền tảng cho hoạt động nghiên cứu này là phương pháp luận
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac – Lenin kết hợp với quan điểm đường lối
của Đảng về phát triển kinh tế, nâng cao pháp luật về giao dịch điện tử nói chung

và giao dịch trên website thương mại điện tử nói riêng trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu. Từ phương pháp chung này luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể trong quá trình nghiên cứu từng nội dung trong khuôn khổ của luận văn.
 Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
-

Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh được sử dụng trong Chương 1 khi

nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng trên website thương mại điện tử.
-

Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá, phương

pháp so sánh, phương pháp bình luận được sử dụng trong Chương 2 để nghiên cứu thực
trạng pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử.
-

Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích được sử dụng trong Chương 3 để

đưa ra phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
trên website thương mại điện tử.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài


7

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và đề cập đến thực trạng pháp luật hiện
hành về hợp đồng trên website thương mại điện tử, luận văn sẽ đề xuất phương hướng và
một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trên website thương mại
điện tử ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể
sau:
-

Phân tích được khái niệm, đặc điểm của hợp đồng trên website thương mại điện tử;

-

Phân tích và đánh giá những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về giao kết

và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử, chỉ ra những thành tựu cũng như
hạn chế của pháp luật;
-

Phân tích được những ưu điểm cũng như rủi ro có thể gặp phải khi giao kết, thực

hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử;
-

Nêu rõ phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trên website thương mại

điện tử và căn cứ vào những bất cập pháp luật đã chỉ ra để đề xuất những giải pháp cụ thể
để hoàn thiện pháp luật.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh lục tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hợp đồng trên website thương mại điện tử
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương
mại điện tử ở Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương

mại điện tử ở Việt Nam


8

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TRÊN WEBSITE
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Hợp đồng trên website thương mại điện tử (TMĐT) là một dạng hợp đồng được giao kết
thông qua các phương tiện điện tử. Bên cạnh những đặc trưng của một hợp đồng, hợp
đồng trên website thương mại điện tử có một số đặc điểm riêng. Do vậy, Chương 1 của
luận văn sẽ được dành để trình bày về khái niệm, đặc điểm của hợp đồng được giao kết
trên website thương mại điện tử cũng như nguồn luật điều chỉnh loại hợp đồng này.

1. Khái quát về hợp đồng trên website thương mại điện tử
Phần đầu của Chương 1 tập trung phân tích khái niệm và đặc điểm của hợp đồng
trên website thương mại điện tử. Trong nội dung này luận văn có sự so sánh giữa pháp
luật Việt Nam với pháp luật quốc tế kết hợp với sự so sánh pháp luật về hợp đồng trên
website thương mại điện tử với pháp luật hợp đồng nói chung được quy định trong Bộ
luật Dân sự.
1.1.

Khái niệm hợp đồng trên website thương mại điện tử

Để các chủ thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động
thương mại điện tử, họ cần giao kết hợp đồng giống như việc giao kết hợp đồng thông
thường. Hợp đồng điện tử (tiếng anh là e-contracts) là một loại hình cơ bản của giao dịch
điện tử. Luật Mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử đã không đưa ra định nghĩ thế
nào là hợp đồng điện tử mà chỉ quy định rằng: “Trong khuôn khổ hình thành hợp đồng,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, một chào hàng và chấp nhận một chào hàng
được phép thể hiện bằng phương tiện các thông điệp dữ liệu. Khi một thông điệp dữ liệu

được sử dụng trong việc hình thành một hợp đồng thì giá trị và hiệu lực thi hành của hợp
đồng đó không thể bị phủ nhận với lý do rằng một thông điệp dữ liệu đã được dùng vào
mục đích ấy” (Điều 11) [22]. Hầu hết pháp luật các nước cũng không đưa ra định nghĩa về
hợp đồng điện tử mà thường chỉ đưa ra quy định thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng
điện tử. Ví dụ, Luật Giao dịch điện tử năm 1998 của Singapore tại Điều 11 đã quy định:
“trường hợp một bản ghi điện tử được sử dụng trong việc hình thành hợp đồng, thì hợp
đồng đó không bị phủ nhận giá trị pháp lý hoặc hiệu lực thực thi chỉ vì lý do duy nhất một


9

bản ghi điện tử đã được sử dụng cho mục đích đó”[20]. Như vậy, hợp đồng điện tử được
hiểu tương đối thống nhất trong quy định của pháp luật các nước cũng như trong thực tiễn
ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Theo đó, sự thống nhất này thể hiện ở chỗ phần lớn
ý kiến đều cho rằng hợp đồng điện tử là hợp đồng được ký kết thông qua việc sử dụng
những phương tiện truyền các thông điệp dữ liệu [10, tr.32].
Ở Việt Nam, hợp đồng điện tử là một thuật ngữ pháp lý mới, chính thức xuất hiện
vào năm 2005, sau khi quốc hội thông qua Luật Giao dịch điện tử 2005. Mặc dù được xây
dựng trên cơ sở tham khảo luật mẫu UNCITRAL nhưng khác với luật mẫu và pháp luật
nhiều nước trên thế giới, Luật giao dịch điện tử 2005 đã đưa ra định nghĩa chính thức về
hợp đồng điện tử tại Điều 33: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng
thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này”. Trong đó, thông điệp dữ liệu là “thông tin
được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử” theo quy
định tại khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005. Nó được thể hiện dưới hình thức:
trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax, và các hình
thức tương tự khác theo quy định tại Điều 10 Luật giao dịch điện tử 2005. Phương tiện
điện tử là một trong những cơ sở để phân biệt hợp đồng thương mại điện tử với hợp đồng
thông thường. Nếu như phương tiện thực hiện trong giao dịch thương mại truyền thống
chủ yếu được thực hiện thông qua lời nói, hành vi hay văn bản giấy tờ thì phương tiện
thực hiện trong thương mại điện tử là những phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ

điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công
nghệ tương tự (khoản 10 Điều 4 Luật giao dịch điện tử 2005) .
Xét theo nghĩa rộng thì hợp đồng điện tử đã được ứng dụng từ lâu thông qua các
phương tiện điện tử như điện thoại, fax… nhưng khái niệm hợp đồng điện tử chỉ thực sự
được nói tới khi các giao dịch, đặc biệt là các giao dịch thương mại qua mạng internet
được thực hiện phổ biến; hay nói cách khác hợp đồng điện tử là những hợp đồng được
giao kết thông qua các phương tiện điện tử, mà trong đó internet hay ít nhất là các kỹ
thuật và giao thức được sử dụng trên internet đóng một vai trò cơ bản và công nghệ thông
tin được coi là điều kiện tiên quyết [9, tr.29]. Mạng internet đưa ra bốn công cụ chính mà


10

các bên có thể sử dụng khi tham gia giao kết hợp đồng là: thư điện tử (email), công cụ tán
gẫu (chat), trang thông tin điện tử (website) và trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data
interchange - EDI). Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ đề cập đến hợp đồng trên
website thương mại điện tử.
Website là một tập hợp các trang web liên hệ với nhau một cách logic và có hệ
thống, bao gồm văn bản, hình ảnh, video…, thường chỉ nằm trên một tên miền hoặc tên
miền phụ trên World Wide Web của Internet. Website cho phép người dùng thực hiện
nhiều hoạt động như nhu cầu trao đổi thông tin, giao tiếp với chủ website hoặc những
người truy cập khác, tìm kiếm, mua bán…. Đối với doanh nghiệp, website là một cửa
hàng ảo với hàng hóa và dịch vụ có thể được giới thiệu và rao bán trên thị trường toàn
cầu. Cửa hàng này mở cửa 24 giờ 1 ngày, 7 ngày 1 tuần, quanh năm, cho phép khách
hàng tìm kiếm thông tin, xem, mua hàng hóa và dịch vụ bất cứ lúc nào họ muốn. Bên
cạnh đó, website còn đóng vai trò tạo dựng hình ảnh và quảng cáo không chỉ cho sản
phẩm mà còn cho doanh nghiệp.
Theo Khoản 8 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử thì
website thương mại điện tử là trang thông tin điện tử được thiết lập để phục vụ một phần
hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng

bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cho đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán
và dịch vụ sau bán hàng. Với cách hướng dẫn về khái niệm website thương mại điện tử
như vậy, ta có thể thấy doanh nghiệp khi đưa thông tin hàng hóa dịch vụ lên website thì
có thể cung cấp nhiều cách khác nhau cho phép khách hàng lựa chọn phương thức mua
sắm mình mong muốn như đặt hàng trực tuyến, gọi điện thoại cho tổng đài hay đến mua
trực tiếp tại cơ sở của doanh nghiệp. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ đi sâu phân
tích việc giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử, nghĩa là chỉ đề
cập đến hình thức đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử. Cũng tại Nghị
định 52/2013/NĐ-CP, tại khoản 12 Điều 3, chức năng đặt hàng trực tuyến đã được định
nghĩa là: “là một chức năng được cài đặt trên website thương mại điện tử hoặc trên thiết
bị đầu cuối của khách hàng và kết nối với website thương mại điện tử để cho phép khách


11

hàng khởi đầu quá trình giao kết hợp đồng theo những điều khoản được công bố trên
website đó, bao gồm cả việc giao kết hợp đồng với hệ thống thông tin tự động”.
Nghị định tại Điều 25 cũng đã quy định về hình thức tổ chức hoạt động thương mại
điện tử trên website thương mại điện tử gồm có:
1. Website thương mại điện tử bán hàng là website thương mại điện tử do các thương
nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng
hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình.
2. Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là website thương mại điện tử do thương
nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân
khác tiến hành hoạt động thương mại. Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử bao
gồm các loại sau:
a) Sàn giao dịch thương mại điện tử;
b) Website đấu giá trực tuyến;
c) Website khuyến mại trực tuyến;
d) Các loại website khác do Bộ Công Thương quy định.

Theo Báo cáo Thương mại điện tử 2014, sự tham gia các hình thức mua sắm trực
tuyến của người dân theo thứ tự là website bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (71%), diễn
đàn mạng xã hội (53%), website mua hàng theo nhóm (35%), sàn giao dịch điện tử (25%),
ứng dụng mobile (13%) và hình thức khác (4%) [13, tr. 30] (Phụ lục 1).
Một website TMĐT có một số đặc điểm ưu việt có thể kể đến như sự tương tác, sự
linh hoạt, mạng lưới liên kết rộng và đặc biệt là sự nhanh chóng đến mức ngay khi xảy ra
sự kiện thì thông tin đã có thể được đưa lên website và cập nhật liên tục. Các tờ rơi, poster
quảng cáo về sản phẩm và địa điểm bán hàng chỉ có thể cung cấp cho khách hàng thông
điệp về doanh nghiệp theo một chiều nhưng trong môi trường trực tuyến, sử dụng website
là cách doanh nghiệp cam kết với khách hàng, lắng nghe và học hỏi từ phía khách hàng.
Sự linh hoạt của website thể hiện ở chỗ người dùng có thể tiếp cận trang mạng ở bất cứ
đâu, vào bất cứ thời gian nào mà không bị hạn chế như việc trao đổi buôn bán thông
thường.


12

Với những đặc điểm đó, website thương mại điện tử có rất nhiều lợi thế khi nó là sự kết
hợp của truyền thông đa phương tiện và khả năng giao tiếp giữa các chủ thể với nhau.
Giao kết hợp đồng trên website TMĐT giúp doanh nghiệp vừa mở rộng thị trường vừa
giảm chi phí giao dịch cũng như tiết kiệm thời gian ký kết hợp đồng. Với ưu thế là sự kết
nối internet toàn cầu, một doanh nghiệp khi đưa hàng hóa dịch vụ của mình lên website
thì mọi người truy cập đều có thể tiếp cận được, không chỉ trong địa phương, quốc gia mà
còn mở rộng trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp và người tiêu dùng khi ký kết
hợp đồng trên website thương mại điện tử còn giảm được rất nhiều chi phí phụ vụ cho
việc giao kết hợp đồng như tìm kiếm đối tác, di chuyển, gặp mặt trực tiếp…. Chi phí giao
dịch qua internet chỉ bằng 5% chi phí qua fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi
phí thanh toán điện tử qua internet chỉ bằng 10%-20% chi phí thanh toán theo lối thông
thường [15, tr.26]. Thông qua đó, việc ứng dụng hợp đồng trên website thương mại điện
tử sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế.
Về phía người tiêu dùng, họ có thể dễ dàng tham khảo thông tin về doanh nghiệp,
về hàng hóa, dịch vụ, so sánh giá cả, chất lượng của sản phẩm do nhiều doanh nghiệp
cung cấp trước khi quyết định mua hàng. Khách hàng có thể mua hàng ở bất cứ đâu, vào
bất cứ thời gian nào, có thể thanh toán qua mạng và được giao hàng tận nơi, tiết kiệm thời
gian, tiền bạc và công sức. Bên cạnh đó, người tiêu dùng còn được hưởng lợi khi hàng
hóa được mua bán trên website được bán với giá thấp hơn các kênh phân phối khác.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hợp đồng trên website thương mại điện tử vẫn tồn tại
nhiều rủi ro về chủ thể, về sản phẩm, về thanh toán và giao nhận hàng. Theo thống kê của
Cục thương mại điện tử và Công nghệ thông tin trong Báo cáo Thương mại điện tử Việt
Nam năm 2014, mức độ hài lòng của người tiêu dùng mới chỉ đạt 41%, 48% thấy bình
thường và 5% không hài lòng [13, tr.32]; về trở ngại đối với người tiêu dùng khi mua sắm
trực tuyến thì 81% trả lời là chất lượng sản phẩm kém so với quảng cáo, 51% người tham
gia khảo sát lo ngại về dịch vụ vận chuyển và giao nhận [13, tr.33] (xem Phụ lục 3), việc
thanh toán quan mạng cũng còn xa lạ và khó khăn với phần lớn người mua hàng, khiến


13

cho nhiều khách hàng từ bỏ việc giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử nếu
không được trả tiền khi nhận hàng.
1.2.

Đặc điểm của hợp đồng trên website thương mại điện tử

Hợp đồng trên website thương mại điện tử trước hết là một hợp đồng do đó nó có
những đặc điểm cơ bản của hợp đồng. Xét về bản chất, hợp đồng trên website TMĐT là
sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự; người mua khi mua sắm trực tuyến được tùy chọn hàng hóa họ muốn, về
màu sắc, chủng loại, số lượng… khi thực hiện giao dịch bằng cách nhập các thông tin sản

phẩm vào các ô cho trước trên trang web. Hợp đồng này cũng có giá trị pháp lý như hợp
đồng được giao kết trực tiếp giữa các chủ thể nếu nó thực hiện đúng các quy định pháp
luật. Tuy nhiên hợp đồng giao kết trên website thương mại điện tử do đặc thù về mặt kỹ
thuật và pháp lý nên nó có những điểm khác biệt so với hợp đồng truyền thống:
1.2.1. Chủ thể của hợp đồng trên website thương mại điện tử
Chủ thể xuất hiện trong giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại
điện tử thường bao gồm: Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng trên website thương mại
điện tử, chủ thể hỗ trợ việc giao kết hợp đồng giữa các bên, chủ thể thứ ba đảm bảo cho
việc giao kết hợp đồng. Những chủ thể này sẽ được phân tích cụ thể trong phần dưới đây.
 Các bên tham gia giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử
Hợp đồng thương mại điện tử là một dạng hợp đồng thương mại, do đó khi tham
gia hợp đồng phải có ít nhất hai bên chủ thể gồm có bên cung cấp hàng hóa dịch vụ và
khách hàng.
Cụ thể, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử có thể
bao gồm những chủ thể sau:
-

Các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập website TMĐT để phục vụ hoạt

động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người sở hữu
website thương mại điện tử bán hàng)


14

-

Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng website của thương nhân, tổ chức cung

cấp dịch vụ TMĐT để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung

ứng dịch vụ của mình (người bán)
-

Các thương nhân, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa hoặc dịch vụ trên website thương

mại điện tử bán hàng và website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (khách hàng)
-

Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện tử có nối mạng khác để

tiến hành hoạt động thương mại
Chủ thể bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên website thương mại điện tử phải đáp
ứng được các điều kiện:
-

Chủ thể kinh doanh phải được thành lập và đăng ký kinh doanh theo thủ tục luật

định; chủ thể nếu kinh doanh ngành nghề có điều kiện thì phải có giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh; chủ thể không được kinh doanh những ngành nghề pháp luật cấm;
riêng với website đấu giá trực tuyến thì phải đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá thì mới
được cung cấp dịch vụ đấu giá trực tuyến.
-

Chủ thể kinh doanh phải thực hiện hoạt động thương mại thường xuyên liên tục

nhằm mục đích vì lợi nhuận; phải có tài sản riêng để tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các
hoạt động kinh doanh;
-

Chủ thể bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ trên website phải có website thương mại


điện tử (website bán hàng hoặc website cung cấp dịch vụ), phải thông báo hoặc đăng ký
website thương mại điện tử theo thủ tục luật định tại Thông tư 47/2014/TT-BCT Quy
định về quản lý website thương mại điện tử.
Về phía khách hàng trên website thương mại điện tử; tư cách chủ thể của cá nhân
khi tham gia vào hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ theo
quy định của Bộ luật dân sự 2005. Cụ thể, theo quy định của BLDS 2005, cá nhân có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được tự mình xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự
(Điều 19); người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là người có một phần năng
lực hành vi dân sự thì việc xác lập, thực hiện các hợp đồng của họ phải được người đại
diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù


15

hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác; cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 20); người dưới 6 tuổi là
người không có năng lực hành vi dân sự và mọi giao dịch liên quan tới người này đều
phải được xác lập, thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp (Điều 21). Nếu khách
hàng là thương nhân thì phải đáp ứng được các điều kiện cơ bản: phải được thành lập và
đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật; có tài sản riêng; hoạt động thương mại độc
lập và thường xuyên, vì mục đích lợi nhuận.
 Chủ thể hỗ trợ cho việc giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử
Đối với việc giao kết hợp đồng trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử
(là website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường
cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động thương mại) thì việc giao
kết hợp đồng trên website thương mại điện tử còn xuất hiện thêm một chủ thể thứ ba đóng
vai trò là chủ thể trung gian hỗ trợ cho việc giao kết hợp đồng giữa người bán hàng và
người tiêu dùng được thực hiện. Cụ thể như sau:

-

Hợp đồng được giao kết trên sàn giao dịch điện tử:

Theo quy định tại khoản 4 Điều 37 về trách nhiệm của người bán trên sàn giao
dịch thương mại điện tử trong Nghị định 52/2013/NĐ-CP: “Thực hiện các quy định tại
Mục 2 Chương II Nghị định này khi ứng dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên sàn
giao dịch thương mại điện tử ”, trong đó Mục 2 Chương II quy định về giao kết hợp đồng
sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website TMĐT. Trong khi đó, khi quy định
trách nhiệm của chủ sở hữu website cung cấp dịch vụ sàn giao dịch điện tử (Điều 36)
không có quy định về việc giao kết hợp đồng mà chỉ đặt ra các nội dung để sàn giao dịch
hoạt động minh bạch và rõ ràng, đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia giao kết và thực
hiện hợp đồng giao kết trên website: “[…] 6. Thiết lập cơ chế cho phép thương nhân, tổ
chức, cá nhân tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện được quy trình giao
kết hợp đồng theo quy định tại Mục 2 Chương II Nghị định này nếu website có chức năng
đặt hàng trực tuyến […]”. Như vậy hợp đồng được giao kết trên sàn giao dịch thương


16

mại điện tử là hợp đồng được giao kết giữa khách hàng và thương nhân, tổ chức, cá nhân
bán hàng trên sàn giao dịch đó, và nếu tranh chấp xảy ra thì chính người bán hàng mới là
chủ thể bị ràng buộc về quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ với khách hàng xác lập dựa
trên hợp đồng đã giao kết trên website thương mại điện tử là sàn giao dịch điện tử.
-

Hợp đồng được giao kết trên website khuyến mại trực tuyến:

Theo khoản 1 Điều 39 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, thương nhân, tổ chức cung cấp
dịch vụ khuyến mại trực tuyến là thương nhân, tổ chức thiết lập website khuyến mại trực

tuyến để thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, tổ chức, cá nhân
khác (gọi tắt là đối tác) theo các điều khoản của hợp đồng dịch vụ khuyến mại. Như vậy,
sau khi thỏa thuận với đối tác về bán các hàng hóa, cung ứng dịch vụ được giảm giá,
website sẽ đưa ra giới thiệu và bán sản phẩm với mức giá đã được giảm; khách hàng
muốn được hưởng ưu đãi này phải thông qua website khuyến mại trực tuyến bằng cách
mua các voucher trên website rồi tiếp tục dùng voucher đó để mua hàng hóa, dịch vụ từ
người bán. Nội dung này cũng đã được quy định cụ thể trong Nghị định 52/2013/NĐ-CP
tại khoản 4 Điều 41 về trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ khuyến
mại: “Thực hiện các quy định tại Mục 2 Chương II Nghị định này nếu website có chức
năng đặt hàng trực tuyến cho các phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ hoặc thẻ khách
hàng thường xuyên”, trong đó Mục 2 này quy định về các nội dung liên quan tới việc giao
kết hợp đồng sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website TMĐT như thông báo
mời đề nghị giao kết hợp đồng, đề nghị giao kết hợp đồng, trả lời đề nghị giao kết hợp
đồng… . Với cách quy định này sẽ nảy sinh cách hiểu rằng chủ sở hữu website khuyến
mại trực tuyến là chủ thể tham gia giao kết hợp đồng với khách hàng.
Tuy nhiên, xét quy định của Luật thương mại 2005 về khuyến mại thì đây là một
hình thức xúc tiến thương mại, nhằm khuyến khích việc mua bán hàng hóa giữa thương
nhân với khách hàng; do đó việc giao kết hợp đồng vẫn là giao kết giữa thương nhân bán
hàng với khách hàng, vai trò của thương nhân cung cấp dịch vụ khuyến mại (nếu có) chỉ
là bên trung gian thực hiện việc bán hàng thay cho thương nhân bán hàng. Bên cạnh đó,
trong trường hợp xảy ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường đặt ra đối với chủ thể có hành


17

vi vi phạm, có thể là thương nhân bán hàng hóa hoặc thương nhân thực hiện dịch vụ
khuyến mại.
Qua phân tích trên, có thể thấy quy định pháp luật đối với hợp đồng trên website
thương mại điện tử có sự mâu thuẫn với quy định tại Luật thương mại, dẫn tới những cách
áp dụng khác nhau trên thực tế. Việc xác định chủ thể của hợp đồng trên website khuyến

mại trực tuyến khó xác định với hoạt động bán hàng do website là bên xác nhận hợp
đồng, bên nhận thanh toán và có thể là bên giao hàng. Ví dụ, trong website khuyến mại
lớn hiện nay là hotdeal.vn, đối với việc mua bán hàng hóa, với phần lớn các mặt hàng thì
website không có thông tin về doanh nghiệp bán hàng hay doanh nghiệp phân phối hàng
hóa mà khách hàng khi đọc những thông tin được đưa ra thì chỉ thấy rằng chủ thể thiết lập
hotdeal là chủ thể bán hàng hóa trên website. Nhưng xét trong trường hợp là cung ứng
dịch vụ (ăn uống, làm đẹp...) thì có thể thấy rõ ràng rằng khách hàng sau khi mua phiếu
của website thì phải tới thương nhân cung ứng dịch vụ để được hưởng dịch vụ và nếu có
chi phí thêm thì khách hàng cũng thanh toán trực tiếp với thương nhân cung ứng dịch vụ
này.
Theo quan điểm của tác giả, hợp đồng về hàng hóa, dịch vụ được giao kết trên
website thương mại điện tử là hợp đồng giữa thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng với
khách hàng, website khuyến mại trực tuyến chỉ đóng vai trò là chủ thể hỗ trợ cho việc
giao kết và thực hiện hợp đồng giữa các bên được diễn ra thuận lợi hơn; voucher mà
website cung cấp chỉ có tác dụng như là một bằng chứng để chứng minh là khách hàng
được phép mua sản phẩm của người bán hàng với mức giá ưu đãi hoặc được hưởng
những hình thức khuyến mại khác mà người bán hàng cung cấp. Mặt khác, nếu hiểu chủ
thể thiết lập website là chủ thể giao kết hợp đồng sẽ đồng nghĩa với việc thừa nhận chủ
thể thiết lập website cũng chính là chủ thể bán hàng hóa cho khách hàng; điều này sẽ dẫn
đến việc hiểu rằng người bán hàng đã bán sản phẩm cho website và website bán lại cho
khách hàng với mức giá thấp. Nếu xác định theo cách này sẽ khiến cho hợp đồng trên
website khuyến mại trực tuyến trở thành hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường và


18

làm mất đi ý nghĩa thực sự của hoạt động dịch vụ khuyến mại: xúc tiến thương mại cho
thương nhân khác.
Như vậy, quy định pháp luật về hợp đồng trên website khuyến mại trực tuyến cần
được xem xét lại cả về cách xác định chủ thể hợp đồng cũng như trách nhiệm bồi thường

thiệt hại.
-

Hợp đồng được giao kết trên website đấu giá trực tuyến

Tương tự với sàn giao dịch điện tử, website đấu giá trực tuyến cũng là một môi
trường mà thương nhân, tổ chức cấp cấp dịch vụ thương mại điện tử thiết lập để thương
nhân, tổ chức, cá nhân khác có thể tổ chức đấu giá cho hàng hóa của mình trên đó. Như
vậy, hợp đồng trên website đấu giá trực tuyến được giao kết giữa khách hàng với người
bán hàng hóa trên website chứ không phải với chủ sở hữu website thương mại điện tử và
nếu quyền lợi của khách hàng bị xâm phạm thì người tiêu dùng có quyền đưa thương
nhân bán hàng ra cơ chế thích hợp để giải quyết tranh chấp về hợp đồng.
 Chủ thể thứ ba đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng trên website thương mại
điện tử
Trong giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử, ngoài hai chủ thể kể trên
còn tồn tại một chủ thể khác có liên quan chặt chẽ và đóng vai trò quan trọng đảm bảo
cho việc giao kết hợp đồng. Đó là các tổ chức cung cấp dịch vụ mạng và tổ chức chứng
nhận. Trong đó, tổ chức cung cấp dịch vụ mạng là tổ chức cung cấp hạ tầng đường truyền
và các dịch vụ khác có liên quan để thực hiện giao dịch điện tử, bao gồm tổ chức cung
cấp dịch vụ kết nối internet, tổ chức cung cấp dịch vụ internet và tổ chức cung cấp dịch
vụ truy cập mạng theo khoản 14 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005. Tổ chức chứng nhận
là các tổ chức được thành lập nhằm thực hiện những dịch vụ liên quan đến việc giao kết
hợp đồng điện tử như xác thực hay chứng nhận chữ ký điện tử và chữ ký số hóa, bảo đảm
giá trị pháp lý các hợp đồng điện tử, bảo đảm cho các hình thức thanh toán điện tử …[15,
tr.47].
Các tổ chức này không phải là các bên của hợp đồng trên website thương mại điện
tử, không tham gia vào quá trình đàm phán, giao kết hay thực hiện hợp đồng trên website


19


thương mại điện tử mà chỉ tham gia với tư cách là bên hỗ trợ nhằm đảm bảo tính hiệu quả
và giá trị pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện
tử. Các nhà cung cấp dịch vụ mạng có trách nhiệm duy trì hệ thống mạng luôn ở tình
trạng tốt 24/24 giờ. Hệ thống mạng trục trặc sẽ ảnh hưởng đến việc giao kết hợp đồng.
Còn tổ chức thực hiện dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử sẽ đóng vai trò quan trọng trong
việc xây dựng và tạo ra một cơ chế sao cho các hợp đồng trên website thương mại điện tử
không bị giả mạo và không thể bị phủ nhận khi tranh chấp phát sinh. Với vai trò quan
trọng như vậy, pháp luật đã quy định pháp lý của các tổ chức này với tư cách là chủ thể
tham gia vào quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng thương mại điện tử [14, tr.262].
1.2.2. Đối tượng của hợp đồng trên website thương mại điện tử
Theo pháp luật thương mại thì các chủ thể có quyền thực hiện hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ không bị pháp luật cấm hay hạn chế kinh doanh do Chính phủ
quy định cụ thể. Hoạt động thương mại trên website thương mại điện tử cũng phải tuân
thủ những quy định này, cụ thể tại khoản 1 Điều 3 Thông tư 47/2014/TT-BCT Quy định
về quản lý website thương mại điện tử đã có quy định: Thương nhân, tổ chức, cá nhân
không được sử dụng website thương mại điện tử để kinh doanh các hàng hóa hạn chế kinh
doanh sau:
a) Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ;
b) Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác;
c) Rượu các loại;
d) Thực vật, động vật hoang dã quý hiếm, bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng
đã được chế biến;
đ) Các hàng hóa hạn chế kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Đối với những thương nhân thiết lập website để bán các hàng hóa, dịch vụ thuộc danh
mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh phải công bố trên website của mình số, ngày cấp và nơi cấp Giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ đó.



×