Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.51 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HƯƠNG GIANG

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại học
Luật Hà nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật Kinh tế
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương trình
sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến PGS. TS.
Nguyễn Viết Tý, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
quan tâm và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn !


Hà nội, ngày 21 tháng 5 năm 2015
Học viên

Nguyễn Hương Giang


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Viết Tý. Các số liệu và những kết luận nghiên
cứu là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình

Học viên

Nguyễn Hương Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN DOANH
NGHIỆP VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP

6

1.1. Những vấn đề lý luận về mua bán doanh nghiệp


6

1.1.1. Khái niệm mua bán doanh nghiệp

6

1.1.2. Những đặc trưng của hoạt động mua bán doanh nghiệp

10

1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp

10

1.2. Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán doanh nghiệp

12

1.2.1. Bản chất pháp lý của hợp đồng mua lại doanh nghiệp

12

1.2.2. Khái niệm về hợp đồng mua bán doanh nghiệp

14

1.2.3. Những đặc trưng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp

14


1.2.4. Nội dung của hợp đồng mua bán doanh nghiệp

18

1.3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán doanh nghiệp

18

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

24

2.1. Chủ thể trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp

24

2.1.1. Bên bán trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp

24

2.2.2. Bên mua trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp

25

2.2. Đối tượng của quan hệ mua bán doanh nghiệp

31

2.2.1. Tài sản doanh nghiệp và vấn đề định giá giá trị doanh nghiệp


32

2.2.2. Định giá tài sản của doanh nghiệp

38

2.3. Hình thức của hợp đồng

42

2.4. Nội dung của hợp đồng

43

2.4.1. Về điều khoản cơ bản của hợp đồng

43

2.4.2. Điều khoản thông thường

58

2.5. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu

59


2.5.1. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do vi phạm quy định về
chủ thể


59

2.5.2. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do giao kết trái với các
nguyên tắc ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật

59

2.5.3. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do vi phạm quy định về
đồng tiền thanh toán

60

2.5.4. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do vi phạm các quy định
của pháp luật cạnh tranh

60

2.5.5. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do bị lừa dối

61

CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

62

3.1. Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán
doanh nghiệp


62

3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

62

3.1.2. Xuất phát từ sự gia tăng mạnh mẽ nhu cầu mua bán doanh nghiệp

63

3.1.3. Xuất phát từ những hạn chế và thiếu sót của pháp luật điều chỉnh
hoạt động mua bán doanh nghiệp và hợp đồng mua bán doanh nghiệp

63

3.2. Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
mua bán doanh nghiệp

64

3.2.1. Phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
mua bán doanh nghiệp

64

3.2.2. Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
mua bán doanh nghiệp

66


KẾT LUẬN

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

73


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, khi Việt Nam tham gia các tổ chức kinh tế
thế giới như WTO, APEC, ASEM... đã mở ra cho các doanh nghiệp trong nước
nhiều cơ hội đầu tư, kinh doanh, nhưng cũng đem lại không ít khó khăn, thách thức
trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài có quy mô và tiềm năng về
vốn, kỹ thuật, năng lực quản lý... Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ
hoặc những doanh nghiệp quản trị kém không thể tiếp tục “chèo lái” con thuyền
của mình đã phải bán doanh nghiệp hoặc một phần doanh nghiệp hay sáp nhập với
các công ty khác. Điều đó đồng nghĩa với việc, có những doanh nghiệp ngày càng
lớn mạnh lên nhờ công nghệ, quản trị, sản phẩm chiến lược… và sẽ luôn tìm kiếm
cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Ngược lại, có những doanh
nghiệp ngày một suy kém và phải rút lui khỏi thị trường. Một trong những biện
pháp hữu hiệu mà các doanh nghiệp mạnh thường nghĩ đến là mua lại các công ty
đang “hấp hối” để tranh thủ những nguồn lực sẵn có của công ty này (như nguồn
nhân công có tay nghề, mạng lưới cung cấp khách hàng hay thương hiệu ...). Hiện
nay, việc mua bán doanh nghiệp hay chuyển nhượng vốn góp ngày càng phát triển
và trở thành xu thế tất yếu của thị trường. Tuy vậy, không thể phủ nhận, hoạt động
mua bán doanh nghiệp là một lĩnh vực kinh doanh tương đối mới. Tại Việt Nam,

các vấn đề pháp lý liên quan đến lĩnh vực này vẫn còn chưa được tổng kết thành hệ
thống lý luận trong khoa học pháp lý. Mặt khác, trên thực tế, hệ thống pháp luật
hiện hành của Việt Nam còn thiếu các quy định để điều chỉnh trực tiếp, đồng bộ
cho hoạt động mua bán doanh nghiệp. Chỉ với một vài điều luật như điều 187 của
Luật doanh nghiệp (2014) quy định về quyền bán doanh nghiệp của chủ doanh
nghiệp tư nhân, hoặc một vài điều trong Nghị Định 128/2014/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2014 chỉ điều chỉnh bộ phận mua bán công ty nhà nước thì chưa thể
gọi là đủ để điều chỉnh quan hệ pháp luật tương đối rộng lớn và phức tạp này. Bên
cạnh đó, bất cập trong những quy định hiện hành cũng có thể được chỉ ra như:
pháp luật yêu cầu sau khi mua lại doanh nghiệp nhất định chủ sở hữu mới phải tiến


2

hành đăng kí kinh doanh lại, vì vậy, thực chất của việc mua bán doanh nghiệp
chính là hoạt động mua bán tài sản, chuyển nhượng tài sản doanh nghiệp mà không
chuyển nhượng tư cách pháp lý. Có thể nói, những quy định này không phù hợp
với quan điểm nhìn nhận hoạt động mua bán doanh nghiệp là hoạt động có tính thương mại, theo đó, người mua không những được chuyển quyền sở hữu doanh
nghiệp mà còn phải được khai thác các thuộc tính thương mại của nó, có nghĩa là
được tiếp tục kinh doanh bằng tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Chính những bất
cập này đã làm cho hoạt động mua bán doanh nghiệp không hiệu quả, hợp đồng
mua bán doanh nghiệp do vậy sẽ mang tính rủi ro cao, đặc biệt là việc xác định tài
sản vô hình của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nhận thấy khung pháp lý về hoạt động mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp và những quy định riêng về hợp đồng mua bán doanh nghiệp chưa
hoàn thiện, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn
đề tài: “Pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp – Thực trạng và giải pháp”
để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Rất ít các công trình nghiên cứu tách rời hoạt động mua bán doanh nghiệp

với hợp đồng mua bán doanh nghiệp mà chủ yếu các công trình nghiên cứu khoa
học đều nghiên cứu hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một vấn đề trong hoạt
động mua bán doanh nghiệp.
Về vấn đề mua bán doanh nghiệp có rất nhiều công trình nghiên cứu. Sách
nước ngoài có cuốn “M&A – Mua lại và sáp nhập thông minh, kim chỉ nam trên
trận đồ sáp nhập và mua lại” của tác giả Scott Moeller & Chris Brady, Nxb Tri
thức, Hà Nội (2009).
Về các công trình nghiên cứu khoa học “Cẩm nang Mua bán và sáp nhập tại
Việt Nam” của Mạng mua bán và sáp nhập Việt Nam (2009) là cuốn sách đầu tiên
của khu vực tư nhân được soạn thảo một cách công phu và mang tính thực tiễn cao.


3

Về luận văn, có luận án “Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam” của tiến
sĩ Trần Thị Bảo Ánh đã đề cập khá tổng quan về mua bán doanh nghiệp và cũng có đề cập
đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo các quy định của pháp luật Việt Nam là một
đề tài khá mới hiện nay. Qua tìm hiểu mới chỉ có một luận văn nghiên cứu về vấn đề này
là: Luận văn thạc sĩ của Mai Vân Anh (2009) bàn về “Hợp đồng mua bán doanh nghiệp
theo pháp luật Việt Nam”.
Về sách chuyên khảo: Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - Những
vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội do TS Nguyễn Thị Dung chủ biên
năm 2009. Chương tám cuốn sách đã thông tin tới bạn đọc cách pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, còn có một vài các bài viết trên các báo hay trang mạng điện tử như: Bài
viết của Phạm Trí Hùng bàn về “Một số vấn đề của hợp đồng sáp nhập, mua lại doanh
nghiệp”; hay bài viết “Những điều khoản quan trọng trong hợp đồng mua bán doanh
nghiệp” trên trang hoặc một số bài viết và
khóa luận về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.
Do vậy, có thể nói trong thời gian gần đây chưa có một công trình nghiên cứu nào

nghiên cứu một cách đầy đủ và cập nhật những thông tin pháp luật mới nhất về các vấn đề
pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo pháp luật
Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp hay còn được gọi tắt là M&A
luôn là một cụm từ song hành cùng nhau, tuy nhiên giữa chúng tồn tại các khái
niệm khác nhau và các hình thức tiến hành khác nhau. Việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý
liên quan đến hợp đồng của hai hình thức này có nhiều điều cần đề cập. Do vậy, với phạm
vi một đề tài nghiên cứu khoa học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý của
Việt Nam về hợp đồng mua bán doanh nghiệp.


4

Ngoài ra, trong thực tiễn, mua bán doanh nghiệp được thể hiện qua nhiều hình thức
đa dạng khác nhau, trong giới hạn luận văn thạc sỹ, hợp đồng mua bán doanh nghiệp được
nghiên cứu dưới hình thức hợp đồng mua bán chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn
góp chi phối cho bên mua.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài,
trong quá trình nghiên cứu, tác giả bản luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa
học chuyên ngành. Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm nghiên cứu sâu sắc từng
vấn đề trong những quy định về hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Trên cơ sở kết quả phân
tích, tác giả đã liên kết, thống nhất lại tất cả các bộ phận, các yếu tố trong mối liên hệ tổng
hợp từ đó rút ra những điểm bất cập của những quy định về hợp đồng mua bán doanh
nghiệp. Ngoài ra, với phương pháp thống kê đưa ra những số liệu về số lượng các vụ mua
bán doanh nghiệp và các hợp đồng mua bán doanh nghiệp được kí kết cho ta thấy thực
trạng của việc mua bán doanh nghiệp. Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong bản
luận án để so sánh những quy định về hợp đồng mua bán doanh nghiệp của Việt Nam với

một số nước trên thế giới, trên cơ sở đó đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề hợp
đồng mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn: nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và đặc trưng
pháp lý của hợp đồng mua bán doanh nghiệp; đánh giá và phân tích thực trangh pháp luật
Việt Nam hiện hành về hợp đồng mua bán doanh nghiệp trên cơ sở đối chiếu, so sánh với
pháp luật các nước. Từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị và giải pháp để góp phần xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra cho mình nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ
nhất, nghiên cứu về những đặc trưng pháp lý của việc mua bán doanh nghiệp và những
vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Thứ hai, nghiên cứu, phân tích những
quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Thứ ba, đánh giá,


5

bình luận về những ưu điểm, hạn chế của quy định pháp luật về hợp đồng mua bán doanh
nghiệp. Và cuối cùng, đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần khắc phục những hạn chế,
thiếu sót và hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Thứ nhất, đây là một trong số rất ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu một cách
hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng mua bán doanh nghiệp trên cơ sở
nghiên cứu những đặc trưng của hoạt động mua bán doanh nghiệp và hệ thống các vấn đề
pháp lý có liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Thứ hai, trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng
mua bán doanh nghiệp, từ đây tác giả đã phát triển phân tích thêm về kinh nghiệm điều
chỉnh pháp luật của một số nước trên thế giới về hợp đồng mua bán doanh nghiệp, trên cơ
sở đó đã xây dựng được những định hướng và giải pháp mang tính đặc thù để khắc phục
những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên mua bán doanh nghiệp và các bên thứ ba

có liên quan với các bên mua bán doanh nghiệp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về mua bán doanh nghiệp và hợp đồng mua bán
doanh nghiệp;
Chương 2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp;
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán
doanh nghiệp.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP VÀ
HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề lý luận về mua bán doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm mua bán doanh nghiệp
Liên quan trực tiếp đến hoạt động mua bán doanh nghiệp, việc tiếp cận khái
niệm mua bán tài sản dân sự, khái niệm mua bán hàng hoá trong thương mại và các
khái niệm có liên quan sẽ là cơ sở để tiến tới xây dựng khái niệm “mua bán doanh
nghiệp” trên tinh thần các quy định pháp luật hiện hành.
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, quan hệ mua bán tài sản được
nhìn nhận dưới góc độ Luật dân sự là một quan hệ pháp luật theo đó người mua và
người bán có quyền và nghĩa vụ nhất định, thông qua việc mua bán làm chấm dứt
quyền sở hữu của người bán đối với tài sản, đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu
của người mua. Một cách cụ thể, có thể hiểu mua bán tài sản là thoả thuận giữa các
bên theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao tài sản cho bên mua và nhận tiền bán
tài sản, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán theo thời hạn,
số lượng và phương thức mà các bên đó thoả thuận.

Pháp luật thương mại cũng có những quy định liên quan đến việc mua bán tài
sản dưới dạng các hàng hoá, đồng thời định nghĩa: “Mua bán hàng hoá là hoạt động
thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá
cho bên mua và nhận thanh toán. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận ” (khoản 8 điều 2 Luật thương mại
2005). Có thể nói, trong lĩnh vực thương mại, mua bán hàng hoá trở thành hoạt động
cơ bản của thương nhân, là giao dịch nền tảng cho mọi giao dịch thương mại khác.
Theo Luật Thương mại (2005), thương nhân là những tổ chức kinh tế được thành lập
một cách hợp pháp, cá nhân hoạt động thơng mại độc lập, thường xuyên và có đăng
ký kinh doanh.


7

Tuy nhiên, yếu tố khác biệt nhất của quan hệ mua bán doanh nghiệp so với
các quan hệ mua bán tài sản dân sự hay mua bán hàng hoá thương mại là đối tợng
của nó. Ở đây, đối tượng của mua bán doanh nghiệp chính là một doanh nghiệp - tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật, đồng thời, một cá nhân, tổ chức có thể đưa tài
sản (dưới hình thức góp vốn) vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hay các
chủ sở hữu chung của doanh nghiệp.
Như vậy, doanh nghiệp là một thực thể pháp lý có thể có hoặc không có tư
cách pháp nhân, được thành lập theo quy định của pháp luật và là một tài sản của
chủ sở hữu doanh nghiệp. Vì vậy chủ sở hữu có thể bán doanh nghiệp tuỳ theo mục
đích của mình. Trên cơ sở đó Luật doanh nghiệp (2014) quy định: “Chủ doanh
nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác” (khoản 1
điều 187 Luật doanh nghiệp).
Bên cạnh đó, Nghị định 128/2014/NĐ - CP cũng định nghĩa về bán công ty
nhà nước như sau: là việc chuyển đổi sở hữu toàn bộ một doanh nghiệp hoặc đơn
vị hạch toán phụ thuộc cho tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác có thu tiền. Khái

niệm này đã xác định được bản chất của mua bán doanh nghiệp là chuyển quyền sở
hữu có thu tiền. Tuy nhiên, đối tượng mua bán doanh nghiệp trong Nghị định này
tương đối hẹp khi chỉ điều chỉnh việc mua bán 100% vốn nhà nước.
Một cách tiếp cận khác về mua bán doanh nghiệp được thể hiện trong Luật
cạnh tranh (2004). Cụ thể tại khoản 3 điều 17 Luật cạnh tranh (2004): ”Mua lại
doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của
doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại”. Hay như điều 21 Luật đầu tư (2005) đã quy định “đầu tư
thực hiện việc sáp nhâp và mua lại doanh nghiệp” như một trong những hình thức
đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp.
Từ các khái niệm trên, nếu tiếp cận theo góc độ mua bán tài sản có thể định
nghĩa về mua bán doanh nghiệp như sau:


8

Mua bán doanh nghiệp là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có
nghĩa vụ chuyển giao toàn bộ doanh nghiệp (gồm có tài sản, các quyền và nghĩa vụ
của doanh nghiệp) cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận toàn
bộ doanh nghiệp (tài sản, quyền và nghĩa vụ) và trả tiền cho bên bán. Việc mua bán
này có thể diễn ra một cách trực tiếp khi bên mua trở thành người sở hữu toàn bộ
tài sản liên quan đến công ty đã bán hoặc cũng có thể qua hình thức gián tiếp thông
qua việc kiểm soát, quản lý mọi hoạt động của công ty bị mua hoặc mua một số
lượng lớn cổ phần để giành quyền quản lý hoạt động của công ty đó.
Trong khái niệm này, thoả thuận là cơ sở của quan hệ mua bán giữa các bên;
đối tượng của quan hệ mua bán là doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ tài sản, các
quyền nghĩa vụ khác của doanh nghiệp. Xét ở khía cạnh hình thức, quan hệ mua
bán doanh nghiệp cũng giống nh một quan hệ chuyển nhượng tài sản đơn thuần.
Xét dưới khía cạnh pháp lý, hiện tại, pháp luật Việt Nam cũng chỉ mới dừng lại ở
quan điểm cho rằng quan hệ mua bán doanh nghiệp cũng tương tự như các quan hệ

mua bán tài sản khác. Bởi vì, theo quy định của pháp luật về mua bán doanh
nghiệp tư nhân và mua bán công ty nhà nước, sau khi mua lại doanh nghiệp chủ sở
hữu doanh nghiệp mới phải tiến hành đăng ký kinh doanh lại. Vì vậy, nếu chỉ dừng
lại ở mục đích mua khối tài sản doanh nghiệp thì bản chất của mua bán doanh
nghiệp “là sự chuyển nhượng tài sản doanh nghiệp mà không chuyển nhượng tư
cách pháp lý của doanh nghiệp được bán”. Tuy nhiên, xét về chủ thể tham gia quan
hệ - là chủ doanh nghiệp, đối tượng của quan hệ là doanh nghiệp và mục đích của
việc mua bán là tìm kiếm lợi nhuận hay mua lại doanh nghiệp để tiếp tục kinh
doanh thì quan hệ mua bán doanh nghiệp lại có bản chất thương mại sâu sắc.
Theo Luật doanh nghiệp (2014), một doanh nghiệp có thể được thành lập
thông qua hình thức góp vốn, đó cũng là cách thức để một cá nhân, tổ chức trở
thành chủ sở hữu của doanh nghiệp (khoản 13 điều 4 Luật doanh nghiệp 2014). Do
đó, doanh nghiệp là một thực thể đặc biệt do pháp luật tạo ra, thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật doanh nghiệp, đồng thời là một tài sản của chủ sở hữu doanh
nghiệp, đương nhiên chủ sở hữu doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt đối với tài


9

sản đó, có thể kinh doanh độc lập bằng toàn bộ tài sản, hay chia sẻ rủi ro và một
phần trách nhiệm cùng người khác bằng cách kêu gọi ngời góp vốn để trở thành
chủ sở hữu chung, cũng hoàn toàn có thể bán tài sản đó bằng cách chuyển nhợng
toàn bộ quyền sở hữu của mình cho ngời khác để kiếm lời, để giải quyết tình trạng
khó khăn của doanh nghiệp. Khi đó việc bán doanh nghiệp chính là sự thay đổi chủ
sở hữu của doanh nghiệp. Hơn nữa, trong quan hệ mua bán doanh nghiệp cùng với
sự tham gia của thương nhân (chủ doanh nghiệp), nếu như có thêm mục đích mua,
bán doanh nghiệp để kiểm lời thì mua bán doanh nghiệp lại mang bản chất của
hoạt động thương mại. Bởi vì, theo khoản 1 điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì
“hoạt động thương mại là nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích

sinh lợi khác”.
Bằng vào những lý luận và quy định thực tiễn của pháp luật trên đây, có thể
rút ra một định nghĩa khái quát về hoạt động mua bán doanh nghiệp như sau: Mua
bán doanh nghiệp là hoạt động thương mại nhằm chuyển đổi sở hữu toàn bộ
doanh nghiệp từ chủ sở hữu doanh nghiệp này sang chủ sở hữu doanh nghiệp khác
trên cơ sở thoả thuận giữa các bên thông qua một hợp đồng mua bán doanh
nghiệp.
Theo Luật Doanh nghiệp (2014) và Luật Thương mại (2005), sau khi việc
mua bán doanh nghiệp hoàn thành, chủ sở hữu mới có quyền khai thác các đặc tính
thương mại của doanh nghiệp, trong đó có các tài sản thương mại như: tên thương
hiệu, sáng chế, hệ thống khách hàng của doanh nghiệp, nói cách khác là có quyền
kinh doanh trên nền tảng của doanh nghiệp mua được. Tuy nhiên, điều cần phải
quan tâm nhất là chủ doanh nghiệp mới bắt buộc hay không bắt buộc phải đăng kí
kinh doanh lại như đối với mua bán doanh nghiệp tư nhân hay công ty nhà nước.
Nếu không phải đăng ký kinh doanh lại từ đầu, chủ doanh nghiệp mới này chỉ cần
tiến hành thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Nhiều quan điểm cho
rằng, chỉ cần thay đổi nội dung đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp để có thể vận
hành một vòng quay kinh doanh mới của doanh nghiệp, bởi lẽ đây có thể coi là


10

việc làm tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp có thể nhanh chóng đi vào sản
xuất kinh doanh. Mặc dù vậy, riêng đối với trường hợp doanh nghiệp tư nhân, có
thể nói, quy định đăng ký kinh doanh lại chính là công cụ bảo vệ quyền lợi cho chủ
doanh nghiệp tư nhân mới, bởi vì theo quy định của Luật Doanh nghiệp, chủ doanh
nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ của doanh nghiệp do
đó nếu không đăng ký kinh doanh lại, dẫn tới tình trạng có những khoản nợ không
được kê khai khi mua bán sẽ trở thành nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp mới.
1.1.2. Những đặc trưng của hoạt động mua bán doanh nghiệp

Thứ nhất, hầu hết các vụ mua bán đều được diễn ra giữa các công ty của các
nước đang phát triển và việc điều tiết hoạt động mua bán doanh nghiệp không chỉ
bằng luật cạnh tranh mà còn điều chỉnh bởi các tiền lệ.
Thứ hai, hoạt động mua bán doanh nghiệp diễn ra chủ yếu theo chu kì
phát triển kinh tế, mà không chịu nhiều ảnh hưởng từ những thay đổi khuôn khổ
pháp luật.
Thứ ba, các thương vụ mua bán thường chỉ tập trung vào một số lĩnh vực
như tài chính, ngân hàng, dầu khí, dược phẩm, công nghệ thông tin; ở các ngành
khác ít diễn ra các vụ mua bán lớn. Ngoài ra, cùng với mua bán là xu hướng phân
tán đầu tư, bởi ở đó các công ty tìm kiếm những lĩnh vực có tiềm năng phát triển
mạnh hơn ngoài lĩnh vực kinh doanh chủ lực của mình.
Thứ tư, mục tiêu cuối cùng của các thương vụ mua bán đều nhằm mục đích
tạo ra sự cộng hưởng và nâng cao giá trị của các bên
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp
● Đối với doanh nghiệp:
Việc mua bán doanh nghiệp đưa lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Nó
không chỉ giúp các doanh nghiệp lớn giảm các chi phí đầu tư, giúp các doanh
nghiệp yếu kém thoát khỏi nguy cơ phá sản và còn giúp doanh nghiệp mới tạo ra


11

sau thương vụ mua bán doanh nghiệp có đầy đủ các tiềm lực và thuận lợi để phát
triển lớn mạnh và đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị trường
- Về hiệu quả kinh tế: Hiệu quả này thu được từ hoạt động mua lại doanh
nghiệp để phát triển sản xuất chủ yếu xuất phát từ lợi thế của sản xuất quy mô lớn.
Vì việc mua lại dẫn đến quy mô sản xuất của doanh nghiệp phát triển, trong khi
các chi phí cố định hoặc giảm xuống hoặc không tăng lên cùng quy mô này nên
hiệu quả sản xuất nhờ đó được nâng cao. Mặt khác, khi quy mô sản xuất lớn được
triển khai hoạt động sẽ đem lại sự cộng hưởng. Sự cộng hưởng là hoạt động phối

hợp đem lại tổng hiệu quả toàn bộ lớn hơn tổng các hiệu quả riêng rẽ.
- Về hiệu quả tài chính: Hiệu quả tài chính qua các giao dịch mua lại có thể
là nguồn lợi nhuận kì vọng hoặc có thể đem lại những khoản tiết kiệm như sự giảm
thuế, giảm chi phí phát hành chứng khoán mới, tăng khả năng huy động vốn vay,
giảm chi phí sử dụng vốn. Một doanh nghiệp bị thua lỗ không thể khấu trừ những
khoản lỗ đó vào thuế. Tuy nhiên, trong phạm vi cho phép thì công ty mua lại công
ty thua lỗ đó được phép khấu trừ khoản lỗ vào lợi nhuận của công ty vừa mua
trong năm tiếp theo và được hưởng phần lợi nhuận do giảm thuế. Hơn nữa, việc
mua lại một công ty khác thì vị thế tín dụng của nó sẽ cao hơn bởi thu nhập của
công ty sau khi mua lại thường lớn hơn. Nhờ đó làm tăng khả năng vay mượn, các
chi phí phải trả lãi tăng lên và dẫn đến giảm thuế thu nhập phải nộp, khoản tiết
kiệm này cũng được coi là lợi nhuận thực tế
- Về động lực phát triển của doanh nghiệp: Phát triển là mục tiêu quan trọng
của doanh nghiệp, sự phát triển bên trong của bản thân doanh nghiệp là một quá
trình phức tạp bởi doanh nghiệp cần đầu tư mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, xây
dựng nhà xưởng, đào tạo nhân công, tìm thị trường tiêu thụ... cần có thời gian
chuẩn bị và đầu tư sức người, sức của chi nên trong nhiều trường hợp, việc mua
một công ty khác là một việc làm đem lại hiệu quả cao và tốn ít thời gian để phát
triển doanh nghiệp


12

- Đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh làm giảm rủi ro của các doanh
nghiệp. Bởi vậy, việc mua một doanh nghiệp không cùng tuyến sản phẩm (kết hợp
theo phương thức liên ngành) sẽ đem lại cho doanh nghiệp một nguồn thu nhập ổn
định hơn. Đó là chưa kể đến việc đa dạng hóa đầu tư còn có thể giúp nâng cao tỷ
suất sinh lợi của doanh nghiệp và mang lại cho cổ đông nhiều lợi nhuận hơn.
● Đối với các nhà đầu tư:
Việc mua bán doanh nghiệp là một cách thức hiệu quả để họ bước vào thị

trường một cách nhanh chóng mà không cần mất thời gian để tìm kiếm một dự án
hay làm các thủ tục hành chính.
● Đối với nền kinh tế:
- Hoạt động mua bán doanh nghiệp không chỉ có vai trò tái cấu trúc lại
doanh nghiệp mà còn tái cấu trúc nền kinh tế, những doanh nghiệp yếu kém sẽ bị
đào thải, hoặc được hoạt động một cách hiệu quả hơn, do đó, đối với nền kinh tế
không những nâng cao năng lực sản xuất mà còn giúp tiết kiệm nhiều chi phí.
- Hoạt động mua bán doanh nghiệp xuyên quốc gia cũng là một hình thức
đầu tư trực tiếp FDI, cũng có những vai trò đối với sự phát triển của nền kinh tế
như: gia tăng nguồn vốn cho nền kinh tế; chuyển giao công nghệ, kĩ thuật, nâng
cao trình độ quản lý, văn hóa doanh nghiệp.
1.2. Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Điều đầu tiên cần lưu ý ở đây là không tồn tại loại hợp đồng có tên là “hợp
đồng mua bán doanh nghiệp” mà thuật ngữ “hợp đồng mua bán doanh nghiệp”
được dùng để chỉ hợp đồng chính được kí kết trong giao dịch mua lại doanh
nghiệp. Đây là hợp đồng chính, là văn bản ghi nhận ý chí cuối cùng của các bên
trong giao dịch với “các thỏa thuận trong giao dịch mua bán doanh nghiệp”, bởi
trong giao dịch mua bán doanh nghiệp có rất nhiều hợp đồng, thỏa thuận (ví dụ
như: thỏa thuận nguyên tắc, thỏa thuận không tiết lộ và không cạnh tranh...).
1.2.1. Bản chất pháp lý của hợp đồng mua lại doanh nghiệp


13

Nghiên cứu bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán doanh nghiệp nhằm giải
quyết vấn đề: đây là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại, để xác định luật
điều chỉnh hợp đồng này là Bộ luật dân sự hay Luật Thương mại và để xác định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp là của Tòa án hay Trọng tài thương mại.
Có thể chia hợp đồng mua bán doanh nghiệp (xếp theo thứ tự mực độ phổ
biến trong thực tiễn kí kết) thành: (i) hợp đồng mua bán/chuyển nhượng cổ

phần/phần vốn góp (với điều kiện cổ phần/phần vốn góp này phải đủ để chiếm
được trên 50% quyền bỏ phiếu tại cơ quan quyết định cao nhất của doanh nghiệp
bị mua lại); (ii) hợp đồng mua bán tài sản (với điều kiện tài sản này phải đủ kiểm
soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại); (iii) hợp
đồng mua bán doanh nghiệp.
Các hợp đồng kể trên đều là hợp đồng mua bán, hợp đồng chuyển giao
quyền sở hữu tài sản có đền bù - là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và nhận tiền,
còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
Luật Thương mại (2005) định nghĩa: “Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (khoản 1 điều 3)
và “Hàng hóa bào gồm: a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành
trong tương lai; b) Những vật gắn liền với đất đai”.
Theo tác giả, việc mua bán doanh nghiệp đều là những hoạt động đầu tư,
những hoạt động thương mại vì chúng đáp ứng được các yêu cầu về chủ thể (chủ
thể của hành vi là thương nhân), về mục đích (nhằm mục đích sinh lời – có thể
nhằm mục đích sinh lời trực tiếp thông qua việc mua rồi bán lại doanh nghiệp hoặc
đây là hành vi thương mại phụ thuộc). Như vậy, tranh chấp liên quan đến các hợp
đồng mua bán doanh nghiệp bên cạnh đưa ra giải quyết tại Tòa kinh tế thì cũng có
thể được đưa ra giải quyết tại Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, trong điều khoản vi


14

phạm hợp đồng phải căn cứ Bộ luật dân sự (2005) (là do các bên thỏa thuận) chứ
không phải căn cứ Luật Thương mại.
1.2.2. Khái niệm về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Từ khái niệm của hợp đồng dân sự và bản chất của hợp đồng mua bán doanh
nghiệp vừa tìm hiểu ở trên, ta có thể rút ra khái niệm về hợp đồng mua bán doanh

nghiệp như sau: “Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó, bên bán doanh nghiệp có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu doanh
nghiệp cho bên mua và nhận tiền; còn người mua có nghĩa vụ trả tiền và tiếp nhận
doanh nghiệp, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đó theo quy định
của pháp luật, cũng như theo thỏa thuận được ghi trong hợp đồng”.
1.2.3. Những đặc trưng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một loại hợp đồng, bởi vậy nó mang đầy
đủ các đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự. Đó là sự thỏa thuận giữa các bên và
làm phát sinh hậu quả pháp lý. Hợp đồng dân sự trước hết phải là một thỏa thuận
có nghĩa là hợp đồng phải chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự
trùng hợp ý chí của các bên. Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự
do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Yếu
tố thỏa thuận đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự thống nhất
về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp đồng so
với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản chất của luật dân sự
so với các ngành luật khác. Về chủ thể tham gia hợp đồng dân sự: Chủ thể giao kết,
thực hiện hợp đồng dân sự phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng dân sự là
một giao dịch pháp lý song phương hay đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực
hiện hợp đồng đều phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng các điều kiện theo
quy định của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ: nếu chủ thể
là cá nhân thì phải đáp ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng lực hành
vi dân sự…). Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập


15

thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo quy định của pháp luật hiện
hành thì không liệt kê cụ thể các quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể đó, tuy nhiên về
bản chất thì các quyền và nghĩa vụ mà các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện

hợp đồng là những quyền và nghĩa vụ để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh
hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt
giữa hợp đồng dân sự và các hợp đồng kinh tế, thương mại. Yếu tố này giúp phân
biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng kinh tế. Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng
mua bán doanh nghiệp có những đặc điểm chung của hợp đồng, đó là:
- Là hợp đồng ưng thuận: hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng ưng thuận,
do đó, hợp đồng mua bán doanh nghiệp cũng là hợp đồng ưng thuận. Theo đó,
quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua sẽ phát sinh ngay sau khi các bên đã
hoàn tất thỏa thuận với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng - được đánh
dấu bằng sự ưng thuận giao kết hợp đồng của các bên, đồng thời xác định hiệu lực
của hợp đồng tại thời điểm giao kết đó.
- Là hợp đồng có đền bù: Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là hợp đồng
trong đó mỗi bên chủ thể sau khi thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được lại
một lợi ích tương ứng. Cụ thể là bên bán nhận được tiền thanh toán của bên mua
tương ứng với giá trị doanh nghiệp đã thỏa thuận; còn bên mua nhận được quyền
sở hữu, quản lý cũng như các tài sản của doanh nghiệp trên thực tế. Cả hai bên đều
hướng tới lợi ích nhất định khi tham gia vào quan hệ mua bán này.
- Là hợp đồng song vụ: trong quan hệ mua bán giữa các bên, quyền của bên
mua tương ứng với nghĩa vụ của bên bán và ngược lại. Trong hợp đồng mua bán
doanh nghiệp thì bên bán nhận được tiền thanh toán của bên mua, đồng thời có
trách nhiệm bảo đảm quyền sở hữu, định đoat đối với doanh nghiệp; từ đó có nghĩa
vụ chuyển giao quyền sở hữu, định đoạt đó cho bên mua để bên mua trở thành chủ
sở hữu tiếp tục quản lý doanh nghiệp. Bên mua có các quyền và nghĩa vụ tương
ứng với các nghĩa vụ và quyền của bên bán. Khẳng định hợp đồng mua bán doanh
nghiệp là hợp đồng song vụ có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ giữa các bên,
xác định hành vi vi phạm hợp đồng và trách nhiệm của hành vi vi phạm này. Cách


16


thức thực hiện hợp đồng song vụ được quy định từ điều 414 đến điều 418 Bộ luật
Dân sự.
- Là hợp đồng có mục đích chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp: mục
đích của việc mua bán doanh nghiệp là để bên mua nắm quyền kiểm soát, sở hữu
đối với doanh nghiệp, từ đó tiến hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh những đặc điểm chung, hợp đồng mua bán doanh nghiệp còn có
những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, mục đích của việc mua bán doanh nghiệp trong hợp đồng doanh
nghiệp là nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh với tư cách của doanh nghiệp
mua lại. Điều này khác với việc mua một phần hoặc mua toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp. Bởi vì, mục đích của việc mua bán tài sản doanh nghiệp chỉ nhằm hướng
đến một số lượng tài sản, quyền tài sản nhất định để có thể thực hiện quyền quản lý
và kiểm soát đối với doanh nghiệp bán tài sản. Việc bán một phần hoặc toàn bộ tài
sản của doanh nghiệp chỉ nhằm xác lập quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp cho bên
mua. Còn doanh nghiệp bán tài sản vẫn phải tiếp tục thực hiện các trách nhiệm
pháp lý và hoạt động kinh doanh với tư cách của doanh nghiệp mình. Trong khi đó,
ở hợp đồng mua bán doanh nghiệp, tư cách để tiến hành hoạt động kinh doanh sẽ
được chuyển sang cho bên mua lại doanh nghiệp. Bên mua lại doanh nghiệp còn
phải nhân danh doanh nghiệp của mình để giải quyết các vấn đề pháp lý do doanh
nghiệp bán để lại.
Thứ hai, đối với hợp đồng mua bán doanh nghiệp, quyền sở hữu doanh
nghiệp sẽ được chuyển từ tổ chức, cá nhân này sang tổ chức, cá nhân khác. Bên mua
lại doanh nghiệp không chỉ sở hữu tài sản hay cổ phiếu của doanh nghiệp bán mà
còn sở hữu các giá trị tài sản vô hình hay hữu hình và cả tư cách chủ thể kinh doanh.
Đặc điểm này cũng làm cho hợp đồng mua bán doanh nghiệp khác với hợp
đồng cho thuê doanh nghiệp. Ở hợp đồng mua bán doanh nghiệp, bên mua sẽ được
chuyển giao quyền sở hữu toàn bộ doanh nghiệp. Sau khi thực hiện việc chuyển giao
này, bên mua lại doanh nghiệp có toàn quyền quyết định đối với doanh nghiệp đó



17

mà không cần thông qua quyết định của doanh nghiệp bán. Nhưng đối với hợp đồng
cho thuê doanh nghiệp, bên nhận thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản và lao động
trong doanh nghiệp theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê.
Thứ ba, giá trị của hợp đồng chính là giá trị của doanh nghiệp. Giá trị đó bao
gồm các tài sản hữu hình, những giá trị tài sản vô hình, lợi thế kinh doanh, mạng
lưới phân phối, khách hàng ... Vì vậy, việc xác định giá trị doanh nghiệp trong hợp
đồng mua bán doanh nghiệp tương đối phức tạp. Trong khi việc xác định giá trị
trong các hợp đồng mua bán tài sản hay mua cổ phần thì chủ yếu dựa vào những
giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp.
Thứ tư, chủ thể của hợp đồng mua bán doanh nghiệp phải là các tổ chức, cá
nhân không thuộc một trong các trường hợp nhà nước cấm quyền kinh doanh, tức
là không bị cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện
hành. Trong khi ở hợp đồng mua bán tài sản doanh nghiệp, chủ thể tham gia không
bị hạn chế nhiều, miễn là các tổ chức, các nhân có đủ năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự.
Thứ năm, hợp đồng mua bán doanh nghiệp thường được xác lập bằng văn
bản. Bởi lẽ, không giống như mua bán hàng hóa, tài sản thông thường, mua bán
doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc chuyển tiền và giao hàng hóa, mà hai bên
còn phải giải quyết hàng loạt vấn đề hậu mua bán doanh nghiệp. Do tính phức tạp
như vậy nên hợp đồng mua bán doanh nghiệp thường được xác lập bằng văn bản
và quy định những nội dung ràng buộc các bên. Việc xác lập hợp đồng bằng văn
bản là cơ sở để tiến hành đăng kí mã số thuế, xác định phần sở hữu của doanh
nghiệp, thương hiệu của doanh nghiệp bị mua lại.
Thứ sáu, đối với hợp đồng mua bán doanh nghiệp sau khi chuyển quyền sở
hữu thì bên bán vẫn có nghĩa vụ phối hợp với doanh nghiệp mua lại để đảm bảo
quyền quản lý của doanh nghiệp, nghĩa là không có những hành vi lôi kéo cổ đông
nhằm cản trở doanh nghiệp mua lại thực hiện quyền quản lý của mình.



18

1.2.4. Nội dung của hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Nội dung trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp sẽ ghi nhận sự dịch chuyển
từ thực thể pháp lý này sang thực thể pháp lý khác. Hợp đồng mua bán doanh
nghiệp chính là cơ sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
mua bán và cũng là cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình
các bên thực hiện hợp đồng. Đối với hợp đồng mua bán doanh nghiệp, việc giống
nhau về mặt nội dung thể hiện trong hợp đồng là điều không thể vì mỗi doanh
nghiệp là một thực thể kinh doanh với đầy đủ các nhân tố riêng như chế độ quản
trị, nguồn nhân lực, văn hóa doanh nghiệp, lĩnh vực kinh doanh... Hơn nữa, các
doanh nghiệp trong mỗi thương vụ mua bán doanh nghiệp đều có những nét khác
biệt đặc biệt về yêu cầu, lợi ích, sự ràng buộc, bởi vậy, không thể có mẫu hợp đồng
chung cho tất cả các giao dịch mua bán doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù nội dung bên
trong có khác nhau trong từng trường hợp cụ thể nhưng một hợp đồng mua bán
doanh nghiệp bao giờ cũng phải đảm bảo các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
quy định tại Bộ luật dân sự và bao gồm các nội dung cấu thành cơ bản như: (i) Chủ
thể tham gia hợp đồng mua bán doanh nghiệp; (ii) Đối tượng của hợp đồng mua
bán doanh nghiệp; (iii) Hình thức pháp lý của hợp đồng mua bán doanh nghiệp;
(iii) Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp; (iv) Quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên khi tham gia hợp đồng mua bán doanh nghiệp; (v) Điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng mua bán doanh nghiệp và các trường hợp hợp đồng vô
hiệu; (vi) Điều khoản ràng buộc trách nhiệm và thời hạn thực hiện hợp đồng mua
bán doanh nghiệp; (vii) Trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng mua bán doanh
nghiệp.
1.3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Quan hệ hợp đồng mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam được điều chỉnh bởi
một hệ thống văn bản pháp luật đồ sộ, trong đó phải kể đến:
● Các văn bản luật



19

♦ Bộ luật Dân sự (2005): Những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng nói
chung được quy định trong Bộ luật Dân sự, theo đó hợp đồng mua bán doanh
nghiệp cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của văn bản này về những vấn đề cơ
bản của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, hệ quả pháp lý của hợp
đồng vô hiệu v.v..
♦ Luật doanh nghiệp (2014): Luật doanh nghiệp (2014) đã tạo điều kiện
pháp lý cho các công ty được quyền tự do chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần
để thâu tóm quyền sở hữu hoặc tham gia quản lý công ty. Phần cổ phần, vốn góp
đã trở thành “hàng hóa”có thể chuyển nhượng tự do, đơn giản và hợp pháp. Đây
cũng là cơ sở để các bên xác định tư cách pháp lý của người tham gia kí kết hợp
đồng có phù hợp với quy định của pháp luật hay không.
Với vai trò tổ chức và thiết lập mô hình hoạt động cho các loại hình doanh
nghiệp, Luật Doanh nghiệp có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến sáp nhập,
hợp nhất và mua lại doanh nghiệp. Các quy định trong Luật Doanh nghiệp có thể
được sử dụng làm căn cứ pháp lý để làm rõ khái niệm và phạm vi của các hoạt
động tập trung kinh tế.
♦ Luật Canh tranh (2004): mua bán doanh nghiệp được xem như một hình
thức tập trung kinh tế được quy định tại điều 16 và khoản 3 điều 17 Luật Cạnh
tranh (2004). Về bản chất pháp lý, theo Luật Cạnh tranh (2004) thì mua lại doanh
nghiệp là hình thức tập trung kinh tế bằng biện pháp thiết lập quan hệ sở hữu giữa
doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại. Việc mua lại không phải là quá
trình thống nhất về tổ chức giữa hai doanh nghiệp nói trên. Sau khi mua lại, doanh
nghiệp nắm quyền sở hữu có thể thực hiện việc sáp nhập hoặc không. Nếu thực
hiện việc sáp nhập thì sự thống nhất về tổ chức là kết quả của hoạt động sáp nhập
và việc mua lại chỉ là tiền đề để có được quyết định sáp nhập. Khi các doanh
nghiệp tham gia đang hoạt động trên cùng một thị trường liên quan thì việc mua lại

đã làm cho quan hệ cạnh tranh giữa họ không còn tồn tại. Các ngưỡng gây hạn chế
cạnh tranh: Luật Cạnh tranh sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm tập trung
kinh tế và là tiêu chí duy nhất để xác định cách thức xử lý. Theo Khoản 5 Điều 3


20

Luật Cạnh tranh (2004) quy định: “Thị phần của doanh nghiệp đôi với một loại
hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh
nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá
dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào
của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm”.
Tiếp đó Luật Cạnh tranh cũng định nghĩa thị phần kết hợp là “tổng thị phần trên thị
trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
hoặc tập trung kinh tế”.
Điều 18 Luật Cạnh tranh cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các
doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan.
Ở trường hợp này, việc sáp nhập, hợp nhất hoặc mua lại đã hình thành một doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị trường liên quan
và làm cho các doanh nghiệp còn lại chỉ là thiểu số trên thị trường, tạo nên sự thay
đổi về cơ bản, đột ngột trong tương quan cạnh tranh và cấu trúc cạnh tranh trên thị
trường. Do đó những trường hợp trên luôn bị xem là làm giảm, làm cản trở và sai
lệch cạnh tranh một cách đáng kể. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ, đó là sau khi tập
trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật
và có thể được xem xét miễn trừ, cụ thể: (i) Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung
kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thế hoặc lâm vào tình trạng phá sản (thẩm quyền
xem xét quyết định thuộc Bộ trưởng Bộ công thương); (ii) Việc tập trung kinh tế có
tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ (do Thủ tướng Chính phủ quyết định).

Khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chỉ chiếm dưới 30%
trên thị trường liên quan thì sự tập trung kinh tế chưa có khả năng tạo ra vị trí
thống lĩnh cho doanh nghiệp hình thành sau khi tập trung. Lúc này, việc sáp nhập
hợp nhất hay mua lại chỉ là các biện pháp cơ cấu lại kinh doanh hoặc đầu tư vốn
bình thường nên chưa chứa đựng những nguy cơ đe dọa đến trật tự cạnh tranh của
thị trường.


×