TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ - THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NHẬT VIỆT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT THƯƠNG MẠI
Giáo viên hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Thái Trường
Bộ môn : Luật chuyên ngành
Sinh viên thực hiện:
Lưu Thị Minh Trang
Lớp: K47P2
HÀ NỘI, 2015
TÓM LƯỢC
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực
hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Đồng thời, hoạt động mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị… đã
giúp cho các mối quan hệ về kinh tế, dân sự, thương mại phát triển đa dạng và không
ngừng tăng thêm về số lượng cũng như chất lượng của các hợp đồng. Để tạo ra môi
trường pháp lý ổn định, bảo đảm an toàn pháp lý cho các cá nhân và tổ chức khi tham
gia quan hệ hợp đồng thì cần phải bảo đảm bằng một hệ thống pháp luật, trong đó bao
gồm các quy định pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói
riêng. Nội dung cơ bản của khóa luận được tóm lược như sau: Chương 1 khóa luận
nghiên cứu một cách chi tiết về khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Từ các phân tích về hợp đồng mua bán hàng hóa, khóa luận cũng làm rõ được vai trò
của nó đối với nền kinh tế xã hội. Đối với chương 2, khóa luận tập trung đánh giá về
thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa. Qua đó rút ra được
những khó khăn trong việc áp dụng và thi hành các quy định pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa của các doanh nghiệp. Sau khi đánh giá thực trạng về việc áp dụng
pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa, khóa luận cũng đã nghiên cứu một cách chi tiết
và đưa ra được các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài, tác giả đã có một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và
học tập nghiêm túc để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp của mình. Đầu tiên, tác giả
xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn – ThS.
Nguyễn Thái Trường đã nhiệt tình hướng dẫn để tác giả có thể hoàn thành bài khóa
luận tốt nghiệp của mình.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu Nhà trường, Khoa Kinh tế - Luật, các Thầy giáo, Cô
giáo trường Đại học Thương Mại đã truyền đạt những kiến thức pháp luật quý báu
đồng thời tạo điều kiện giúp tác giả có thể hoàn thành chương trình học Đại học và hỗ
trợ sự nghiệp của mình sau này
Xin cảm ơn Giám đốc và các nhân viên trong Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhật
Việt đã tận tình chỉ bảo và cho phép tác giả được thực tập tại đó cũng như cung cấp
những số liệu, thông tin cần thiết để giúp tác giả hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp
này
Tuy nhiên, do trình độ kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên
bài khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được ý
kiến đóng góp từ các thầy giáo, cô giáo để bài khóa luận được hoàn thiện hơn nữa.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên
Lưu Thị Minh Trang
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
CISG : Công ước viên 1980
LTM : Luật thương mại
PL HĐKT : Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
PICC : Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của
UNIDROIT năm 2004
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO năm
2007, luật pháp Việt Nam đã có những thay đổi căn bản nhằm thu hẹp khoảng cách
giữa phap luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài, tạo sân chơi bình đẳng cho các bên
tham gia vào hoạt động thương mại tại Việt Nam. Quốc hội Việt Nam đã thông qua
nhiều đạo luật mới trong đó có Bộ luật dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 thay thế
cho Bộ luật dân sự và luật thương mại cũ đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế. Đây được xem là sự thay đổi lớn và cần thiết với hệ thống pháp luật
Việt Nam nói chung và pháp luật về hợp đồng nói riêng.
Như chúng ta đã thấy, trong đời sống xã hội, hợp đồng là một hình thức thiết lập
quan hệ giữa người với người. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã
chứng minh đó là một hình thức pháp lý thích hợp và hiệu quả. Khi nền kinh tế phát
triển thì việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng ngày càng cần thiết và hoàn
thiện. Mua bán hàng hoá là hoạt động chính trong hoạt động thương mại, là cầu nối
giữa sản xuất và tiêu dùng và không chỉ giới hạn ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn mở
rộng ra cả các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. Khi hai bên tiến hành mua bán
hàng hoá với nhau thì nảy sinh một hình thức được hai bên ký kết có thể bằng miệng,
bằng văn bản, bằng email, fax… mà người ta gọi là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp
đồng mua bán hàng hoá rất phong phú, được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật và khá
phổ biến trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Trong hệ
thống pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể về sự điều chỉnh quan hệ hợp
đồng ngay từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, tiếp đến là Bộ luật Dân sự (BLDS)
1995, Luật Thương mại (LTM) 1997… và cho đến nay là hai văn bản pháp luật mới
được ban hành BLDS 2005 và LTM 2005.
Như vậy, có thể nói hợp đồng mua bán hàng hoá là một nội dung không thể thiếu
trong hoạt động kinh doanh. Việc nắm vững, hiểu rõ các quy định của pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hoá sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện hợp đồng
được thuận lợi, an toàn và hiệu quả, tránh các tranh chấp, rủi ro đáng tiếc. Khi đến thực
tập tại công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Nhật Việt, vấn đề ký kết và thực hiện hợp
đồng của công ty đã thu hút sự quan tâm của tác giả, trong đó hợp đồng mua bán hàng
hoá chiếm tới 80% tổng số các loại hợp đồng tại Công ty. Việc ký kết, thực hiện hợp
đồng phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt mối quan
hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần tăng cường hiệu
5
quả quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế. Do nhận thức được vai trò to lớn
của hợp đồng mua bán hàng hóa, nên việc tìm hiểu pháp luật hợp đồng là điều cần thiết
đối với công ty. Hơn nữa, thực tiễn việc áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa tại công ty còn nhiều hạn chế và cần nhiều giải pháp giúp công ty cải thiện trong
quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng. Vì vậy, việc nghiên cứu áp dụng pháp luật hợp
đồng trên khía cạnh giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty trách
nhiệm hữu hạn Nhật Việt là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa với riêng công ty mà còn
đối với nhiều doanh nghiệp khác. Đây chính là lý do khiến tác giả lựa chọn đề tài:
"Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại công ty Trách
nhiệm hữu hạn Nhật Việt" để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Từ trước đến nay đã có rất nhiều các công trình tiêu biểu nghiên cứu về pháp luật
hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng.
Như chúng ta đã biết, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa được hình thành và
phát triển với các quy định tại Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, sau đó là BLDS
năm 1995, LTM năm 1997 và hai văn bản pháp luật hiện hành là LTM 2005 và BLDS
2005. Vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, dưới những góc độ khác nhau.
Trên thực tế đã có nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về các đề tài
liên quan đến hợp đồng, như :
- Luận văn Thạc sỹ “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài - Kinh nghiệm so sánh với luật Trung Quốc và những định hướng
hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam” của tác giả Trương Thị Bích, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài và phân
tích một cách có hệ thống về thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Đồng thời, luận văn còn so sánh
pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài.Từ thực tiễn ấy luận văn đề xuất các kiến nghị hoàn thiện
cho pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài.
- Luận văn Thạc sỹ “Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”
của tác giả Nguyễn Thị Hường, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010 đã nghiên
cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền tự do giao kết hợp đồng. Bên cạnh đó, luận
6
văn còn phân tích những khía cạnh cơ bản của nguyên tắc quyền tự do giao kết hợp
đồng và các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này và đề xuất những kiến nghị cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về tự do giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
- Bài viết “Hợp đồng: thuật ngữ và khái niệm” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh
được đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 08/2006. Bài viết nói về vấn đề xác
định các thuật ngữ liên quan đến hợp đồng. Thêm vào đó, bài viết cũng đưa ra hai yếu
tố: sự thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý. Hợp đồng thương mại không
được hình thành nếu không có sự thỏa thuận giữa các bên hoặc nếu sự thỏa thuận
không nhằm mục đích tạo lập hệ quả pháp lý, tức làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân
sự. Tuy nhiên bài viết mới chỉ sơ lược về những yếu tố có liên quan, mà chưa đi cụ thể
từng vấn đề có liên quan, nhất là vấn đề quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia
hợp đồng thương mại.
Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ nghiên cứu hợp đồng ở một số khía cạnh,
lĩnh vực nào đó mà chưa luận giải một cách đầy đủ. Vì vậy bài khóa luận này sẽ đi sâu
phân tích cụ thể vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng theo luật hiện hành và áp dụng cụ
thể vào công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhật Việt. Từ đó, chỉ ra các bất cập và đưa ra giải
pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
- Phân tích thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa tại Việt Nam
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại
công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhật Việt.
- Phát hiện các điểm mạnh cần phát huy và hạn chế cần khắc phục
- Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc ký kết và
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty trách nhiệm hữu hạn Nhật
Việt nói riêng và với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận chung về một số khía
cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa trong luật Thương Mại 2005
và các văn bản khác có liên quan, thực trạng các quy phạm pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa tại Việt Nam. Từ đó phân tích thực tiễn thực hiện những điều khoản này
tại Công ty TNHH Nhật Việt. Bên cạnh đó, khóa luận tập trung nghiên cứu hướng giải
quyết hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật về những yếu tố nêu trên và đưa
7
ra các hướng giải pháp về những vấn đề còn vướng mắc, nhằm giúp doanh nghiệp chủ
động hơn, tự tin phát triển bản thân doanh nghiệp mình.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của đề tài: Thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát thực
trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa tại
doanh nghiệp, để có thể:
- Tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa giữa các bên
- Nêu ra thực trạng thi hành các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và
đánh giá thực trạng đó
- Lập luận đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật cũng như tính
hiệu quả của hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh của doanh nghiệp.
4.3 Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa kể từ
khi Bộ luật dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 ban hành cho đến nay.
- Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ các vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán
hàng hóa tại Việt Nam, nghiên cứu điển hình tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhật
Việt.
- Khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu các quy định của pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa và các vấn đề lý luận, thực tiễn trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và pháp lý liên quan đến các qui định về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa.
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phương pháp
tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp logic… Dưới đây
là hai phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp thu thập thông tin: Mục đích của việc thu thập thông tin là làm cơ sở lý
luận khoa học hay luận cứ để đi sâu vào vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa.
+ Thu thập các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu tổng quan
quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa
8
nói riêng như: LTM 2005, BLDS 2005, các văn bản pháp luật có liên quan từ đó đưa ra
một số nội dung pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Thu thập sổ sách, số liệu có liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa trong công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhật Việt để làm rõ thực trạng áp dụng
pháp luật hợp đồng trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
tại công ty
-Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập được, người viết phân tích đánh giá nội dung
các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực trạng áp dụng
chúng trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty Trách nhiệm
hữu hạn Nhật Việt.
Từ những kết quả đã phân tích, tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn, tìm
ra được bản chất, quy luật vận động của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và
đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Bố cục bài khóa luận ngoài phần mở đầu và kết luận thì gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh về hợp
đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại công ty trách nhiệm hữu hạn Nhật
Việt
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1.Một số khái niệm cơ bản liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.Khái niệm về hợp đồng, mua bán hàng hóa
Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội phải tham gia vào các giao
dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và nhận
lại những lợi ich vật chất cần thiết từ các chủ thế khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu
chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao đổi
lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên dựa trên các nguyên tắc tự do,
tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tượng đó được
định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: “ Hợp đồng” [4, tr.8]
Hợp đồng nói chung là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của các bên để
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng là loại hành vi pháp lý cơ bản và
thông dụng nhất. Ý chí của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, khi sự
thống nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh
các nghĩa vụ ràng buộc các bên.
Hàng hoá theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con người, được
tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thoả mãn những nhu cầu mang tính xã hội. Nhu cầu
của con người rất phong phú và biến thiên liên tục vì vậy hàng hoá luôn phát triển
phong phú và đa dạng. Theo định nghĩa của pháp luật hiện hành Việt Nam tại Điều 3
khoản 2 LTM 2005 thì “Hàng hoá bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả bất động
sản hình thành trong tương lai, những vật gắn liền với đất đai”. Cũng tại Điều 3 khoản
8 của Luật này cũng quy định: “Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó
các bên có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận
thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hoá theo đúng thoả thuận”
1.1.2.Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phương tiện quan trọng phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau. Hiện nay, hoạt động mua bán hàng hoá được điều chỉnh chủ yếu bởi hai
văn bản pháp luật quan trọng là BLDS 2005 và LTM 2005. Theo quy định của Điều
428 BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản thì: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận
tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Theo điều 163
10
BLDS 2005 thì tài sản bao gồm : vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. LTM
2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa mà chỉ đưa ra khái niệm
về hoạt động mua bán hàng hoá. Hàng hóa theo quy định của LTM 2005 có thể là
hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là
động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại. Từ hai định nghĩa trên
có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của LTM 2005 là một dạng cụ
thể của hợp đồng mua bán tài sản. Bên cạnh đó cũng cần phân biệt hợp đồng mua bán
hàng hoá với các hợp đồng khác, ví dụ như thuê mua tài sản, dịch vụ gắn liền với hàng
hoá, gia công hàng hoá… Mua bán hàng hoá khác với quan hệ thuê mua tài sản. Khi
thuê tài sản, quyền sử dụng và chiếm hữu được chuyển cho người thuê nhưng quyền
sở hữu lại không được người cho thuê chuyển giao cho người đi thuê. Mua bán hàng
hoá khác với các dịch vụ giao nhận hàng hoá, vì người giao nhận hàng hoá chỉ thực
hiện chức năng trung gian. Căn cứ các điều khoản trên, có thể kết luận rằng “ Hợp
đồng mua bán hàng hoá là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả
tiền cho bên bán theo thời hạn, số lượng và phương thức thanh toán mà các bên đã
thỏa thuận”.
1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò rất quan
trọng, điều tiết, điều chỉnh quá trình lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Có thể xem xét các
đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ với hợp đồng mua bán tài
sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa luật riêng và luật chung.
Hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng mua
bán tài sản trong dân sự như:
+ Là hợp đồng ưng thuận: tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa
thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ
thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành
động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
+ Có tính đền bù: Bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì
sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới
dạng khoản tiền thanh toán.
+ Là hợp đồng song vụ: Mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng
buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia
11
thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa
vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán
phải bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên
bán.
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua
bán hàng hóa có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại của hành
vi mua bán hàng hóa:
- Thứ nhất, chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân.
Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng
có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Hoạt động của bên chủ thể
không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán
hàng hoá phải tuân theo LTM khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại.
- Thứ hai, mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa khác với các hợp đồng khác.
Hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi nhuận
cho các thương nhân. Vì chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá là thương
nhân, mà đã nói đến thương nhân thì khó có thể không nhắc đến lợi nhuận, hoạt động
chính của họ là kinh doanh và thu lợi nhiận, không có lợi nhuận họ không thể tồn tại
lâu dài dù vốn đầu tư có lớn đi nữa
- Thứ ba, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể. Điều này được quy định cụ thể tại điều 401 BLDS 2005. Cũng tại
điều 24 LTM 2005 quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa thì hợp
đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể. Chủ yếu các hợp đồng mua bán hàng hóa được thành lập bằng
văn bản, bởi việc giao kết hợp đồng bằng văn bản mang tính đảm bảo cao hơn so với
các hình thức khác. Hơn nữa, do hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra là nhằm mục
đích sinh lợi nên việc ký kết hợp đồng phải được giao kết bằng văn bản.
- Thứ tư, đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Theo LTM 2005, hàng hóa được
định nghĩa “bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương
lai; các vật gắn liền với đất đai” (khoản 2 điều 3 LTM 2005). Hàng hóa là đối tượng
mua bán phải không thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của Nhà
nước (Nghị định 59/2006/NĐ- CP ngày 12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh
mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ các
quy định của pháp luật về mua bán các loại hàng đó.
12
- Thứ năm, hợp đồng mua bán hàng hoá thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ mua bán. Bên bán thì có nghĩa vụ giao hàng và nhận tiền còn bên mua
thì có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền. Những điều khoản cơ bản của một hợp đồng
mua bán hàng hóa bao gồm: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh
toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng.
1.2.Cơ sở ban hành và nội dung của pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng
mua bán hàng hóa
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
Cơ sở về chính trị
Sau khi giành được thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, nền chính trị của nước
ta đã ổn định hơn, nước ta luôn luôn chủ động để hòa nhập chung vào nền kinh tế thế
giới hiện đại. Cùng với sự tăng cường quan hệ hợp tác trong nước và nước ngoài đã
không ngừng thúc đẩy Việt Nam hoạt động giao lưu trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là
lĩnh vực kinh tế. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các quan hệ
xã hội, các quan hệ dân sự và thương mại. Một trong những quan hệ thương mại góp
phần lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đó là quan hệ mua bán hàng
hóa. Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí
là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hơn nữa, hoạt động mua bán tại Việt Nam ngày càng
phát triển nhất là trong giai đoạn nước ta đang trong quá trình hội nhập thế giới. Trước
tình hình đó, để đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia đòi hỏi Nhà nước
cần ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh những quan hệ trong hoạt động mua
bán hàng hoá, nhất là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Cơ sở về kinh tế
Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến sự tốn tại và phát triển của từng quốc
gia từng dân tộc. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình
kinh tế thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng
ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật
nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới. Nhà nước phải
sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ chức kinh tế
thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại sao cho nền kinh tế không bị lệ thuộc vào
nước ngoài. Vì vậy, hệ thống pháp luật của Việt Nam luôn luôn thay đổi sao cho phù
hợp với các quy định chung trên thế giới khi có sự hợp tác với nước ngoài và sự đa
dạng trong hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động mua bán hàng hóa. Việc xây
13
dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá trình lâu dài. Vì thị
trường luôn luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải được bổ sung hoàn
chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Do vậy, Quốc hội đã thông qua
BLDS 2005 thống nhất điều chỉnh các mối quan hệ về hợp đồng nói chung và LTM
2005 quy định mang tính chuyên ngành về hợp đồng mua bán hàng hóa để giải quyết
những bất cập nêu trên, đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập WTO, phù hợp với sự
phát triển của kinh tế nước ta
Cơ sở về xã hội
Trong nhà nước pháp quyền, mọi quan hệ xã hội đều cần được điều chỉnh bởi pháp
luật. Quan hệ mua bán hàng hóa là một phần của quan hệ xã hội. Thực chất hoạt động
mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa hai bên nhằm mục đích kinh doanh, sao cho
hai bên đều được hưởng lợi ích tối đa. Việc ban hành các quy định về mua bán hàng
hóa thông qua hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ đảm bảo quyền, lợi ích của các chủ thể
tham gia, từ đó tạo điều kiện xây dựng, duy trì và phát triển các mối quan hệ tốt đẹp
giữa cá nhân, tổ chức trong xã hội.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
Khái niệm pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện bởi quyền lực nhà nước để điều
chỉnh những quan hệ xã hội giữa các cá nhân, tổ chức. Như đã phân tích ở trên, hợp
đồng mua bán hàng hóa thể hiện mối quan hệ hợp đồng phát sinh trong hoạt động mua
bán hàng hóa giữa bên bán và bên mua nên những quan hệ đó được điều chỉnh bởi các
quy định, quy tắc xử sự chung của nhà nước.
Như vậy, pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa là tập hợp những quy
phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các
mối quan hệ giữa bên bán và bên mua nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa.
Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng đặc thù không chỉ mang đặc
trưng của hợp đồng dân sự nói chung mà nội dung của nó còn phải phù hợp với những
quy định về mua bán hàng hóa. Những quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hóa được thể hiện cụ thể và chi tiết trong các văn bản pháp luật sau:
Thứ nhất là Bộ luật Dân sự 2005. BLDS 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2006. Bộ luật Dân sự được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp
14
đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được
xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Cụ
thể là các nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự nói chung và giao kết hợp đồng
nói riêng được quy định từ Điều 4 đến Điều 12 chương II; hay các quy định chung về
hợp đồng dân sự từ Điều 388 đến Điều 427 tại mục 7 chương XVII phần thứ ba, bao
gồm các vấn đề về giao kết, thực hiện, sửa đổi và chấm dứt hợp đồng dân sự.
Thứ hai là Luật Thương mại 2005. Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2006 quy định các nội dung chủ yếu về hoạt động mua bán hàng hóa, chế
tài và giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại. Cụ thể:
• Từ Điều 24 đến Điều 62 quy định các vấn đề về các quy định chung đối với
hoạt động mua bán hàng hóa, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
mua bán hàng hóa
• Từ Điều 292 đến Điều 319 quy định về chế tài và giải quyết tranh chấp trong
hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng.
Ngoài ra, còn có một số văn bản dưới luật có liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hóa như:
- Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 2 năm 2007, quy định chi tiết Luật
Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến
mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương
mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều
kiện.
Quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
Trên cơ sở Bộ luật Dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 là căn cứ pháp lý quan
trọng nhất điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa, nội dung pháp luật điều chỉnh hợp
đồng mua bán hàng hóa có thể chia thành các nhóm quy phạm sau:
- Các quy phạm quy định về chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa: Chủ
thể giao kết hợp đồng là những cá nhân hay tổ chức đáp ứng đủ các điều kiện của pháp
luật được phép tham gia hoạt động mua bán hàng hóa, được thỏa thuận và ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa, khi đó hợp đồng mua bán hàng hóa mới có giá trị pháp lý
ràng buộc các bên.
- Các quy phạm quy định về nội dung và hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa:
LTM 2005 không quy định nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, nhưng trên
15
cơ sở hợp đồng nói chung thì nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể căn
cứ vào các quy định của BLDS 2005. Tuy nhiên, LTM 2005 quy định cụ thể về thanh
toán, quyền sở hữu hàng hóa và quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa.
- Các quy phạm về trình tự thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa: Bất cứ
loại hợp đồng nào cũng phải được giao kết theo một trình tự thủ tục nhất định, đó là
cách thức mà các bên phải tiến hành nhằm xác lập mối quan hệ hợp đồng có giá trị
pháp lý. BLDS 2005 quy định cụ thể và chi tiết về đề nghị giao kết hợp đồng, thời hạn
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng…
- Các quy phạm khác về hợp đồng mua bán hàng hóa: BLDS 2005 và LTM 2005
cũng quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, trách
nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.3.Nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
1.3.1. Nguyên tắc trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
- Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận, không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội: Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng được
quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào
kể cả Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên sự
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không được trái với điều cấm của pháp luật và
những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận rộng rãi. Nguyên tắc này được thể hiện tại
Điều 4 BLDS 2005 (Nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận); khoản 1 Điều
389 BLDS 2005 (Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức
xã hội); Khoản 1 điều 11 LTM 2005 (Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với
các qui định của pháp luật mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền, nghĩa vụ các
bên trong hoạt động thương mại và bảo hộ các quyền đó).
- Nguyên tắc bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng: Việc tham
gia hợp đồng hay không là do các bên có toàn quyền định đoạt. Không một cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho đơn vị kinh tế khi ký kết hợp đồng.
Mọi sự ép buộc ký kết hợp đồng giữa bên này với bên kia đều làm cho hợp đồng vô
hiệu. Tại Điều 5; khoản 2 Điều 389 BLDS 2005 và Điều 10 LTM 2005 quy định mọi
thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại, quan hệ
hợp đồng. Theo nguyên tắc này, nội dung của hợp đồng phải bảo đảm hài hòa lợi ích
16
cũng như quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Ví dụ như công ty A ký hợp đồng mua bán
hàng hóa là giày dép với công ty B thì hai bên đều phải tự nguyện và bình đẳng về địa
vị pháp lý. Tự nguyện trong việc thỏa thuận giá cả hàng hóa, phương thức thanh toán,
thời hạn và địa điểm giao nhận hàng. Các bên phải thỏa thuận thống nhất ý chí, không
bên nào được áp đặt đe dọa, lừa dối đối tác. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì hợp đồng
sẽ bị coi là vô hiệu
1.3.2. Nguyên tắc trong thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
- Nguyên tắc thực hiện đúng: Chấp hành thực hiện đúng hợp đồng là không được
tự ý thay đối tượng này bằng một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc thực
hiện nó bằng cách trả một số tiền nhất định hoặc không thực hiện nó. Nguyên tắc này
đòi hỏi thỏa thuận cái gì thì thực hiện đúng cái đó.
- Nguyên tắc thực hiện đầy đủ: Nguyên tắc này có nghĩa là thực hiện đầy đủ tất cả
các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng, tức là tất cả các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ hợp đồng đều phải được thực hiện đầy đủ. Cụ thể là thực hiện đúng
đối tượng, đúng chất lượng, đúng thời gian, đúng số lượng, đúng phương thức thanh
toán và các thoả thuận khác trong hợp đồng.
- Nguyên tắc giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng: Nguyên tắc này
đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau, thường xuyên theo dõi và giúp đỡ nhau
để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh mọi điều khoản của hợp đồng, giúp nhau khắc
phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế.
Qua chương 1, tác giả đã đưa ra khái niệm về hợp đồng nói chung và hợp đồng
mua bán hàng hóa nói riêng với những đặc điểm đặc trưng của nó. Bên cạnh đó, tác
giả cũng đã khái quát được nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa mà
pháp luật điều chỉnh, thấy được tầm quan trọng của nó trong đời sống hàng ngày. Giao
kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa luôn luôn diễn ra xung quanh chúng ta.
Và để cho mọi người có hiểu rõ hơn về hợp đồng mua bán hàng hóa, tác giả sẽ đi sâu
phân tích thực trạng đồng thời chỉ ra những thành công và bất cập của pháp luật điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam tại chương 2
17
Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA – THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NHẬT VIỆT
18
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh
hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1.1. Tổng quan tình hình về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa
Khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường, các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế cũng có sự thay đổi. Trong điều
kiện đó, điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày
10/3/1975 không còn phù hợp nữa. Nhà nước đã ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế
(PL HĐKT) ngày 25/9/1989 và nhiều văn bản khác để điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng. PL HĐKT 1989 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực pháp lý
về hợp đồng kinh tế nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. PL HĐKT
được coi là một trong những bước đi lập pháp đầu tiên, phản ứng nhanh chóng trước
đòi hỏi của kinh tế. Điểm thành công nhất của PL HĐKT là sự khẳng định nguyên tắc
tự do hợp đồng bằng quy định ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế,
không cơ quan, cá nhân, tổ chức nào được áp đặt ý chí của mình cho các chủ thể khác
khi ký kết các hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, PL HĐKT vẫn còn tồn đọng một số bất
cập như:
Xét về lý luận, đầu tiên là sự mâu thuẫn giữa tư tưởng của cơ quan soạn thảo pháp
lệnh. Khi xem xét các quy định cụ thể trong pháp lệnh thì quyền tự do hợp đồng lại bị
ràng buộc. PL HĐKT chỉ cho phép pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh tham
gia các quan hệ hợp đồng, trong khi đó tự do hợp đồng kinh tế đòi hỏi trước hết là tự
do lựa chọn đối tác. Thứ hai là các chủ thể tham gia ký kết còn bị hạn chế bởi nguyên
tắc chịu trách nhiệm trực tiếp về tài sản. Điều này đồng nghĩa với việc không cho các
chủ thể tham gia ký kết hợp đồng kinh tế dưới sự bảo lãnh của chủ thể khác.
Xét về thực tiễn áp dụng, sự giới hạn chủ thể tham gia ký kết hợp đồng kinh tế
ngay từ đầu đã bị giới hạn và trong thực tiễn thực hiện nó ngày càng trở nên rõ nét
hơn. Pháp lệnh ban hành đã không tính tới sự đa dạng của các chủ thể kinh doanh khi
đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống
pháp luật nước ta đã xuất hiện nhiều chủ thể kinh doanh tham gia rộng rãi các quan hệ
kinh tế, không cần phải là pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Từ việc nhận thức những bất cập trên đồng thời dựa trên cơ sở nền tảng của PL
HĐKT, Quốc hội đã lần lượt ban hành hai văn bản pháp luật mới là BLDS năm 1995
và LTM năm 1997 quy định về hợp đồng và quyền tự do hợp đồng. Đây chính là một
19
bước đột phá mới trong hệ thống Việt Nam. Nhìn chung, nội dung hai văn bản pháp
luật này có những quy định thoáng hơn về hợp đồng.
Thứ nhất là về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng. Hai bộ luật này không giới hạn
chủ thể là pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh mà tùy thuộc vào tính chất
của từng loại hợp đồng, phạm vi chủ thể có quyền giao kết có những sự khác nhau
nhất định. Theo BLDS 1995, các chủ thể của hợp đồng dân sự bao gồm: cá nhân (có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự), pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. Tại
Điều 5 LTM 1997 cũng quy định chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là
cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương
mại. Như vậy, phạm vi chủ thể có quyền giao kết hợp đồng được mở rộng đáng kể.
Thứ hai là về hình thức hợp đồng. BLDS 1995 và LTM 1997 đều quy định hình
thức có thể là lời nói, văn bản, hành vi cụ thể. Các chủ thể khi giao kết hợp đồng có
thể lựa chọn bất kỳ hình thức nào kể cả fax, email…mà vẫn bảo đảm chặt chẽ cần thiết
về mặt pháp lý. Trong khi đó, PL HĐKT lại bắt buộc các chủ thể khi ký kết thì hợp
đồng phải được thể hiện dưới dạng văn bản hoặc những giấy tờ có giá trị tương đương.
Như vậy, với những quy định mở rộng về chủ thể giao kết và hình thức giao kết
mà BLDS 1995 và LTM 1997 đã phần nào giải quyết mâu thuẫn tư tưởng của PL
HĐKT về quyền tự do hợp đồng, mở rộng phạm vi điều chỉnh các loại hình doanh
nghiệp mà PL HĐKT không điều chỉnh. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật quy định về
hợp đồng đang tồn tại này khi đưa vào thực thi lại xuất hiện nhiều vấn đề bất cập.
Trong hệ thống văn bản pháp luật quy định về hợp đồng, chúng ta thấy có ba khái
niệm cùng tồn tại: hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại. Các hợp
đồng này có những điểm đặc trưng về hợp đồng nhưng giữa chúng vẫn tồn tại thiếu sót
như sự trùng lặp, thiếu nhất quán và không đồng bộ gây ra không ít sự vướng mắc, khó
khăn trong việc áp dụng pháp luật để tiến hành giao kết hợp đồng và giải quyết tranh
chấp. Với thực trạng pháp luật về hợp đồng như hiện nay thì việc duy trì khái niệm
hợp đồng kinh tế và hệ thống các văn bản pháp luật quy định riêng về nó là không cần
thiết. Hơn nữa, cách thức áp dụng các văn bản pháp luật để điều chỉnh một quan hệ
hợp đồng cụ thể cũng không rõ ràng, có thể áp dụng các quy định của BLDS 1995 để
điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế được hay không? Thứ tự ưu tiên áp dụng các văn
quy định trong văn bản pháp luật chuyên ngành so với các quy định trong BLDS 1995,
LTM 1997, PL HĐKT như thế nào? Như vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần sớm
ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới để thống nhất sự điều chỉnh của pháp luật
về hợp đồng. [9, tr.8]
20
Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết trên, năm 2005 Quốc Hội lần lượt thông qua hai văn
bản pháp luật lớn là BLDS 2005 và LTM 2005. Đây cũng chính là hai văn bản chủ yếu
điều chỉnh những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng nói chung và hợp đồng mua
bán hàng hoá nói riêng. Trong đó, BLDS 2005 quy định những vấn đề pháp luật mang
tính chung về hợp đồng, còn LTM 2005 quy định những vấn đề mang tính chuyên
ngành về hợp đồng mua bán hàng hoá. Mối quan hệ giữa hợp đồng dân sự với hợp
đồng chuyên ngành được giải quyết theo hướng ưu tiên áp dụng luật hợp đồng chuyên
ngành. Những nội dung về hợp đồng mua bán hàng hoá trong hệ thống pháp luật hiện
hành được quy định một cách chi tiết, rõ ràng hơn các văn bản pháp luật trước đó
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa
Thứ nhất là nguồn hàng. Đây là nhân tố rất quan trọng để việc ký kết hợp đồng
được thành công. Nếu nguồn hàng tốt thì sẽ đảm bảo được số lượng cũng như chất
lượng, mẫu mã, kiểu dáng của hàng hoá, phù hợp với các điều khoản hợp đồng. Nhưng
nếu nguồn hàng có vấn đề thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu tiếp theo và quy
trình thực hiện hợp đồng. Đến ngày giao hàng mà lượng hàng không đủ, hoặc đủ
nhưng không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, ở mức nhẹ
thì phạt hợp đồng vì chậm hàng, chất lượng không đồng đều, còn ở mức nặng thì huỷ
hợp đồng và bồi thường mọi thiệt hại do không thực hiện đúng các điều kiện trong hợp
đồng. Hơn thế, nó còn làm giảm uy tín, vị thế của công ty trên thị trường.
Thứ hai là nhà cung cấp. Việc lựa chọn một người cung cấp hàng tin cậy có đủ uy
tín, đủ năng lực sẽ quyết định đến hiệu quả của quá trình thực hiện hợp đồng. Về cơ
bản người cung cấp hàng không đáp ứng được yêu cầu của người mua thì mọi mục
tiêu khác cũng không thực hiện được, họ giao hàng không đúng thời gian cam kết thì
sẽ chậm chễ giao hàng và phạt hợp đồng nên sẽ ảnh hưởng tới giá bán.
Thứ ba là nguyên vật liệu. Nhân tố này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quy trình
thực hiện hợp đồng, mà đặc biệt là chất lượng hàng hoá. Do một lý do nào đó mà
nguyên liệu thiếu hay bị hỏng sẽ làm giảm chất lượng hàng, chậm tiến độ sản xuất và
không hoàn thành số lượng cho ngày giao hàng.
Thứ tư là nguồn lực của doanh nghiệp. Nhân tố này ảnh hưởng lớn đến hợp đồng
nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, nó có thể tác động trực tiêp đến
việc thực hiện hợp đồng nhanh chóng hơn, đơn giản hơn và hiệu quả hơn hoặc ngược
lại.
21
Thứ năm là vấn đề thời tiết. Đây là nhân tố vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực
tiếp tới thực hiện hợp đồng, các bên trong hợp đồng không thể tác động tới. Sự ảnh
hưởng này tác động từ khâu sản xuất đến giao hàng. Trong sản xuất nó tác động từ
khâu nguyên liệu đến thời gian hoàn thành sản phẩm , thời tiết thuận lợi thì mọi việc
sẽ suôn sẻ, nhưng thời tiết xấu thì có thể ảnh hưởng tới chất lượng nguyên liệu, làm
chậm tiến độ sản xuất và kéo dài thời gian giao hàng.
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán
hàng hóa
2.2.1. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hoá có thể được giao kết giữa thương nhân với thương
nhân hoặc giữa thương nhân với một bên không phải là thương nhân.
a. Chủ thể là thương nhân
Theo Điều 6 LTM 2005 thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
LTM 2005 cũng thừa nhận thương nhân thông qua việc không đặt điều kiện đăng ký
kinh doanh là một trong những điều kiện bắt buộc để được công nhận nhưng đối với
trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động của mình. Quy định này đã giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tế là
người không đăng ký kinh doanh nhưng có hành vi kinh doanh thì có được coi là
thương nhân không. Bên cạnh đó, những quy định này lại có phần không rõ ràng vì nó
không giới hạn trách nhiệm của thương nhân trong phạm vi hoạt động thương mại. Vì
vậy một tổ chức, cá nhân trước khi đăng ký kinh doanh tiến hành các hành vi không
nhằm mục đích sinh lợi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm như với thương nhân.
[10, tr. 4]
Thương nhân sẽ không bao gồm hộ gia đình, tổ hợp tác vì tuy được thừa nhận là
chủ thể của luật dân sự, có quyền hoạt động kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh,
cá thể song hộ gia đình, tổ hợp tác không phải tổ chức kinh tế, cũng không phải là cá
nhân. Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài có thể
là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác việc xác định tư cách thương nhân nước
ngoài phải căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch.
Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận (Khoản
1, Điều 16- LTM năm 2005).
22
• Thương nhân là cá nhân.
Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể trở thành tư nhân ngay cả
khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên như một nghề nghiệp mà
chưa đăng ký kinh doanh. Thương nhân là cá nhân sẽ bao gồm: Cá nhân kinh doanh;
Doanh nghiệp tư nhân; Công ty hợp doanh. Trong lĩnh vực hoạt động thương mại do
thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy đủ về hành vi thương mại của mình, vì vậy
những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người đang bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, … và các tội khác theo quy định của pháp luật sẽ không được công nhận là
thương nhân.
• Thương nhân là tổ chức.
Trong thực tiễn hợp đồng mua bán hàng hoá, thương nhân là tổ chức là chủ thể
chủ yếu. Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục đích hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh sẽ được coi là thương
nhân. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện quy định tại
Điều 84 BLDS năm 2005. Không phải tất cả những tổ chức được coi là pháp nhân đều
có thể trở thành thương nhân mà chỉ có pháp nhân nào là tổ chức kinh doanh được
thành lập để hoạt động thương mại mới trở thành thương nhân. Pháp nhân là tổ chức
kinh tế gồm: Doanh nghiệp Nhà nước; Hợp tác xã; Công ty trách nhiệm hữu hạn;
Công ty cổ phần; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Các tổ chức kinh tế khác có
đủ điều kiện theo quy định là thương nhân. Theo quy định của LTM năm 2005 hộ gia
đình và tổ hợp tác không được xếp là tổ chức hay cá nhân.
b. Chủ thể không phải là thương nhân.
Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân
không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng với thương nhân.
Nghĩa là một bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức hoạt động thương mại độc lập và
thường xuyên, còn bên kia là chủ thể không cần điều kiện nói trên. Bên không phải là
thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực vì hành vi để tham gia giao kết và
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá
nhân, cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng
23
có thể là hộ gia đình, tổ hợp tác và không hoạt động thương mại độc lập và thường
xuyên như một nghề.
2.2.2. Nội dung và hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa
Để hợp đồng mua bán hàng hoá có hiệu lực, thì nội dung các thoả thuận trong hợp
đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong LTM 2005 không quy định
nội dung giao kết của hợp đồng mua bán hàng hóa, nhưng trên cơ sở hợp đồng nói
chung có thể khái quát nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo Điều 402
BLDS 2005
Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những nội dung mà khi các bên giao kết với
nhau đều phải thoả thuận, nếu chưa thoả thuận được thì coi như chưa giao kết hợp
đồng. Khi đã thoả thuận được nội dung chủ yếu thì hợp đồng mua bán hàng hoá coi
như đã có hiệu lực pháp lý. Nội dung khác các bên có thể thoả thuận ghi vào hợp
đồng, khi các bên không ghi vào hợp đồng thì mặc nhiên chấp nhận những quy định
chung của pháp luật về vấn đề đó hoặc chấp nhận những tập quán thói quen trong hoạt
động thương mại.
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá là cách thức thể hiện ý chí thoả thuận
giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Theo quy định tại Điều 401 Bộ luật Dân sự
2005 thì hợp đồng mua bán hàng hoá có thể giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định
phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Hình thức văn bản bao
gồm cả điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác. Những quy định
của LTM Việt Nam phù hợp với pháp luật quốc tế về mua bán hàng hoá, đã tạo điều
kiện cho sự hội nhập khi các chủ thể có quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế. Có thể
nói, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá trong LTM 2005 là phù hợp với Điều
11 Công ước viên (CISG) 1980: "không yêu cầu hợp đồng mua bán phải được ký hoặc
phải được xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ mọi yêu cầu nào đó về mặt hình
thức. Có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai nhân chứng để chứng minh
sự tồn tại của hợp đồng đó". [10, tr. 6]
Như vậy LTM 2005 đã khắc phục được hạn chế về hình thức hợp đồng do các văn
bản pháp luật trước đó quy định như pháp luật Hợp đồng kinh tế. Hợp đồng mua bán
hàng hóa là sự thoả thuận giữa các bên với nhau, dưới góc độ pháp lý việc tuân thủ
hình thức của hợp đồng sẽ là bắt buộc một khi pháp luật có sự ghi nhận về vấn đề đó
với mục đích hạn chế các rủi ro cho các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng.
24
2.2.3. Trình tự thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó bên bán và bên mua bày tỏ ý
chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận cùng nhau xác lập quyền
và nghĩa vụ mỗi bên.
LTM 2005 không quy định cụ thể về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
vì thế thủ tục giao kết hợp đồng sẽ áp dụng theo luật chung là BLDS 2005.
Thứ nhất về đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thì theo khoản 1 Điều
390 BLDS 2005, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc thể hiện rõ ý
định giao kết hợp đồng mua bán và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị
với bên đã được xác định cụ thể. Đề nghị hợp đồng mua bán có thể do bên bán hoặc
bên mua thực hiện. So với CISG, pháp luật Việt Nam không yêu cầu nội dung cụ thể
của một đề nghị giao kết hợp đồng. Theo Điều 14 CISG định nghĩa một đề nghị giao
kết hợp đồng hình thành một chào hàng khi nó được gửi đến một/nhiều người xác
định, thể hiện ý chí của người chào hàng muốn ràng buộc mình trong trường hợp chào
hàng được chấp nhận, và nêu rõ hàng hóa, ấn định hoặc quy định cách xác định số
lượng và giá cả. Hơn nữa, Khoản 2 Điều 14 CISG cũng phân biệt một chào hàng với
một lời mời đưa ra chào hàng. Theo đó, một đề nghị không gửi cho những người xác
định chỉ được coi là một lời mời đưa ra chào hàng. Nội dung này không có quy định
tương ứng trong pháp luật Việt Nam.
Thứ hai về thời điểm để một chấp nhận chào hàng có hiệu lực
Pháp luật Việt Nam quy định trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ có hiệu lực
khi được thực hiện trong thời hạn được bên đề nghị ấn định. Theo khoản 1 Điều 397
BLDS 2005 thì nếu bên đề nghị nhận được trả lời khi đã hết thời hạn đó thì chấp nhận
này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Mặt khác, nếu căn cứ vào khoản 2
Điều 18 CISG thì thời điểm chấp nhận chào hàng tới nơi người chào hàng. Một chấp
nhận chào hàng có hiệu lực khi nó tới nơi người chào hàng trong thời hạn quy định
hoặc trong một thời hạn hợp lý (nếu không ấn định thời hạn). Ngoài ra, theo khoản 2
điều 18 CISG và khoản 2 điều 397 BLDS 2005 đều yêu cầu một chào hàng bằng
miệng phải được chấp nhận ngay lập tức, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo Điều 19 CISG ghi nhận trường hợp trả lời chấp nhận chào hàng có kèm theo
những nội dung sửa đổi đề nghị chào hàng ban đầu sẽ cấu thành một chào hàng mới,
trừ khi những sửa đổi không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung chào hàng ban
đầu. Các yếu tố sửa đổi liên quan đến các điều kiện giá cả, thanh toán, chất lượng và
25