Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm đối với xây dựng pháp luật Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.29 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHOUTTHAVY INTHALANGSY

QUAN HỆ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI XÂY DỰNG PHÁP LUẬT LÀO

Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số
: 60380108

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐỨC LONG

HÀ NỘI- 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại học
Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật Quốc tế đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương trình sau đại
học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng viên Tiến sĩ Vũ Đức Long, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên, quan


tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm…
HỌC VIÊN

Phoutthavy INTHALANGSY


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật Hà Nội xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phoutthavy INTHALANGSY


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ KẾT HÔN
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI .......................................................................................6
1.1. Khái niệm quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài............................................6
1.2. Phương pháp giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trong tư
pháp quốc tế .............................................................................................................11

1.3. Các nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trong tư
pháp quốc tế .............................................................................................................16
1.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trong tư
pháp quốc tế. ............................................................................................................19
Kết luận chương 1: ......................................................................................................24
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO LÀO..................................25
2.1. Các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam ...........................................................................................................................25
2.2. Khung pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài của Việt
Nam ...........................................................................................................................29
2.3. Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài..31
2.4. Giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài .41
2.5. Thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài..........................................................................................................................45
2.6. Bài học kinh nghiệm cho pháp luật Lào .........................................................51
Kết luận chương 2: ......................................................................................................53


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI LÀO
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LÀO TRÊN CƠ
SỞ PHÁP LUẬT VIỆT NAM ....................................................................................54
3.1. Pháp luật Lào về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài...............................54
3.1.1. Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn theo quy định của
pháp luật Lào........................................................................................................54
3.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn theo pháp luật Lào
................................................................................................................................56
3.1.3. Thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài theo pháp luật Lào ...........................................................................58
3.2. Tình hình quan hệ kết hôn quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Lào .62

3.3. Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn
có yếu tố nước ngoài tại Lào ...................................................................................66
KẾT LUẬN ..................................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

CHDCND Lào

: Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

CHXHCN Việt Nam

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Luật HN&GĐ

: Luật Hôn nhân và gia đình

TANDTC

:Tòa án nhân dân tối cao

UBND


: Ủy ban nhân dân


-1-

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, chính sách mở rộng hội nhập quốc tế của Việt Nam
và CHDCND Lào đã làm cho đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Cùng với
sự phát triển của quá trình giao lưu quốc tế, các quan hệ về hôn nhân và gia đình giữa
công dân Việt Nam, công dân Lào với người nước ngoài cũng ngày càng phát triển.
Việc điều chỉnh quan hệ này trở thành một yêu cầu cấp bách, quan trọng nhằm làm ổn
định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân. Để kịp thời điều chỉnh được các quan hệ hôn nhân và gia đình nói
chung, quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài nói riêng, Nhà
Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật có giá trị như: Luật HN&GĐ năm
1986; Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
2/12/1993; Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 và một số văn bản
hướng dẫn thi hành các văn bản trên. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho sự phát triển quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Là nước anh em, CHDCND Lào học hỏi nhiều kinh nghiệm của Việt Nam, trong
đó có kinh nghiệm về hoàn thiện pháp luật hôn nhân gia đình, nhất là trong lĩnh vực
khắc phục các tiêu cực trong kết hôn có yếu tố nước ngoài. Sự hạn chế về mặt pháp
luật Lào về quan hệ hôn nhân và gia đình đã mang những hệ lụy không nhỏ? Đó là
tình trạng “lách luật”, kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế để "xuất
ngoại", kết hôn không xuất phát từ tình yêu nam nữ, sự tự nguyện… Những hiện
tượng này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
thuần phong mỹ tục. Ngoài ra, còn phải kể đến một số trường hợp lợi dụng việc kết
hôn với người nước ngoài nhằm buôn bán người, xâm phạm tình dục người phụ nữ.
Hậu quả từ những tiêu cực trong việc phụ nữ Lào kết hôn với người nước ngoài để lại

cả trước mắt và lâu dài, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã
hội, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế… Chính vì vậy, việc tìm hiểu quy định
của pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, cụ thể
là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, nhằm tìm ra kinh nghiệm cho việc xây dựng
pháp luật Lào về vấn đề này là vấn đề cấp thiết hiện nay. Chính vì vậy tôi đã chọn đề
tài “Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và


-2kinh nghiệm đối với xây dựng pháp luật Lào” làm luận văn thạc sĩ để nghiên cứu về
vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là vấn đề có tính thời sự.
Do vậy, từ trước tới nay có không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể
chia các công trình nghiên cứu về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài thành 3 nhóm lớn sau:
- Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như: Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam (Luận
văn thạc sĩ luật học của Vilayvong Senebouttarat, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2008), Hay như Tạ Tùng Hoa (2014), Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sĩ luật học của Tạ Tùng Hoa, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2014); Kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung
Quốc, Đài Loan tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sĩ luật
học của Nguyễn Đức Việt, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2014). Nhìn chung
các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề cơ bản của pháp luật Việt Nam về
quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Tuy nhiên hầu hết các
công trình trên đều được nghiên cứu dưới góc độ khác (chủ yếu là tư pháp quốc tế) hoặc
với phạm vi rộng lớn nên chỉ mang tính khái quát hoặc nghiên cứu dưới góc độ tư pháp
quốc tế, giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
- Nhóm sách giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: đầu tiên phải kể đến Giáo
trình Tư pháp Quốc tế của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, năm 2013 và

Giáo trình Tư pháp quốc tế của Khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội, Nxb. ĐHQG
Hà Nội năm 2013. Thứ hai là cuốn sách Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Nông Quốc Bình và Nguyễn
Hồng Bắc, Nxb. Tư pháp, năm 2006. Ngoài ra còn có một số bình luận khoa học Luật
HN&GĐ. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận
chung các quy định của pháp Luật HN&GĐ về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, chưa đề cập sâu đến thực tiễn thi hành các quy định của
pháp luật trong quan hệ kết hôn Việt - Lào.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong số này phải kể đến bài
viết của Đỗ Văn Chỉnh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 (1/2011) với nhan đề:


-3"Kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn áp dụng pháp luật"; "Một số vướng mắc liên
quan đến việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài" của Ngô Văn Thìn, đăng trên tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2009; "Thực trạng về việc phỏng vấn trong kết hôn với
người nước ngoài hiện nay" của Nguyễn Văn Thắng, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số chuyên đề về đăng ký khai sinh và đăng ký kết hôn… Phần lớn các bài viết này
chưa đề cập được sâu sắc và toàn diện các vấn đề của việc công dân Việt Nam kết hôn
với người nước ngoài.
Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn
diện, chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
và kinh nghiệm đối với pháp luật Lào. Các công trình nghiên cứu hoặc chủ yếu tập
trung vào một mảng cụ thể của quan hệ này hoặc nghiên cứu dưới góc độ xung đột
pháp luật. Do đó, đề tài của luận văn này hoàn toàn không có sự trùng lặp về mặt nội
dung với các công trình nghiên cứu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hôn nhân và gia
đình về việc kết hôn có yếu tố có nước ngoài của Việt Nam và thực trạng của vấn đề này
trong những năm gần đây, để từ đó đúc rút kinh nghiệm cho pháp luật Lào. Luận văn
cũng đề cập, làm rõ thực trạng pháp luật Lào về vấn đề này và đề xuất một số giải pháp

nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hơn nữa hoạt động của các thiết chế trong việc thi
hành pháp luật về kết hôn giữa công dân Lào với người nước ngoài.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn đi sâu giải quyết được những
nhiệm vụ cụ thể sau: (i) Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc kết hôn có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; (ii) Phân tích thực trạng quy định quan
hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và rút ra những bài học kinh nghiệm cho
pháp luật Lào; (iii) Đánh giá thực trạng của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài
của CHDCND Lào, tình hình quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Lào; phát hiện
các vướng mắc liên quan, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các
quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài trong pháp luật hôn nhân và gia đình Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về quan hệ kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, các quy định của Luật HN&GĐ năm


-42014; pháp luật HN&GĐ của Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới về vấn đề
này; kinh nghiệm cho pháp Luật Lào; tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Lào
trong những năm gần đây và thực trạng pháp luật điều chỉnh và các thiết chế đảm bảo
thực thi việc kết hôn giữa công dân Lào với người nước ngoài.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận
văn tập trung vào một số vấn đề sau: (i) Các quy định của pháp luật về quan hệ kết hôn
có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) Các quy định giải
quyết xung đột pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam theo quy định
của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về điều
kiện kết hôn, nghi thức kết hôn, thẩm quyền và thủ tục giải quyết quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu về quan hệ
kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trước cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam; (iii) Một số quy định của pháp luật các nước trên thế giới
về kết hôn có yếu tố nước ngoài như Anh, Mỹ, Pháp để từ đó so sánh và đối chiếu với

pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, đúc rút các bài học kinh nghiệm cho pháp
luật Lào; (iv) Thực trạng quy định pháp luật Lào về quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài; Tình hình kết hôn giữa công dân Lào với người nước ngoài mà chủ yếu là nữ
công dân Lào kết hôn với người nước ngoài trong vài năm gần đây; đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật Lào về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật;
và các phương pháp nghiên cứu cụ thể thich hợp như: phân tích luật học; phân tích - so
sánh; tổng hợp (trên cơ sở phân tích, so sánh và tham khảo pháp luật nước ngoài); trích
dẫn, thống kê, chuyên gia v.v...Trên cơ sở phương pháp phân tích,tổng hợp, đánh giá về
cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh các quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài của Việt Nam cũng như pháp luật Lào, tác giả rút ra những ưu điểm, tồn tại trong
việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện pháp luật.
6. Đóng góp của luận văn
Với tính cách là một trong những công trình khoa học (thuộc chuyên ngành tư
pháp quốc tế) nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn


-5của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại những đóng góp mới về khoa học pháp lý như sau:
Thứ nhất, luận văn phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài; chắt lọc những quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài
của một số nước trên thế giới và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối với
pháp luật Lào.
Thứ hai, luận văn đã xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình Lào về kết hôn giữa công dân Lào với người nước ngoài cần phải hoàn
thiện, những vướng mắc trong việc thực thi pháp luật cần phải khắc phục và xác định rõ

nguyên nhân của thực trạng đó. Đồng thời, luận văn đã đề xuất một số kiến nghị sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Gia đình Lào năm 2008 nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy
định của pháp luật về kết hôn giữa công dân Lào với người nước ngoài. Mặt khác, luận
văn cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế
bảo đảm thực thi việc kết hôn giữa công dân Lào với người nước ngoài.
Thứ ba, những kết quả nghiên cứu mới của luận văn sẽ là nguồn tư liệu mang
tính lý luận và thực tiễn sâu sắc để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tham
khảo góp phần sửa đổi một số quy định trong Luật HN&GĐ năm 2008 về kết hôn
giữa công dân Lào với người nước ngoài. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của
luận văn có thể được dùng làm tư liệu học tập, tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các
cơ sở đào tạo luật hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm đến quan hệ kết hôn giữa
công dân Lào với người nước ngoài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài và bài
học kinh nghiệm cho Lào.
Chương 3: Thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Lào và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật Lào trên cơ sở pháp luật Việt Nam.


-6CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ KẾT HÔN CÓ YẾU
TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
1.1.1.1. Quan hệ hôn nhân và gia đình
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó các bên chủ thể gắn kết với
nhau với mục đích tạo dựng một tế bào của xã hội là gia đình. Vì hôn nhân là cơ sở tạo

nên gia đình, nên về mặt học thuật, hôn nhân là một khách niệm gắn với khái niệm gia
đình. “Hôn nhân” và “gia đình” là hai khái niệm độc lập nhưng có mối quan hệ mật
thiết với nhau, hai khái niệm này cùng song song tồn tại và phát triển theo lịch sử phát
triển của xã hội loài người. Trước kia, trong thời kỳ tồn tại hình thức gia đình quần hôn,
khái niệm hôn nhân được hiểu là sự liên kết của nhiều người đàn ông với nhiều người
đàn bà nhằm tạo thành một gia đình. Ngày nay, khi chế độ hôn nhân một vợ một chồng
được coi là hình thức hôn nhân tiến bộ thì khái niệm hôn nhần cũng thay đổi. Có thể nói,
“hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người nữ (trừ trường hợp
ngoại lệ), sự liên kết đó phải được Nhà nước thừa nhận bằng sự phê chuẩn dưới hình
thức pháp lý đó là đăng ký kết hôn” [37; tr.6]. Dưới góc độ pháp lý, Khoản 1 và Khoản
2 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 quy định “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi đã kết hôn”, và “gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do
hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ
và quyền giữa họ với nhau” theo quy định của pháp luật.
Với cách giải thích trên cho thấy quan hệ hôn nhân là quan hệ đối nhân đặc biệt,
là quan hệ bắt đầu cho chuỗi quan hệ hôn nhân và gia đình tiếp theo. Đây là quan hệ
dựa trên yếu tố tình cảm, mục đích kết hôn là nhằm xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh
phúc, còn quan hệ gia đình là quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Trên thực tế,
quan hệ hôn nhân và gia đình bao gồm nhiều nhóm quan hệ khác nhau. Cụ thể, theo
quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014, quan hệ hôn nhân và gia đình bao
gồm các nhóm quan hệ sau: kết hôn; ly hôn; quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và
chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; nuôi con nuôi; quan hệ giám hộ.


-7Về mặt bản chất, quan hệ hôn nhân và gia đình là loại quan hệ dân sự, song nó là
quan hệ dân sự đặc biệt. Tính đặc biệt trong quan hệ hôn nhân và gia đình được thể
hiện ở yếu tố tình cảm của các bên chủ thể. Có thể nói, tình cảm của các bên chủ thể
đối với nhau được coi là cơ sở cơ bản và phổ biến trong việc xác lập quan hệ hôn
nhân. Dựa trên yếu tố tình cảm mà quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững lâu dài, không
mang tính chất nhất thời và không mang tính chất đền bù ngang giá giống như hầu hết

các quan hệ dân sự khác. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình, các
chủ thể trong quan hệ hôn nhân không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn vì lợi ích của
những người khác trong các quan hệ phát sinh từ quan hệ hôn nhân như quan hệ huyết
thống (cha mẹ với con cái) hoặc quan hệ thân thuộc (cha, mẹ, anh, em, họ hàng của các
bên vợ và chồng) [4;tr.11].
1.1.1.2. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Quan hệ hôn nhân và gia đình là loại quan hệ dân sự đặc biệt nên để xác định
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài có thể căn cứ theo quy định trên
của BLDS khi quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài là
thuật ngữ của Tư pháp quốc tế, dùng để chỉ những yếu tố cấu thành của quan hệ pháp
luật mà những yếu tố đó liên quan đến pháp luật nước ngoài. Căn cứ vào quy định của
BLDS, Luật HN&GĐ Việt Nam, việc xác định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài dựa trên các yếu tố sau:
* Về chủ thể tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình: có sự tham gia của người
nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Người nước ngoài, theo quy
định tại Khoản 2, Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính
phủ hướng dẫn thi hành các quy định của BLDS năm 2005 về quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài là: “người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm người có quốc tịch
nước ngoài và người không có quốc tịch”. Người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài
theo quy định tại Khoản 3, Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP là “người có quốc
tịch Việt Nam và người gốc Việt Nam đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài”.
* Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia
đình: Trong trường hợp các bên chủ thể là công dân Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia
đình được xem là có yếu tố nước ngoài khi sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi chấm
dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài. Sự kiện pháp lý trong
trường hợp này có thể là việc đăng ký kết hôn tiến hành ở nước ngoài, ly hôn ở nước


-8ngoài, nhận nuôi con nuôi tại nước ngoài…Ví dụ, hai công dân Việt Nam định cư tại
Cộng hòa Séc, chưa nhập quốc tịch Cộng hòa Séc, nhưng làm thủ tục kết hôn tại cơ

quan có thẩm quyền của Cộng hòa Séc.
Trên thực tế có một số trường hợp công dân Việt Nam công tác, học tập ở nước
ngoài làm thủ tục đăng ký kết hôn với nhau tại Đại sứ quán, Lãnh sự quán Việt Nam
tại nước ngoài; công dân Việt Nam đi học tập, lao động ở nước ngoài có thời hạn,
trong thời gian nghỉ phép về nước kết hôn với công dân Việt Nam ở trong nước. Đây
có thể coi là trường hợp có “yếu tố nước ngoài” nhưng về mặt pháp lý lại không phải
là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Trong trường hợp này chỉ áp dụng quy định
của pháp luật Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của Luật HN&GĐ Việt Nam và các quy
định của pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch trong nước.
* Tài sản là đối tượng của quan hệ hôn nhân và gia đình: Điều 163 BLDS Việt
Nam năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản”. Tương tự như vậy Điều 181 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiềnl à có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu
trí tuệ”. Tài sản với tư cách là đối tượng của quan hệ hôn nhân và gia đình nếu đang
tồn tại ở nước ngoài thì quan hệ đó được xem là yếu tố nước ngoài.
Như vậy, yếu tố nước ngoài có thể xuất hiện ở tất cả mọi lĩnh vực của quan hệ hôn
nhân và gia đình (kết hôn, ly hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con,
nuôi con nuôi, giám hộ). Ở trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đi sâu vào phân tích
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
1.1.2. Quan hệ kết hôn và quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm quan hệ kết hôn
Trong khoa học pháp lý hôn nhân và gia đình ở cả Việt Nam và nước ngoài, khái
niệm kết hôn được định nghĩa phù hợp với điều kiện chính trị pháp lý xã hội của mỗi
nước. Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh- Mỹ, phổ biến khái niệm cổ điển mang
quan niệm về hôn nhân Cơ đốc giáo “hôn nhân là sự liên kết tự nguyện suốt đời giữa một
người đàn ông và một người đàn bà mà không vì mục đích nào khác”. Ngoài khái niệm
trên, ngày nay một số luật gia ở Châu Âu và Mỹ quan niệm “Hôn nhân là sự liên kết pháp
lý giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” hoặc “hôn nhân là hành
vi hoặc tình trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ
chồng” [6;tr.9].



-9Ở Việt Nam, khái niệm kết hôn được đưa ra từng thời kì khác nhau. Ở chế độ Sài
Gòn cũ, khái niệm hôn nhân chưa được quy định đầy đủ mà phần nhiều là đưa ra khái
niệm “giá thú”. Hiện nay, Khoản 5, Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 quy
định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của
Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Còn theo sự giải thích của Từ điển
Luật học, kết hôn được hiểu là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ trên
nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống
với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc hòa thuận. Như vậy, quan hệ vợ
chồng được hình thành trên cơ sở của việc kết hôn. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam thì trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ cồng mà chưa tiến
hành đăng ký kết hôn thì Nhà nước không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Hệ
thống pháp luật về hôn nhân gia đình quy định nam, nữ kết hôn phải đảm bảo hai yếu
tố sau:
* Phải thể hiện ý chí của cả nam và nữ là mong muốn được kết hôn với nhau.
Yếu tố quan trọng đầu tiên là cả hai bên nam nữ phải tỏ rõ ý chí của mình là
mong muốn được cùng nhau xác lập quan hệ vợ chồng. Nam nữ kết hôn là mong
muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng và cùng nhau xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững (Điều 1 Luật HN&GĐ Việt Nam
năm 2014). Vì vậy, sự tự nguyện của nam nữ trong việc kết hôn vừa là điều kiện để
đảm bảo cho cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý và đồng thời cũng là cơ ở để xây dựng
gia đình bền vững. Đối với những trường hợp khi tiến hành đăng ký kết hôn có sự lừa
dối, cưỡng ép để được kết hôn hoặc kết hôn giả tạo thì Nhà nước không thừa nhận việc
kết hôn đó là hợp pháp.
* Phải được Nhà nước thừa nhận.
“Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình” [18; tr.3]. Hôn nhân chỉ được Nhà
nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định của pháp luật
về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. “Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai
cũng bị buộc phải tuân theo Luật hôn nhân một khi người đó kết hôn…hôn nhân không

thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái lại sự tùy tiện của người kết hôn
phải phục tùng bản chất của hôn nhân” [38; tr.5].
Như vậy, muốn được kết hôn với nhau, nam nữ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn. Pháp luật Việt Nam quy định các điều kiện kết hôn thể hiện tính


- 10 khoa học và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đồng thời cũng phù hợp với
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các điều kiện kết hôn và trường hợp cấm kết hôn
được quy định cụ thể tại Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014. Đồng thời, pháp
luật quy định việc đăng ký kết hôn phải được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo nghi thức do pháp luật quy định. Mọi nghi thức kết hôn không tuân thủ các
quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn đều không có giá trị pháp lý.
1.1.2.2. Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
Theo lý luận, quan hệ hôn nhân và gia đình trong tư pháp quốc tế là quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành, yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài đựơc thể hiện tại
Khoản 25, Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014. Các nước khác nhau có quy định khác nhau
về yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung
cũng như quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, từ những nhận
định trên, có thể định nghĩa một cách khái quát nhất về quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài, theo đó, quan hệ kết hôn có yêu tố nước ngoài là việc nam và nữ xác lập quan hệ
vợ chồng thuộc một trong các trường hợp sau: (i) Giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài; (ii) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; (iii) Giữa
công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi và chấm dứt quan hệ đó
theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan tới quan hệ đó tại nước ngoài; (iv)
Giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư tại nước ngoài.
Như vậy, quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là việc nam, nữ xác lập quan hệ
vợ chồng theo những quy định của pháp luật về các điều kiện kết hôn và đăng ký kết
hôn có yếu tố nước ngoài, tức là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là quan hệ
thuộc một trong bốn trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Trong
trường hợp này, một bên nam hoặc nữ là công dân Việt Nam (có quốc tịch Việt Nam),
thỏa mãn những điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện
kết hôn tiến hành xác lập quan hệ vợ chồng với một bên là người nước ngoài. Người
nước ngoài là người có quốc tịch nước khác mà không phải là quốc tịch Việt Nam
hoặc là người không quốc tịch. Như vậy, dấu hiệu quốc tịch là dấu hiệu để xác định
quan hệ hôn nhân và gia đình đó có phải là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài hay không và có thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế hay không.


- 11 Trường hợp thứ hai, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
Người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là người có quốc tịch nước ngoài hoặc
người không có quốc tịch đang cư trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Khi
tiến hành đăng ký kết hôn nhằm xác lập quan hệ kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tại Việt Nam thì quan hệ kết hôn của họ cũng là quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài và thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Trường hợp thứ ba, giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập,
thay đổi và chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan tới
quan hệ đó tại nước ngoài.
Trường hợp thứ tư, cả hai bên nam và nữ đều là công dân Việt Nam nhưng có ít
nhất một bên đang định cư tại nước ngoài tại thời điểm đăng ký kết hôn. Ví dụ: A là
công dân Việt Nam đang làm việc tại Pháp, do quen biết B cũng là công dân Việt Nam
đang du học tại Pháp, sau một thời gian thì hai người họ yêu thương nhau và đến cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn với nhau.
Việc pháp luật ghi nhận quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài có ý nghĩa hết sức
quan trọng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, tạo điều
kiện thuận lợi cho các bên đương sự tiến hành việc xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ
sở kết hôn. Đồng thời, mở rộng giao lưu dân sự giữa các nước với nhau. Cùng với sự
phát triển của quá trình giao lưu quốc tế, các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài nói chung, quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng phát sinh ngày

càng nhiều. Việc giải quyết tốt các vấn đề liên quan tới quan hệ này sẽ làm cho quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển, góp phần tăng
cường mối quan hệ hợp tác, giao lưu giữa các nước với nhau, làm cho các nước hiểu
nhau hơn dẫn tới mối quan hệ giữa các nước ngày càng tốt đẹp hơn.
1.2. Phương pháp giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trong tư pháp
quốc tế
1.2.1. Phương pháp xung đột
Trong tư pháp quốc tế, phương pháp xung đột được áp dụng khá sớm và phổ biến
để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm cả quan hệ kết hôn.
Phương pháp xung đột được hình thành, xây dựng trên nền tảng hệ thống các quy
phạm xung đột của pháp luật trong nước (gọi là các quy phạm xung đột thông thường)
và các quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên (quy


- 12 phạm xung đột thống nhất). Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật đặc biệt, không
trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ kết hôn mà nó chỉ ra
việc áp dụng pháp luật của nước nào đó để điều chỉnh quan hệ này. Nhiệm vụ của cơ
quan có thẩm quyền khi đăng ký việc kết hôn có yếu tố nước ngoài là phảo căn cứ vào
sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột để tìm ra pháp luật của nước nào được áp dụng.
Điều đó đồng nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành chọn pháp luật nước
này hay pháp luật nước khác để giải quyết trên cơ sở sự dẫn chiếu của quy phạm xung
đột [37; tr.14-15]. Giải quyết xung đột về kết hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm giải
quyết xung đột về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn:
* Giải quyết xung đột về điều kiện kết hôn
Để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn, đa số các nước thường áp
dụng nguyên tắc Luật nhân thân (Lex personalis) của các bên đương sự với hai hệ
thuộc chính:
- Hệ thuộc nơi cư trú của đương sự (Lex domicilli): áp dụng phổ biến tại các
nước thuộc hệ thống Luật Anh- Mỹ (Common Law). Ví dụ, theo pháp luật của Anh thì
“điều kiện kết hôn do pháp luật của nước nơi đương sự cư trú vào thời điểm lết hôn

quyết định” [31; tr.260].
- Hệ thuộc Luật quốc tịch (Lex patriae); áp dụng phổ biến tại các nước thuộc hệ
thống luật thành văn (Civil Law). Ví dụ, theo Điều 13 BLDS Đức thì: “Điều kiện kết
hôn do pháp luật của nước đương sự mang quốc tịch điều chỉnh”. Tương tự như vậy,
Điều 170 BLDS Pháp quy định: “Việc kết hôn ở nước ngoài giữa công dân Pháp với
nhau hoặc giữa công dân Pháp với người nước ngoài có giá trị (…) với điều kiện (…)
công dân pháp không vi phạm các quy định nêu tại các điều tại chương I Thiên V”
[31; tr.260]. Như vậy, điều kiện kết hôn của công dân Pháp do pháp luật của Pháp điều
chỉnh.
Ngoài ra, pháp luật một số nước còn áp dụng hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn
(Lex celebrations) để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn. Ví dụ, theo
Luật của Hoa Kỳ, điều kiện kết hôn giải quyết theo pháp luật của nước nơi tiến hành
kết hôn bất kể quốc tịch và nơi cư trú của các bên đương sự.
* Giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn


- 13 Để giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn, các nước thường áp dụng
nguyên tắc Luật nơi tiến hành kết hôn (lex loci calebarationis). Theo nguyên tắc này,
kết hôn được tiến hành tại quốc gia nào thì pháp luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng
để xác định về tính hợp pháp về mặt nghi thức của cuộc kết hôn. Ví dụ, Điều 170 BLDS
Pháp quy định: “Việc kết hôn ở nước ngoài giữa công dân pháp với nhau hoặc giữa
công dân Pháp với người nước ngoài có giá trị nếu việc kết hôn được thực hiệ theo
đúng thủ tục tại nước đó (…)”[31; tr.262].
Bên cạnh nguyên tắc chủ đạo trên, khi giải quyết xung đột về nghi thức kết hôn,
một số nước còn kèm theo điều khoản bảo lưu hoặc áp dụng nguyên tắc bổ sung. Ví dụ,
Điều 20 Luật Tư pháp quốc tế của Cộng hòa Séc quy định: “Nghi thức kết hôn xác định
theo luật nơi tiến hành kết hôn”, và “Việc kết hôn sẽ có hiệu lực nếu nó tuân theo nghi
thức dân sự”. Điều 13.3 Tư pháp quốc tế Đức quy định: “Một cuộc hôn nhân có yếu tố
nước ngoài nếu không phù hợp với pháp luật nước nơi tiến hành kết hôn, nhưng phù
hợp với pháp luật quốc tịch của đương sự thì cuộc hôn nhân đó vẫn coi là hợp pháp về

mặt nghi thức” [31; tr.263].
Nhằm mục đích thống nhất hóa việc chọn luật áp dụng về điều kiện kết hôn, nghi
thức kết hôn có yếu tố nước ngoài, các quốc gia còn ký kết, tham gia các điều ước
quốc tế song phương và đa phương. Trong các điều ước quốc tế này, hầu hết đều ghi
nhận việc điều kiện kết hôn do Luật quốc tịch các bên điều chỉnh, còn nghi thức kết
hôn tuân thủ Luật nơi tiến hành kết hôn [37; tr.16]. Ví dụ, Điều 1 Điều 5 Công ước
Lahay 1902 về giải quyết xung đột pháp luật kết hôn quy định: “Điều kiện kết hôn sẽ
do Luật quốc tịch của các bên tham gia kết hôn điều chỉnh” và “Nghi thức kết hôn
được công nhận là hợp pháp nếu nó tuân thủ theo luật nơi tiến hành kết hôn” [31;
tr.261-264]. Đối với các Điều ước quốc tế song phương, các nước thường kí với nhau
các Hiệp định tương trợ tư pháp, trong đó cũng có những quy phạm xung đột quy định
vấn đề này. Ví dụ, về điều kiện kết hôn, theo Khoản 1, Điều 20 Hiệp định tương trợ tư
pháp Việt Nam- Bungary quy định: “Các điều kiện kết hôn giữa công dân của hai
nước ký kết sẽ xác định theo pháp luật của nước ký kết mà nước kết hôn là công dân”.
Tương tự, Khoản 1 Điều 24 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam- Liên Bang Nga
quy định: “Về điều kiện kết hôn, mỗi bên đương sự phải tuân theo pháp luật của bên
ký kết mà người đó là công dân. Ngoài ra, những trường hợp cấm kết hôn, việc kết hôn
còn phải tuân theo pháp luật của bên ký kết nơi tiến hành kết hôn”.


- 14 1.2.2. Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh trực tiếp) là
phương pháp giải quyết xung đột pháp luật đối với các quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài. Phương pháp này được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất
trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế. Quy phạm thực chất phân định trực
tiếp quyền và nghĩa vụ rõ ràng của các bên tham gia vào quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài. Quy phạm thực chất được áp dụng để giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài trong hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất, khi quy phạm thực chất được pháp luật quy định áp dụng
để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, trong Khoản 2, Điều 121

Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 quy định: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình
với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có
nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định
khác”. Như vậy, người nước ngoài tại Việt Nam cũng được hưởng các quyền và nghĩa
vụ pháp lý về quan hệ hôn nhân gia đình nói chung, quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài nói riêng như công dân Việt Nam.
Trường hợp thứ hai, khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến. Khi phát sinh quan
hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thì vấn đề chọn luật điều chỉnh được đặt ra. Việc chọn
hệ thống pháp luật áp dụng điều chỉnh quan hệ đó sẽ do quy phạm xung đột quy định.
Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của nước nào thì pháp luật của nước
đó được áp dụng. Ví dụ, Khoản 2, Điều 126 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 quy
định: “Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều
kiện kết hôn”. Như vậy, trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột thì pháp luật Việt
Nam đã được áp dụng để giải quyết xung đột về điều kiện kết hôn của người nước
ngoài tại Việt Nam.
Quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các điều ước quốc tế, loại quy
phạm này người ta gọi là quy phạm thực chất thống nhất. Việc xây dựng các quy phạm
thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế là hết sức cần thiết. Nó làm hài hòa
hóa sự khác biệt trong pháp luật của các quốc gia và làm đơn giản hóa, hữu hiệu hóa
trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói
chung, quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Khi quốc gia ký kết với nhau


- 15 điều ước quốc tế, trong đó có chứa đựng quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có
thẩm quyền sẽ chiếu theo đó để xem xét và giải quyết thực chất của vấn đề trên cơ sở
áp dụng ngay quy phạm đó. Việc xây dựng các quy phạm thực chất sẽ loại trừ vấn đề
phải chọn luật và cả vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài [5; tr.37]. Quy phạm thực
chất còn được xây dựng trong pháp luật quốc gia. Loại quy phạm này còn được gọi là
quy phạm thực chất thông thường. Những quy phạm này được ghi nhận trong các văn

bản pháp luật Việt Nam ban hành. Ví dụ, Khoản 1, Khoản 3, Điều 121 Luật HN&GĐ
năm 2014 quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
1.2.3. Áp dụng tập quán pháp và áp dụng tương tự pháp luật
Thông thường, các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đều được điều chỉnh bởi
các quy định được ghi nhận trong pháp luật trong nước hoặc trong các Điều ước quốc tế
có liên quan (chủ yếu là các Hiệp định tương trợ tư pháp). Tuy nhiên, trên thực tế có
những trường hợp các quy định của pháp luật quốc gia cũng như các Điều ước quốc tế
liên quan lại không điều chỉnh. Khi đó, các tập quán quốc tế sẽ được áp dụng để điều
chỉnh một cách gián tiếp quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, không phải
bất kỳ tập quán quốc tế nào cũng được coi là nguồn pháp luật để điều chỉnh quan hệ
kết hôn có yếu tố nước ngoài. Trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, tập quán
quốc tế chỉ trở thành nguồn pháp luật của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài khi đủ
các yếu tố sau: (i) Phải được hình thành lâu đời và được áp dụng liên tục trong cuộc
sống;(ii) Nội dung phải cụ thể và rõ ràng; (iii) Được các quốc gia thừa nhận và có giá
trị ràng buộc các bên tham gia. Ở Việt Nam, trong Luật HN&GĐ năm 2014 không có
điều luật nào quy định về nguyên tắc áp dụng tập quán quốc tế. Tuy nhiên theo tinh
thần của Khoản 4, Điều 759 BLDS năm 2005, tập quán quốc tế sẽ được áp dụng để
điều chỉnh quan hệ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, nếu việc áp dụng hoặc
hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước
CHXHCN Việt Nam.
Trong trường hợp nếu không có tập quán quốc tế điều chỉnh về quan hệ kết hôn
có yếu tố nước ngoài thì sẽ giải quyết như thế nào? Về vấn đề này, trên thế giới, đã có
rất nhiều quốc gia quy định vấn đề áp dụng tương tự pháp luật. Tại Việt Nam, Luật
HN&GĐ năm 2014 cũng như BLDS năm 2005 phần các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài không có quy định cụ thể, nhưng theo tinh thần của Điều 3 BLDS năm


- 16 2005, thì trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận
thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của

pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những
nguyên tắc quy định trong Bộ luật này.
Áp dụng tương tự pháp luật trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là giải
quyết một vụ việc về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thực tế, cụ thể nào đó chưa
có quy phạm pháp luật (quy phạm thực chất hoặc quy phạm xung đột) trực tiếp điều
chỉnh trên cơ sở những nguyên tắc chung và ý thức pháp luật (dựa vào sự công bằng
và lẽ phải mà giải quyết). Như vậy, theo tinh thần của điều luật trên, nếu không có tập
quán quốc tế điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền có thể áp dụng quy định tương tự pháp luật (vận dụng các nguyên tắc
chung và ý thức pháp luật) để giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đang
nảy sinh nếu như việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái đạo đức xã
hội và đặc biệt là không vi phạm pháp luật nước áp dụng.
1.3. Các nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trong tư
pháp quốc tế
1.3.1. Luật nhân thân
Nguyên tắc luật nhân thân thường dùng để giải quyết xung đột pháp luật về điều
kiện kết hôn, bao gồm hai hệ thuộc: Hệ thuộc Luật quốc tịch (Lex patriae) được áp
dụng phổ biến tại các nước thuộc hệ thống luật thành văn (Civil Law) và Hệ thuộc nơi
cư trú của đương sư (Lex domicilli) áp dụng phổ biến tại các nước thuộc hệ thống Luật
tập quán pháp (Common Law).
1.3.1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc
Như đã trình bày, khi xác định tính hợp pháp của một cuộc kết hôn trước hết xác
định về điều kiện kết hôn. Và vì xác định điều kiện kết hôn về nội dung của cá nhân là
xác định các vấn đề thuộc quy chế pháp lý nhân thân, nên đương nhiên hệ thuộc Luật
nhân thân thường được sử dụng.
Cơ sở của nguyên tắc này là do trong số các yếu tố có thể được sử dụng làm căn
cứ để xác định luật áp dụng thì nơi thường trú và quốc tịch là hai yếu tố đáp ứng tốt
nhất yêu cầu đảm bảo tính ổn định của luật áp dụng và qua đó đảm bảo được tính ổn
định của quan hệ hôn nhân và gia đình. Nơi có tài sản và nơi thực hiện hành vi là
những yếu tố dễ thay đổi, tài sản có thể dịch chuyển dễ dàng từ nơi này sang nơi khác,



- 17 hành vi có thể được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau. Luật nơi thường trú và Luật
quốc tịch của cá nhân là cơ sở mang tính tiền đề điều chỉnh các vấn đề thuộc quy chế
nhân thân của đương sự bởi tính ổn định tương đối. Đương sự có thể thay đổi nơi
thường trú hoặc thay đổi quốc tịch, nhưng không thể thay đổi một cách thường xuyên
như dịch chuyển tài sản [38;17]. Hơn nữa, việc ưu tiên áp dụng nguyên tắc Luật quốc
tịch, phối hợp với Luật nơi cư trú cũng là nhằm tôn trọng pháp luật nơi cư trú, tôn
trọng văn hóa, thuần phong mỹ tục, trật tự xã hội nơi phát sinh và hiện diện quan hệ
hôn nhân trên thực tế.
1.3.1.2. Nội dung của nguyên tắc
Điều kiện kết hôn về nội dung là vấn đề liên quan đến nhân thân của đương sự
(như độ tuổi, ý chí, tình trạng độc thân…). Pháp luật các nước đưa ra các quy định khác
nhau về các điều kiện kết hôn về nội dung. Để xác định pháp luật được áp dụng điều
chỉnh các vấn đề liên quan đến điều kiện kết hôn giống như các quan hệ nhân thân khác,
xu hướng phổ biến trên thế giới là áp dụng Luật quốc tịch hoặc Luật nơi cư trú để xác
định điều kiện kết hôn.
Nguyên tắc này được ghi nhận trong hầu hết các Hiệp định tương trợ tư pháp mà
Việt Nam ký kết với các nước, cũng như trong pháp luật trong nước, cụ thể: Theo
Điều 126, Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014, nguyên tắc luật nhân thân của các bên
được áp dụng để xác định điều kiện kết hôn:
- Trong trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, điều
kiện kết hôn đối với bên là công dân Việt Nam được xác định theo pháp luật Việt Nam
và đối với bên là nước ngoài theo pháp luật của nước mà người nước ngoài đó có quốc
tịch. Đối với người không quốc tịch, điều kiện kết hôn được xác định theo luật nơi
thường trú.
Tuy nhiên, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các điều kiện kết hôn theo quy định
của pháp luật Việt Nam (nghĩa là tuân thủ quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ Việt
Nam năm 2014).

- Trong trường hợp kết hôn giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, người nước ngoài cũng phải tuân thủ các điều
kiện kết hôn luật nước họ có quốc tịch (hoặc thường trú), đồng thời tuân thủ các quy
định của pháp luật Việt Nam.


- 18 1.3.2. Luật nơi tiến hành kết hôn (Lex celebrationist)
1.3.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc
Do đặc điểm riêng của hành vi kết hôn làm phát sinh những hệ quả pháp lý rất
quan trọng đối với các đương sự, làm thay đổi các vấn đề thuộc quy chế nhân thân của
cá nhân, cho nên pháp luật của phần lớn các nước đều quy định hành vi kết hôn phải
được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Với quy định này, việc kết hôn được đăng ký
trước cơ quan có thẩm quyền của nước nào, thì sẽ được thực hiện theo nghi thức kết
hôn theo quy định của pháp luật nước đó. Như vậy, xác định luật áp dụng đối với nghi
thức kết hôn chỉ là vấn đề thứ yếu, vấn đề cơ bản hơn là việc xác định nước nào có
thẩm quyền đăng ký kết hôn, vì khi thực hiện đăng ký kết hôn, cơ quan nhà nước thực
hiện nghi thức kết hôn theo quy định của pháp luật của pháp luật nước mình.
Cơ sở của nguyên tắc này là “Luật nơi thực hiện hành vi” (locus regit actum).
Theo nguyên tắc này, hành vi pháp lý phải tuân thủ các điều kiện về hình thức theo
pháp luật của nước nơi thực hiện hành vi. Kết hôn là một hành vi pháp lý. Theo
nguyên tắc chung giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hành vi pháp lý
(nguyên tắc “locus regit actum”), các nước thường áp dụng luật nơi thực hiện việc kết
hôn cũng có nghĩa là tôn trọng pháp luật nước sở tại, tôn trọng các giá trị văn hóa,
thuần phong của nước này, thể hiện sự hòa nhập của vợ chồng vào môi trường xã hội.
Cho nên, pháp luật các nước đều công nhận hiệu lực về hình thức hôn nhân phù hợp
theo pháp luật nơi tiến hành kết hôn kết hôn nhưng có thể không phù hợp với pháp luật
nước mà họ có quốc tịch.
1.3.2.2. Nội dung của nguyên tắc
Hiện nay nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hôn nhân trong
tư pháp quốc tế Việt Nam và hầu hết các nước là nguyên tắc “Luật nơi tiến hành kết

hôn”, điều đó có nghĩa là các bên phải tiến hành kết hôn theo các thủ tục, nghi thức
mà pháp luật nơi tiến hành kết hôn quy định. Nói cách khác, nghi thức, thủ tục kết hôn
tại Việt Nam được xác định theo pháp luật Việt Nam. Mọi nghi thức kết hôn khác đều
không có giá trị pháp lý.
Các Hiệp định tương trợ tư pháp cũng thống nhất thừa nhận nguyên tắc này. Ví dụ,
Khoản 2, Điều 24 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam- Nga quy định: “Hình thức kết
hôn tuân thủ pháp luật của Bên ký kết nơi tiến hành kết hôn”. Tương tự, quy định này


- 19 cũng được khẳng định tại các Khoản 1, Điều 31 Hiệp định Việt Nam- Hunggari, Khoản
2, Điều 25 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam- Lào…
Trước đây, Điều 11 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật HN&GĐ năm 2000 việc kết hôn tại Việt Nam trước cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam về nghi thức kết
hôn. Việc kết hôn phải được đăng ký và phải tổ chức lễ đăng ký kết hôn trang trọng tại
trụ sở tư pháp, mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý. Hiện nay, Nghị
định số 126/2014/NĐ-CP mặc dù không quy định cụ thể như thế nhưng đã gián tiếp
khẳng định quy định này.
1.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trong tư
pháp quốc tế.
1.4.1. Pháp luật trong nước
Pháp luật trong nước với tư cách là nguồn của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài là các hình thức chưa đựng các nguyên tắc, các quy phạm
pháp luật trong nước nhằm điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Trên thực
tế, có rất nhiều hình thức chứa đựng các quy phạm và các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ
kết hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, hình thức cụ thể nào được coi là nguồn pháp
luật trong nước thì hoàn toàn phụ thuộc vào sự quy định của từng hệ thống pháp luật các
nước khác nhau. Hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 40 hệ thống pháp luật khác nhau,
nhưng có hai hệ thống pháp luật cơ bản đó là hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law
System) và hệ thống pháp luật chung Anh- Mỹ (Common Law System).

Pháp luật trong nước của các nước theo hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law)
hay còn gọi là hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, được áp dụng chủ yếu ở các nước
châu Âu. Các nước điển hình áp dụng hệ thống pháp luật Civil law là Pháp, Đức và các
nước chịu sự ảnh hưởng của hai nước này. Trong hệ thống Civil Law hình thức văn bản
được coi là nguồn pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế do sự cứng nhắc của các quy định
thành văn mà hiện nay ở nhiều nước theo hệ thống Civil Law đang có xu hướng coi án
lệ như một loại nguồn của pháp luật. Ở các nước này, trong nhiều trường hợp, các vụ
việc đã được toà án giải quyết trước đấy được các tòa án sau này vận dụng để giải quyết
các vấn đề mà các quy định pháp luật không có hoặc đã có quy định nhưng không rõ
ràng. Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật mà pháp luật trong
ngước với tư cách là nguồn của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài có thể được chia


×