BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THANH HƢƠNG
PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ BẢO VỆ
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỒNG NGỌC BA
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ này là công trình nghiên cứu của cá
nhân được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu kiến thức lý thuyết, nghiên cứu khảo sát
tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Đồng Ngọc Ba.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu, và các thầy, cô giáo trong
khoa Sau đại học, khoa Pháp luật kinh tế cùng toàn thể các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho em
trong suốt quá trình em học tập tại trường.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn trân
trọng nhất tới thầy giáo, TS. Đồng Ngọc Ba – Bộ Tư pháp, người đã tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Và cuối cùng, em cũng xin được gửi những lời cảm ơn tới bố mẹ và những
người thân trong gia đình, và tất cả bạn bè đã luôn bên em, luôn tiếp thêm tinh thần
và nghị lực cho em, tạo mọi điều kiện cho em để em hoàn thành được luận văn một
cách tốt nhất.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thanh Hương
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH ................... 4
DỊCH VỤ BẢO VỆ .............................................................................................. 4
1.1. Khái niệm về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ................................................... 4
1.1.1. Định nghĩa ............................................................................................ 4
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ .......................... 8
1.2. Nội dung pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ..................................12
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ
BẢO VỆ Ở VIỆT NAM .....................................................................................16
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về kinh doanh dịch vụ bảo vệ
...........................................................................................................................16
2.1.1. Các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ bảo vệ......................16
2.1.1.1. Điều kiện về vốn pháp định .........................................................16
2.1.1.2. Điều kiện về địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện
của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ .........................................19
2.1.1.3. Điều kiện, tiêu chuẩn đối với người đứng đầu doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ bảo vệ ........................................................................20
2.1.1.4. Điều kiện, tiêu chuẩn đối với nhân viên dịch vụ bảo vệ.............23
2.1.1.5. Điều kiện về an ninh, trật tự ........................................................25
2.1.2. Phạm vi và nguyên tắc tổ chức, hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo
vệ ....................................................................................................................33
2.1.2.1. Phạm vi hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ ...........................33
2.1.2.2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ .......35
2.1.3. Hợp đồng dịch vụ bảo vệ ....................................................................39
2.1.4. Các hành vi bị cấm trong kinh doanh dịch vụ bảo vệ ......................42
2.1.5. Quản lý nhà nước và xử lý vi phạm trong kinh doanh dịch vụ bảo vệ
.......................................................................................................................44
2.1.5.1. Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ ......44
2.1.5.2. Xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ .......45
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt
Nam ...................................................................................................................48
2.2.1. Những kết quả đạt được .....................................................................48
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc ...............................................................52
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ BẢO VỆ Ở
VIỆT NAM..........................................................................................................60
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo
vệ ở Việt Nam ...................................................................................................60
3.2. Một số kiến nghị bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về kinh doanh
dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam ...............................................................................68
KẾT LUẬN .........................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới, có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa bước đầu đã đem lại sự phát triển cho đất nước ta. Từ một nước có nền
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, ngày nay, nước ta đã trở thành một nước có nền kinh tế
năng động, không ngừng hội nhập và phát triển. Trong kinh tế thị trường, khối
doanh nghiệp là nhân tố chủ đạo, tích cực. Nhận thức rõ doanh nghiệp có vai trò đặc
biệt trong nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP),
góp phần vào công cuộc giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát
huy nội lực vào phát triển kinh tế - xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và
tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo,...Nhà
nước ta đã dành sự quan tâm rất lớn đến chủ thể này, biểu hiện qua việc xây dựng
hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng nhằm bảo đảm lợi ích tối đa cho các doanh
nghiệp khi họ tiến hành hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Trong đó, phải kể
đến các quy định của Hiến pháp. Điều 33 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Mọi người
có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”.
Điều 51 Hiến pháp 2013 nhấn mạnh rằng: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện
để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất kinh
doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước” và
“Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở
tôn trọng các quy luật thị trường” (Điều 52 Hiến pháp 2013). Hiện thực hóa các
quy định này của Hiến pháp, Nhà nước đã mở rộng phạm vi ngành, nghề, lĩnh vực
kinh doanh mà doanh nghiệp được phép đầu tư, cho phép doanh nghiệp thuộc khối
tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực mà các chủ thể này có thể làm tốt, thay vì cho phép
các doanh nghiệp có vốn Nhà nước được thực hiện. Nổi bật là việc Nhà nước cho
phép doanh nghiệp nói chung được kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Với bản chất là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng kinh doanh
dịch vụ bảo vệ có những đặc điểm, đặc thù nhất định. Đây cũng là một lĩnh vực
2
kinh doanh còn khá mới, tuy nhiên cũng góp một phần quan trọng trong việc bảo
đảm an toàn, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đề giúp các doanh nghiệp hiểu
biết nhiều hơn pháp luật về hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ như: kinh doanh
dịch vụ bảo vệ là gì, điều kiện kinh doanh dịch vụ bảo vệ,...trên cơ sở đó doanh
nghiệp hoạt động tốt hơn trong lĩnh vực mới mẻ này, việc nghiên cứu pháp luật về
kinh doanh dịch vụ bảo vệ thực sự có ý nghĩa và cần thiết.
Chính vì những lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về kinh
doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam” cho luận văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kinh doanh dịch vụ bảo vệ là một ngành nghề kinh doanh còn tương đối mới
mẻ tại Việt Nam. Tuy vậy, lĩnh vực này đã và đang phát triển khá nhanh, nhu cầu
rất lớn. Trên phương diện học thuật, chưa có một đề tài nào nghiên cứu về lĩnh vực
này. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc tìm hiểu các
quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ như là một hình thức kinh
doanh hợp pháp dưới góc độ luật kinh tế.
Đây là công trình nghiên cứu độc lập và đầu tiên tìm hiểu pháp luật về kinh
doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và nội dung cơ bản của
pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu nhằm làm
sáng tỏ những quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ được quy định
tại Nghị định số 52/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý kinh doanh dịch vụ bảo
vệ và các quy định của pháp luật có liên quan đến nội dung Nghị định này, từ đó
đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về kinh
doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật. Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, trong quá trình nghiên cứu
3
khi nghiên cứu từng vấn đề cụ thể, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như: logic, phân tích, tổng hợp, quy nạp,...
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích mà tác giả hướng tới khi thực hiện luận văn là làm rõ những vấn đề
lý luận chung nhất về kinh doanh dịch vụ bảo vệ và thực trạng pháp luật về kinh
doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam, để từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện và
bảo đảm thực hiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Với mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, tìm hiểu một số vấn đề lý luận về kinh doanh dịch vụ bảo vệ,
nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ,
nội dung pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt
Nam, tìm hiểu những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về kinh doanh dịch
vụ bảo vệ. Đồng thời đưa ra những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc
trong việc thực hiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam.
Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thực hiện
pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam.
6. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam.
- Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thực hiện
pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở Việt Nam.
4
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH
DỊCH VỤ BẢO VỆ
1.1. Khái niệm về kinh doanh dịch vụ bảo vệ
1.1.1. Định nghĩa
Dịch vụ ra đời là sản phẩm của quá trình lao động sản xuất của con người,
nhằm phục vụ các nhu cầu của con người. Khác với các tài sản thông thường, dịch
vụ là các “sản phẩm vô hình” nhưng cũng mang các thuộc tính về giá trị và giá trị
sử dụng. Dịch vụ là đối tượng hướng tới của nhiều nhóm quan hệ dân sự, kinh tế
thương mại với nhiều chủ thể tham gia, mà nhà nước thông qua pháp luật cần điều
chỉnh trong trật tự xã hội chung.
Dịch vụ là một công việc do một chủ thể thực hiện để thỏa mãn nhu cầu của
một chủ thể khác (Điều 518, 519 Bộ luật dân sự 2005). Dịch vụ có tính chất vô
hình, nên việc xác lập quyền sở hữu đối với dịch vụ không thể được thể hiện giống
như quyền sở hữu đối với các tài sản hữu hình. Nội dung của quyền sở hữu dịch vụ
không thể được phân tách rõ ràng giữa các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt. Trong quan hệ mua bán, trao đổi (cung cấp) dịch vụ, thực chất chỉ
có việc chuyển giao quyền sử dụng dịch vụ. Quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ
và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Đặc trưng này quyết định thời điểm phát
sinh, hoàn thành các giao dịch dịch vụ. Hay nói cách khác quan hệ cung ứng dịch
vụ là quan hệ liên tục từ khi phát sinh yêu cầu đến khi kết thúc quan hệ. Nó cũng
quyết định tính chất của các giao dịch đặc thù mà chỉ riêng lĩnh vực dịch vụ mới có.
Và qua đó đòi hỏi pháp luật phải có cách nhìn nhận riêng, quy định riêng đối với
các quan hệ xã hội (giao dịch) lấy dịch vụ làm đối tượng. Tính không tách rời được
hiểu là việc sản xuất, cung ứng, lưu thông, tiêu dùng dịch vụ là một quá trình liên
hoàn, không có độ trễ về mặt thời gian giữa các công đoạn trên. Nói cách khác đây
là một chu trình liên tục khép kín giữa sản xuất và tiêu dùng [2, tr.6].
Dịch vụ khác hàng hóa là khi được sản xuất ra, hàng hóa có thể được lưu kho
bãi và không nhất thiết phải tham gia ngay vào quá trình lưu thông, tiêu dùng.
Trong quá trình lưu kho bãi và lưu thông, tiêu dùng, hàng hóa có thể bị hư hao,
5
nhưng không mất đi. Còn đối với dịch vụ thì đã sản xuất ra là phải tiêu dùng ngay.
Vì vậy, không thể tách rời được quá trình sản xuất với quá trình lưu thông và tiêu
dùng dịch vụ. Sau quá trình tiêu dùng dịch vụ, các giá trị và giá trị sử dụng của dịch
vụ được chuyển tải vào các giá trị vật chất khác, còn bản thân dịch vụ không tồn tại.
Thương mại dịch vụ là những hoạt động đầu tư sản xuất, phân phối, cung
ứng, trao đổi dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Về phương diện pháp lý, căn cứ
cơ bản nhất để phân biệt giữa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ chính là
đối tượng của các giao dịch thương mại này. Nếu như đối tượng của giao dịch
thương mại dịch vụ là các sản phẩm vô hình (dịch vụ), thì trong giao dịch thương
mại hàng hóa, đối tượng của giao dịch là hàng hóa – các sản phẩm hữu hình. Quá
trình sản xuất và tiêu dùng hàng hóa thường được tách biệt với nhau, trong khi quá
trình tạo ra dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ luôn diễn ra đồng thời. Tuy vậy, xét về bản
chất của giao dịch, cung ứng dịch vụ cũng có tính chất của giao dịch mua bán (mua
bán dịch vụ).
Như vậy, thương mại dịch vụ là những hoạt động đầu tư, sản xuất (tạo ra)
dịch vụ; các hoạt động đưa dịch vụ vào lưu thông, mang dịch vụ đến người tiêu
dùng nhằm mục đích thu lợi nhuận của phía thương nhân là nhà cung cấp dịch vụ.
Thương mại dịch vụ cũng bao gồm các hoạt động tiêu dùng dịch vụ của bên khách
hàng, các hành vi nêu yêu cầu và cách thức thụ hưởng dịch vụ. Đồng thời, nó cũng
bao hàm các hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo duy trì mối quan hệ giữa nhà
cung cấp và người tiêu dùng, trong mối tương quan chung với nhà nước và các thiết
chế xã hội trong một trật tự pháp luật nhất định phù hợp với thông lệ quốc tế.
Về phương diện lý luận, có thể hiểu pháp luật thương mại dịch vụ là tổng
hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận (thông lệ, tập
quán, án lệ,..) để xác định địa vị pháp lý của thương nhân và điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình đầu tư, sản xuất, cung ứng và tiêu dùng dịch vụ.
Pháp luật thương mại dịch vụ là một bộ phận cấu thành của pháp luật thương mại
[2, tr.7].
6
Dịch vụ bảo vệ là một trong những loại hình của thương mại dịch vụ, được
cung ứng theo yêu cầu của khách hàng nhằm mục đích thu phí dịch vụ. Kinh doanh
dịch vụ bảo vệ trước hết phải khẳng định nó là một hoạt động thương mại nhằm
mục đích sinh lợi mà cụ thể là hoạt động cung ứng dịch vụ bảo vệ. Theo giải thích
của Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (Khoản 2
Điều 4). Hành vi được coi là kinh doanh khi có các dấu hiệu sau: (i) hành vi phải
mang tính chất nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là chủ thể hành vi khi tham gia
thương trường thực hiện sự phân công lao động xã hội, các hành vi được tiến hành
liên tục, đều đặn, thể hiện tính chuyên nghiệp cao và mang lại nguồn thu nhập chính
cho người thực hiện hành vi; (ii) hành vi phải được thực hiện một cách độc lập. Các
chủ thể nhân danh mình để tiến hành hoạt động kinh doanh. Họ tự quyết định mọi
vấn đề có liên quan và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình; (iii) hành vi có
mục đích kiếm lời. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt hành vi kinh doanh với
các hành vi khác. Để thực hiện hoạt động kinh doanh, chủ thể phải tiến hành đăng
ký kinh doanh [7, tr.75].
Trong các quan hệ thương mại, thì kinh doanh dịch vụ là một trong những
lĩnh vực mang lại lợi nhuận khổng lồ có thể lớn hơn gấp nhiều lần so với sản xuất
hàng hóa. Dịch vụ trong kinh tế học, được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa
nhưng là phi vật chất. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và những
sản phẩm thiên hẳn về sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên đa số là những sản phẩm nằm
trong khoảng giữa sản phẩm hàng hóa - dịch vụ. “Dịch vụ” nói khái quát theo Từ
điển Tiếng việt còn có thể được hiểu là những công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [8, tr.256].
Cung ứng dịch vụ theo định nghĩa của Luật Thương mại năm 2005 “là hoạt
động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa
vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ
(sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử
7
dụng dịch vụ theo thỏa thuận” (Khoản 9 Điều 3). Khi đất nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các nghề thuộc lĩnh vực kinh
doanh dịch vụ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc phát triển kinh
tế.
“Bảo vệ” theo Từ điển Tiếng Việt là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho
luôn luôn được nguyên vẹn, hoặc là người làm công tác bảo vệ ở cơ quan, xí nghiệp
hoặc cho một nhân vật quan trọng [8, tr.40].
Nói đến bảo vệ nội bộ chúng ta sẽ nhớ đến khái niệm về những người làm
bảo vệ ở trong một tổ chức, công ty. Những người này là nhân viên được biên chế
vào sổ lương của một công ty, tổ chức nào đó, là người của công ty đó, tổ chức đó,
và đảm nhiệm công việc bảo vệ. Có thể nói, khái niệm về bảo vệ nội bộ ra đời từ
khá lâu, và cho đến nay thì nó đang dần dần bị thay thế bởi dịch vụ bảo vệ. Khi
được hỏi, bạn hiểu dịch vụ bảo vệ là gì, nhiều người tiêu dùng cho biết, dịch vụ bảo
vệ là thuê người bảo vệ về để bảo vệ tài sản cho doanh nghiệp hoặc bảo vệ cho cá
nhân nào đó. Nhưng, thực tế dịch vụ bảo vệ là một khái niệm mở rộng, đó là lý do
vì sao nó ngày càng chiếm lĩnh thị trường bảo vệ và thay thế mạnh mẽ bảo vệ nội
bộ.
Dịch vụ bảo vệ chính là một ngành nghề về cung cấp bảo vệ, trong đó các
công ty, tổ chức có thể thuê bảo vệ để bảo vệ tài sản, con người… cho công ty, tổ
chức của mình. Trong quá trình thuê bảo vệ thì phải có hợp đồng cam kết rõ trách
nhiệm của các bên liên quan. Từ khi xuất hiện, dịch vụ bảo vệ đã có sự tăng trưởng
và phát triển mạnh, chiếm lĩnh thị trường và dần thay thế cho các bảo vệ nội bộ của
các công ty. Yếu tố quan trọng khiến dịch vụ bảo vệ được ưu ái hơn đó chính là tính
chuyên nghiệp. Nếu như bảo vệ nội bộ chỉ bảo vệ cho riêng cơ quan đó với những
nghiệp vụ cơ bản hoặc kinh nghiệm lâu năm thì dịch vụ bảo vệ được đào tạo bài bản
và sàng lọc nhân viên gắt gao. Khi tham gia vào các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ bảo vệ, người bảo vệ sẽ được trang bị về kiến thức bảo vệ, pháp luật, y tế, võ
thuật,...;được rèn luyện bản lĩnh trong những tình huống nguy hiểm bất ngờ;...Đặc
biệt, những công ty, doanh nghiệp thuê bảo vệ sẽ không phải lo đến việc quản lý,
8
phân công nhiệm vụ, ca trực, trách nhiệm; giảm bớt các chi phí phụ cấp, thưởng tết,
ốm, bệnh; không phải lo lắng chuyện nhân viên bảo vệ nội bộ bệnh không có người
trực, không phải lo lắng việc tìm người trực thay. Tài sản bị mất đã có các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ chịu trách nhiệm, tránh được các rủi ro trong kinh
doanh. Dựa vào thế lực của các công ty bảo vệ để đảm bảo an toàn hơn,...Không chỉ
bảo vệ tài sản, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ còn cung cấp các dịch
vụ bảo vệ yếu nhân, sự kiện, hàng hóa,...đa dạng và phong phú, mở ra một hướng đi
mới cho ngành bảo vệ.
Tóm lại, kinh doanh dịch vụ bảo vệ được hiểu là việc cung cấp dịch vụ bảo
vệ phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ con người, bảo vệ tài sản,
hàng hóa, bảo vệ nhà cửa, cơ sở sản xuất kinh doanh, trụ sở cơ quan, tổ chức, bảo
vệ an ninh, trật tự cho các hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí, lễ hội trên cơ sở
hợp đồng dịch vụ bảo vệ được ký kết giữa bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) và
doanh nghiệp được phép kinh doanh dịch vụ bảo vệ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Khái niệm kinh doanh dịch vụ bảo vệ là một khái niệm hết sức quan trọng
nhằm định hướng đúng đắn cho hoạt động bảo vệ ở Việt Nam nhưng Nghị định số
52/2008/NĐ-CP ngày 22/04/2008 của Chính phủ về quản lý kinh doanh dịch vụ bảo
vệ lại không hề đề cập đến. Đây là một thiếu sót rất lớn, cần được bổ sung trong
thời gian tới.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005, kinh doanh “là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lời”.
Hoạt động kinh doanh là hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa và dịch vụ
giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc giữa các chủ thể kinh doanh với người
tiêu dùng cuối cùng, với mục đích là thu được lợi nhuận hoặc nhằm mục đích mở
rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy, hoạt động kinh doanh được hiểu là một quá
trình liên tục từ nghiên cứu thị trường đến tìm cách đáp ứng nhu cầu đó thông qua
9
việc thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng để đạt được mục đích kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ được hiểu là hoạt động kinh doanh của
các chủ thể kinh doanh được phép kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện,
nhằm mục đích thu lợi nhuận, có sự quản lý của nhà nước nhằm cung cấp bảo vệ
cho khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo vệ để bảo vệ tài sản, hàng hóa, con
người, nhà cửa,...
Theo quy định tại Nghị định số 52/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
22/04/2008 về quản lý kinh doanh dịch vụ bảo vệ và Thông tư số 45/2009/TT-BCA
của Bộ Công an ngày 14/07/2009 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
52/2008/NĐ-CP về quản lý kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì kinh doanh dịch vụ bảo
vệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Từ đây có thể đưa ra một số đặc điểm của
hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ như sau:
- Về chủ thể:
Chủ thể quan hệ pháp luật là những bên tham gia vào quan hệ pháp luật, có
các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Chủ thể quan hệ
pháp luật là các cá nhân, các tổ chức có năng lực chủ thể theo quy định của pháp
luật để tham gia vào quan hệ pháp luật nhất định.
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP thì các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật kinh doanh dịch vụ bảo vệ bao gồm:
- Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ thuộc mọi thành phần kinh tế;
- Tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ là bên cung ứng dịch vụ, thông
qua hợp đồng dịch vụ bảo vệ để tiến hành việc cung cấp bảo vệ cho bên sử dụng
dịch vụ. Bên sử dụng dịch vụ ở đây chính là khách hàng, có thể là tổ chức, hoặc có
thể là cá nhân thuê dịch vụ bảo vệ. Và một chủ thể không thể thiếu khi kinh doanh
dịch vụ bảo vệ chính là những nhân viên bảo vệ, một chủ thể đặc biệt, quan trọng,
trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Các tổ chức, cá nhân
10
khác có liên quan có thể là cơ quan quản lý nhà nước đối với dịch vụ bảo vệ, cá
nhân có thẩm quyền xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Nghị định số 52/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý kinh doanh dịch vụ
bảo vệ không có một điều luật nào quy định về hình thức pháp lý của chủ thể kinh
doanh dịch vụ bảo vệ. Tuy nhiên dựa vào quy định tại Điều 2 Nghị định số
52/2008/NĐ-CP, về đối tượng áp dụng Nghị định ta có thể thấy hình thức pháp lý
của chủ thể kinh doanh dịch vụ bảo vệ chính là các “doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ bảo vệ thuộc mọi thành phần kinh tế”.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh [7, tr.36]. Như vậy, dịch vụ bảo vệ là một loại hình
doanh nghiệp được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh và nộp thuế theo quy định của pháp luật, có trụ sở giao dịch và chỉ
được phép đi vào hoạt động khi đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quy định này đã mở rộng đối tượng tham gia dịch vụ bảo vệ là doanh nghiệp
của tất cả các thành phần kinh tế và không phân biệt loại hình doanh nghiệp, góp
phần đa dạng hóa và tạo thuận lợi cho khách hàng có quyền lựa chọn đơn vị cung
ứng dịch vụ tốt hơn, tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp làm dịch vụ bảo vệ,
phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường có
nhiều thành phần. Đồng thời quy định này cũng đảm bảo quyền tự do kinh doanh
của công dân – một quyền hiến định được nêu rõ trong Hiến pháp nước ta.
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng
ta đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần. Đó là: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy định của Nghị định thì tất cả các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều có thể đăng ký kinh
doanh dịch vụ bảo vệ.
11
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 thì có bốn loại hình doanh
nghiệp hoạt động tại Việt Nam đó là:
+ Doanh nghiệp tư nhân.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn ( Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên và Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên).
+ Công ty cổ phần.
+ Công ty hợp danh.
Theo quy định về quyền kinh doanh thì tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức,
cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Tuy
nhiên trong một số trường hợp nhất định, pháp luật cũng quy định cấm một số đối
tượng thành lập và quản lý doanh nghiệp. Nghị định không có quy định rõ ràng về
loại hình doanh nghiệp. Nghị định chỉ có quy định về điều kiện đối với người đứng
đầu doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ mà không có quy định về điều kiện
riêng đối với những đối tượng muốn thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
bảo vệ. Đây là một điểm bất cập cần được hoàn thiện. Rõ ràng những quy định này
thiếu tính chặt chẽ và có thể tạo ra môi trường kinh doanh dịch vụ bảo vệ không
lành mạnh. Và sẽ không thể tránh khỏi việc vi phạm pháp luật trong khi hành nghề
trong khi chúng ta cũng chưa có cơ chế nào để điều chỉnh, giám sát họ hành nghề.
Mà chỉ đến khi họ có các hành vi vi phạm pháp luật hình sự thì chúng ta mới xử lý.
Nhưng đến khi phát hiện và xử lý, thì họ đã làm thiệt hại không nhỏ đến xã hội. Do
vậy cần có những quy định chặt chẽ hơn nữa để làm lành mạnh hóa hoạt động kinh
doanh dịch vụ này.
- Về nội dung: Hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ thực chất là thực hiện
một hợp đồng dịch vụ bảo vệ trên cơ sở tự nguyện và theo thỏa thuận giữa doanh
nghiệp được phép kinh doanh dịch vụ bảo vệ với bên khách hàng có nhu cầu sử
dụng dịch vụ bảo vệ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Bên doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ bảo vệ sẽ cung cấp dịch vụ bảo vệ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
con người, bảo vệ tài sản, hàng hóa, bảo vệ nhà cửa, cơ sở sản xuất kinh doanh, trụ
12
sở cơ quan, tổ chức, bảo vệ an ninh, trật tự cho các hoạt động thể thao, vui chơi, giải
trí, lễ hội cho bên khách hàng thuê dịch vụ bảo vệ.
- Về điều kiện kinh doanh: kinh doanh dịch vụ bảo vệ là một ngành nghề
kinh doanh có điều kiện. “Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải
có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy
phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác” (Khoản 2 Điều 7 Luật Doanh
nghiệp 2005). Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải có Giấy
xác nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự để làm ngành nghề kinh doanh có điều kiện
do Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội – Bộ Công an cấp hoặc do
Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương cấp.
Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện
về thành lập, đăng ký kinh doanh dịch vụ bảo vệ, về phạm vi, tổ chức hoạt động
kinh doanh dịch vụ bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Cụ thể là điều kiện về
vốn pháp định; điều kiện về địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện của
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ; điều kiện, tiêu chuẩn đối với người đứng
đầu doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ; điều kiện, tiêu chuẩn đối với nhân
viên dịch vụ bảo vệ và phải được cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự.
1.2. Nội dung pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ
Kinh doanh dịch vụ bảo vệ được hiểu là việc cung cấp dịch vụ bảo vệ phù
hợp với các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ con người, bảo vệ tài sản, hàng
hóa, bảo vệ nhà cửa, cơ sở sản xuất kinh doanh, trụ sở cơ quan, tổ chức, bảo vệ an
ninh, trật tự cho các hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí, lễ hội trên cơ sở hợp
đồng dịch vụ bảo vệ được ký kết giữa bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) và doanh
nghiệp được phép kinh doanh dịch vụ bảo vệ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Từ khái niệm này ta có thể khái quát: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ
là các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động kinh
doanh dịch vụ bảo vệ, bao gồm các quy định về điều kiện kinh doanh, phạm vi và
13
nguyên tắc tổ chức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ kinh
doanh dịch vụ bảo vệ, các hành vi bị cấm, quản lý nhà nước và xử lý vi phạm trong
hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005 thì điều kiện
kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh
ngành, nghề cụ thể.
Điều 8 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp quy định:
“1. Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh áp dụng
theo các quy định của các luật, pháp lệnh, nghị định chuyên ngành hoặc quyết định
có liên quan của Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi chung là pháp luật chuyên
ngành).
2. Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức:
a) Giấy phép kinh doanh;
b) Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh;
c) Chứng chỉ hành nghề;
d) Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
đ) Xác nhận vốn pháp định;
e) Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
g) Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được
quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ
hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Các quy định về loại ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện
kinh doanh đối với ngành, nghề đó tại các văn bản quy phạm pháp luật khác ngoài
các loại văn bản quy phạm pháp luật đã nêu tại khoản 1 Điều này đều không có
hiệu lực thi hành”.
Đồng thời, theo quy định tại Khoản 5 Điều 7 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP
ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp thì ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện được quy định tại các Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy
14
ban thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ. Nghiêm cấm việc ban hành
và quy định không đúng thẩm quyền về các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
Doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện kể từ
khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc quản lý nhà nước đối với
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và kiểm tra việc chấp hành điều kiện kinh
doanh của doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của cơ quan chuyên ngành theo quy
định của pháp luật chuyên ngành.
Ngoài các điều kiện kinh doanh đặc thù, còn phải đảm bảo các yêu cầu mà
tất cả các doanh nghiệp phải đáp ứng ví dụ như đăng ký doanh nghiệp, đăng ký bảo
hiểm xã hội, đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy,…
Kinh doanh dịch vụ bảo vệ là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Dịch
vụ bảo vệ là một ngành nghề kinh doanh còn tương đối mới mẻ tại Việt Nam. Tuy
vậy, lĩnh vực này đã và đang phát triển khá nhanh, nhu cầu rất lớn. Là doanh nghiệp
được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ bảo vệ có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế. Các hoạt động kinh doanh tạo ra
lợi nhuận, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần
quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách, tham gia giải
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động thực hiện chính sách an sinh xã hội cũng như các nhiệm vụ, mục tiêu chính trị
của Đảng và Nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Để hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ đi vào nề nếp, góp phần cùng lực
lượng Công an giữ gìn trật tự an toàn xã hội, ngày 25/4/2001 Chính phủ ban hành
Nghị định số 14/2001/NĐ-CP, sau đó được thay thế bằng Nghị định số
52/2008/NĐ-CP ngày 22/4/2008. Các Nghị định của Chính phủ đã quy định nguyên
tắc tổ chức hoạt động; điều kiện thành lập, đăng ký kinh doanh; điều kiện, tiêu
chuẩn đối với người đứng đầu doanh nghiệp, đối với nhân viên; trách nhiệm của các
ngành, các cấp,... Là cơ quan được Chính phủ phân công trách nhiệm quản lý Nhà
nước về an ninh trật tự đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, Bộ Công an đã
15
ban hành Thông tư, Kế hoạch hướng dẫn tổ chức thực hiện thống nhất trong cả
nước.
Hiện nay, các vấn đề pháp lý liên quan đến kinh doanh dịch vụ bảo vệ được
quy định tại Nghị định số 52/2008/NĐ-CP ngày 22/4/2008 của Chính phủ về quản
lý kinh doanh dịch vụ bảo vệ và Thông tư số 45/2009/TT-BCA ngày 14/07/2009
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 52/2008/NĐ-CP của Chính phủ
về quản lý kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Pháp luật về kinh doanh dịch vụ bảo vệ hiện nay quy định khá đầy đủ về
nhiều nội dung. Cơ bản có thể kể đến là:
- Các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ bảo vệ đó là: Điều kiện về
vốn pháp định; Điều kiện về địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện của
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ; Điều kiện, tiêu chuẩn đối với người đứng
đầu doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ; Điều kiện, tiêu chuẩn đối với nhân
viên dịch vụ bảo vệ và Điều kiện về an ninh, trật tự.
- Các quy định về phạm vi và nguyên tắc tổ chức, hoạt động kinh doanh dịch
vụ bảo vệ và các hành vi bị cấm trong kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
- Các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ
bảo vệ. Nhóm quy định loại này giữ vai trò quan trọng trong việc xác định quyền
hạn và trách nhiệm của các cơ quan chức năng đối với hoạt động kinh doanh dịch
vụ bảo vệ. Việc kiểm soát hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ là hết sức cần thiết.
- Các quy định về xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Các quy định về xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ cho phép
các cơ quan chức năng tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
trong suốt quá trình từ khi doanh nghiệp xin cấp giấy xác nhận đủ điều kiện về an
ninh, trật tự để làm ngành, nghề có điều kiện đến suốt quá trình diễn ra mọi hoạt
động kinh doanh dịch vụ bảo vệ của doanh nghiệp.
16
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
DỊCH VỤ BẢO VỆ Ở VIỆT NAM
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về kinh doanh dịch vụ bảo vệ
2.1.1. Các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ bảo vệ
2.1.1.1. Điều kiện về vốn pháp định
Theo quan điểm của khoa học kinh tế chính trị thì vốn được hiểu là tư bản bất
biến gồm tất cả các yếu tố ban đầu được đầu tư cho một quá trình sản xuất. Vốn có
một vai trò hết sức quan trọng, để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Vốn là điều kiện không thể thiếu. Nó phản ánh nguồn lực
tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Có nhiều cách phân loại vốn khác
nhau, tùy thuộc vào mục đích. Chẳng hạn như: vốn pháp định, vốn điều lệ, vốn vay,
vốn tự có,...
Luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa:“Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên,
cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều
lệ công ty” (Khoản 6 Điều 4). Còn “Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có
theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp” (Khoản 7 Điều 4).
Kể từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 có hiệu lực thì điều kiện về vốn điều
lệ của các loại hình doanh nghiệp đã được bãi bỏ. Điều này góp phần mở rộng
quyền tự do kinh doanh cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Tuy nhiên có một số ngành nghề kinh doanh có tính rủi ro cao, có tầm quan
trọng lớn trong hệ thống kinh tế quốc dân thì pháp luật phải quy định mức vốn pháp
định. Để từ đó bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng và khách hàng của các doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành nghề đó. Đồng thời để đảm bảo cho hệ thống
kinh tế quốc dân hoạt động một cách lành mạnh và phát triển. Pháp luật Việt Nam
hiện hành quy định một số ngành nghề phải có vốn pháp định, chẳng hạn như kinh
doanh bất động sản: 6 tỷ đồng Việt Nam; công ty tài chính: 300 tỷ đồng; kinh doanh
dịch vụ đòi nợ: 2 tỷ đồng,... Trong đó kinh doanh dịch vụ bảo vệ cũng là một ngành
nghề phải đáp ứng điều kiện về vốn pháp định.
17
Như vậy có thể thấy thông thường vốn điều lệ do các thành viên, cổ đông
trong công ty đóng góp khi đăng ký doanh nghiệp. Ngoài ra mức vốn điều lệ không
được nhỏ hơn mức vốn pháp định với các ngành nghề có điều kiện.
Theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP về điều kiện thành
lập, đăng ký kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì mức vốn pháp định ban đầu để thành lập
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ như sau:
- Đối với tổ chức, cá nhân trong nước: Mức vốn pháp định đối với ngành
nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ là 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng).
- Đối với doanh nghiệp nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước:
Doanh nghiệp nước ngoài phải là doanh nghiệp chuyên kinh doanh dịch vụ bảo vệ,
có số vốn và tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp từ 500.000 USD trở lên; đã có
thời gian hoạt động kinh doanh liên tục từ năm năm trở lên; có giấy chứng nhận của
cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại chứng nhận doanh nghiệp và người đại diện
cho phần vốn góp của doanh nghiệp trong liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam
chưa có hành vi vi phạm pháp luật nước sở tại hoặc pháp luật của nước có liên
quan.
Nghị định số 52/2008/NĐ-CP còn quy định rõ:“Doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ bảo vệ phải duy trì mức vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định nêu
trên trong suốt quá trình hoạt động”. Đối với số vốn được góp bằng tiền thì sẽ được
ký quỹ tại Ngân hàng thương mại được phép hoạt động tại Việt Nam. Số tiền này sẽ
được giải tỏa sau khi doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Đối với số vốn góp bằng tài sản thì phải có chứng thư của tổ chức có chức năng
định giá ở Việt Nam về kết quả định giá tài sản được đưa vào góp vốn. Chứng thư
phải còn hiệu lực tính đến ngày nộp hồ sơ tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm
quyền.
Đối với trường hợp liên doanh với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ
nước ngoài Thông tư số 45/2009/TT-BCA có hướng dẫn về điều kiện thành lập,
kinh doanh dịch vụ bảo vệ như sau: Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ trong
nước chỉ được hợp tác đầu tư với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ nước
18
ngoài trong trường hợp đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật, công nghệ cao mà phía
Việt Nam chưa đáp ứng được và chỉ thực hiện dưới hình thức liên doanh góp vốn,
đầu tư trang bị kỹ thuật, nghiệp vụ bảo vệ, trong đó phần vốn góp của doanh nghiệp
nước ngoài chỉ được dưới 50% vốn pháp định và tổng giá trị tài sản của doanh
nghiệp liên doanh. Không sử dụng người nước ngoài làm nhân viên bảo vệ. (Khoản
5 Điều 3 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP).
Trong hồ sơ thành lập, đăng ký kinh doanh dịch vụ bảo vệ đối với doanh
nghiệp nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước phải có các giấy tờ, tài
liệu sau:
a) Giấy xác nhận của cơ quan quản lý khoa học và công nghệ từ cấp tỉnh trở
lên xác nhận trang bị kỹ thuật của nước ngoài được sử dụng để liên doanh với
doanh nghiệp trong nước là trang bị kỹ thuật có yêu cầu công nghệ cao mà Việt
Nam chưa sản xuất được;
b) Tài liệu chứng minh doanh nghiệp nước ngoài đó là doanh nghiệp chuyên
kinh doanh dịch vụ bảo vệ, không tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác;
c) Tài liệu chứng minh doanh nghiệp nước ngoài đó có số vốn và tổng giá trị
tài sản của doanh nghiệp từ 500.000 USD trở lên và đã có thời gian hoạt động kinh
doanh liên tục từ năm năm trở lên, tính đến ngày đăng ký liên doanh với doanh
nghiệp trong nước.
Như chúng ta đã biết vốn pháp định có ý nghĩa như là điều kiện vật chất tối
thiểu cần có để kinh doanh ngành nghề nhất định. Việc quy định điều kiện về vốn
pháp định đối với kinh doanh dịch vụ bảo vệ là nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn
của ngành nghề này, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Tuy nhiên doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ bảo vệ không phải là tổ chức tín dụng, việc quy định điều kiện
vốn pháp định như vậy liệu có công bằng với họ không? Điều này ít nhiều đã hạn
chế quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, hạn chế sự tham gia của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh loại hình dịch vụ mới này.
19
2.1.1.2. Điều kiện về địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện
của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP của Chính phủ về
quản lý kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì:
“1. Địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ bảo vệ phải ổn định ít nhất từ một năm trở lên; nếu là nhà thuộc sở
hữu của người đứng tên đăng ký kinh doanh thì trong hồ sơ đăng ký kinh doanh
phải có giấy tờ hợp lệ, nếu là nhà thuê thì phải có hợp đồng thuê nhà có thời hạn
thuê từ một năm trở lên.
2. Trường hợp chuyển địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện
của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì người đứng đầu chi nhánh, văn
phòng đại diện phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan Công an cấp tỉnh nơi đi
và nơi đến chậm nhất là mười lăm ngày trước khi thực hiện việc di chuyển địa
điểm”.
Theo quy định trên thì doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải có địa
điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện phải ổn định ít nhất từ một năm trở
lên. Có nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ tối thiểu cũng phải hoạt
động tại địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp là một
năm. Quy định này nhằm tạo nên sự ổn định về trụ sở, chi nhánh hay văn phòng đại
diện của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Khách hàng có nhu cầu sử dụng
dịch vụ bảo vệ sẽ dễ dàng tìm đến công ty bảo vệ theo đúng địa chỉ đã có và không
mất thời gian tìm hiểu lại về địa chỉ của công ty bảo vệ đó.
Nếu trong trường hợp chuyển địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại
diện của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì người đứng đầu chi nhánh,
văn phòng đại diện phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan Công an cấp tỉnh nơi
đi và nơi đến chậm nhất là mười lăm ngày trước khi thực hiện việc di chuyển địa
điểm. Quy định về trường hợp chuyển địa điểm trụ sở, văn phòng đại diện, chi
nhánh của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở đây không quy định rõ thời
gian hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ tại địa điểm đang hoạt
20
động là bao nhiêu thì được chuyển? Hay đang trong thời gian doanh nghiệp đang
hoạt động mà chưa được một năm tại trụ sở đó thì doanh nghiệp có được chuyển địa
điểm hoạt động mới không? Do vậy, cần có quy định cụ thể, rõ ràng về thời gian mà
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ được phép chuyển đổi địa điểm đặt trụ sở,
chi nhánh, văn phòng đại diện.
2.1.1.3. Điều kiện, tiêu chuẩn đối với người đứng đầu doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ bảo vệ
Điều 11 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP quy định về điều kiện, tiêu chuẩn đối
với người đứng đầu doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ như sau:
“1. Người đứng đầu doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và những
người trong Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị; Tổng Giám đốc, Phó Tổng
giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc và các sáng lập viên tham gia thành lập doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có đạo đức tốt, lý lịch rõ ràng và
không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 4 Nghị định này;
b) Có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên thuộc một trong các
ngành kinh tế, luật.
2. Những người đã làm việc cho doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ
khác đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh còn phải thoả mãn thêm
điều kiện: trong ba năm trước liền kề không làm quản lý hoặc giữ chức danh chủ
chốt của doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.
Khi thay đổi người quản lý và các chức vụ chủ chốt của doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ bảo vệ, thay đổi mức vốn điều lệ, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
bảo vệ phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký kinh
doanh và phải đáp ứng đủ các điều kiện về an ninh, trật tự, về vốn theo quy định tại
Nghị định này và phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ
quan Công an có thẩm quyền trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày có sự thay đổi
đó (Điều 12 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP).
21
Thứ nhất, người đứng đầu doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và
những người trong Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị; Tổng Giám đốc, Phó
Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc và các sáng lập viên tham gia thành lập
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có
đạo đức tốt, lý lịch rõ ràng và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại
Điều 4 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP. Các chủ thể này phải đáp ứng các điều kiện
sau:
- Không thuộc trường hợp mà Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật
khác cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp.
- Người đang bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định
của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính; đang chấp hành hình phạt cải tạo không
giam giữ, cấm cư trú, quản chế, bị phạt tù được hưởng án treo đang trong thời gian
thử thách hoặc bị Tòa án cấm hành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
- Người có tiền án về các tội do lỗi cố ý hoặc người đã bị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính khác nhưng chưa đủ thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi
phạm hành chính; người nghiện ma túy.
Về điều kiện năng lực hành vi dân sự: Bộ luật dân sự năm 2005 định nghĩa:
“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Bộ luật dân sự không có định
nghĩa “năng lực dân sự đầy đủ” hay “đầy đủ năng lực dân sự” nhưng tại Điều 19
có chỉ rõ “người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”, trừ một số trường
hợp nhất định. Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Như vậy, người
đứng đầu doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và những người trong Hội
đồng thành viên, Hội đồng quản trị; Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám
đốc, Phó giám đốc và các sáng lập viên tham gia thành lập doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ bảo vệ phải đáp ứng điều kiện từ đủ mười tám tuổi trở lên, không bị tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình;
không nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình. Đây cũng là điều kiện chung đối với các cá nhân kinh doanh ngành nghề