Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn và thực tiễn tại các tòa án ở tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.87 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------/-------

BỘ TƯ PHÁP
--------/------

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THÙY LINH

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC THUẬN TÌNH
LY HÔN VÀ THỰC TIỄN TẠI CÁC TÒA ÁN
Ở TỈNH THÁI BÌNH
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thùy Linh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

LHN&GĐ

: Luật Hôn nhân và gia đình

LSĐBSBLTTDS

: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS


: Tố tụng dân sự

VKS

: Viện kiểm sát


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ

6

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC THUẬN TÌNH LY HÔN
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục giải quyết việc

6

thuận tình ly hôn
1.1.1.

Khái niệm thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn

6


1.1.2.

Đặc điểm thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn

10

1.1.3.

Ý nghĩa của thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn

13

1.2.

Cơ sở khoa học của việc pháp luật quy định thủ tục giải

15

quyết việc thuận tình ly hôn
1.2.1.

Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thủ tục giải

15

quyết việc thuận tình ly hôn
1.2.2.

Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định thủ tục giải


16

quyết việc thuận tình ly hôn
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

19

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC THUẬN TÌNH LY HÔN
2.1.

Yêu cầu và thụ lý đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

19

2.1.1.

Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

19

2.1.2

Thụ lý đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

22

2.2.


Chuẩn bị giải quyết và hòa giải việc yêu cầu công nhận

27

thuận tình ly hôn
2.2.1.

Chuẩn bị giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

27

2.2.2.

Hòa giải việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

28

2.3.

Phiên họp giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

30


2.3.1.

Thành phần tham gia phiên họp giải quyết việc công nhận

31


thuận tình ly hôn
2.3.2.

Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc công

33

nhận thuận tình ly hôn
Chương 3: THỰC TIỄN TIẾN HÀNH THỦ TỤC GIẢI

36

QUYẾT VIỆC THUẬN TÌNH LY HÔN TẠI CÁC TÒA
ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH THÁI BÌNH VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.

Thực tiễn giải quyết việc thuận tình ly hôn tại các Tòa án

36

nhân dân tỉnh Thái Bình
3.1.1.

Khái quát tình hình kinh tế - xã hội và việc xin ly hôn ở

36

tỉnh Thái Bình
3.1.2.


Tình hình giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

37

và những kết quả đạt được trong thực tiễn tiến hành thủ
tục giải quyết việc thuận tình ly hôn tại các Tòa án nhân
dân tỉnh Thái Bình
3.1.3.

Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục

40

giải quyết việc thuận tình ly hôn tại các Tòa án nhân dân
tỉnh Thái Bình
3.2.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc

50

thuận tình ly hôn
3.2.1.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết việc

50

thuận tình ly hôn
3.2.2.


Kiến nghị thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết việc

54

thuận tình ly hôn
KẾT LUẬN

60

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

62


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam là
xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo định hướng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, hoạt
động tư pháp có vai trò đặc biệt quan trọng. Việc kiện toàn, nâng cao chất
lượng, hiệu quả của hoạt động tư pháp được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm. Để cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp mà
trong đó, Tòa án là trung tâm, thì trước hết phải nâng cao chất lượng hoạt
động xét xử, giải quyết các vụ việc của Tòa án. Thực tế hoạt động xét xử, giải
quyết các loại vụ việc dân sự của ngành Tòa án nhân dân (TAND) cho thấy số
lượng vụ việc về ly hôn ngày càng tăng, đa dạng và phức tạp. Hoạt động giải
quyết các loại vụ việc ly hôn của ngành Tòa án trong những năm vừa qua vẫn

còn nhiều điểm bất cập, trong đó, các TAND ở tỉnh Thái Bình cũng không
ngoại lệ. Trong tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu làm rõ các vấn đề liên
quan đến thủ tục giải quyết việc ly hôn nói chung và thủ tục giải quyết việc
thuận tình ly hôn nói riêng là cần thiết. Vì vậy, Học viên đã chọn đề tài: “Thủ
tục giải quyết việc thuận tình ly hôn và thực tiễn tại các Tòa án ở tỉnh Thái
Bình” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ nhằm góp phần khắc phục những bất
cập, nâng cao hiệu quả giải quyết việc thuận tình ly hôn của Tòa án và đồng
thời góp phần thực hiện thắng lợi Công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta.
2. Tình hành nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, nhất là từ sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) và Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
(LSĐBSBLTTDS) được ban hành đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về thủ tục giải quyết việc dân sự trong đó có đề cập tới những vấn đề liên
quan đến thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn như: Đề tài cấp cơ sở “Việc


2

dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân dân”, do tiến sĩ Bùi
Thị Huyền làm chủ nhiệm đề tài và thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2008; Đề tài cấp bộ "Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo
yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và
giải pháp" do tiến sĩ Trần Anh Tuấn chủ nhiệm, thực hiện tại Trường Đại học
Luật Hà Nội năm 2014; Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường
Đại học Luật Hà Nội, do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2012; Bài
“Một số quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự” của tác giả Tưởng
Duy Lượng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) số 6/2005;
Bài “Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự”
của tác giả Lê Thu Hà đăng trên Tạp chí TANDTC, số 12/2006; Luận văn
thạc sĩ luật học "Hoà giải vụ án hôn nhân và gia đình" của tác giả Nguyễn

Thị Hương, bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm
2011; Luận văn thạc sĩ luật học "Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Khuất Thị Thu Hiền, bảo vệ tại
Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014 v.v...Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách
chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về thủ tục giải quyết việc thuận
tình ly hôn và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thủ tục giải
quyết việc thuận tình ly hôn, các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết
việc thuận tình ly hôn và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án ở tỉnh
Thái Bình.
Phạm vi nghiên cứu đề tài tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về
thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn, các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn và


3

thực tiễn giải quyết việc thuận tình ly hôn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái
Bình trong những năm gần đây.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt nam về cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, quá trình nghiên cứu cũng đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp
so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử v.v...để làm rõ những
vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu đề tài.

5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận, nội
dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ
tục giải quyết việc thuận tình ly hôn và đánh giá đúng thực trạng thực hiện
các quy định này và thực tiễn thực hiện chúng trong hoạt động giải quyết các
việc thuận tình ly hôn của các Tòa án ở tỉnh Thái Bình. Mặt khác, tìm ra
những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết việc
thuận tình ly hôn và vướng mắc trong việc thực tiễn thực hiện chúng từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, bất cập và vướng mắc để nâng
cao hiệu quả giải quyết các việc thuận tình ly hôn tại các Tòa án.
Để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ
nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết
việc thuận tình ly hôn; phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly
hôn; khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định này trong hoạt động giải quyết
các việc thuận tình ly hôn của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Bình trong


4

những năm gần đây; đánh giá được những ưu điểm, hạn chế và những nguyên
nhân của những hạn chế đó đồng thời tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong giải quyết các việc thuận tình ly hôn tại Tòa án.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên nghiên cứu một
cách đầy đủ và toàn diện về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn và thực
tiễn giải quyết tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Bình. Vì vậy, luận văn có
những đóng góp cho khoa học chuyên ngành luật dân sự ở những điểm sau:
- Xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục giải
quyết việc thuận tình ly hôn;

- Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn;
- Đánh giá đúng thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn tại các
Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Bình đồng thời chỉ ra được những hạn chế, bất
cập của các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành và
thực tiễn thực hiện chúng cũng như những nguyên nhân của những hạn chế,
bất cập đó.
- Đề xuất được một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn .
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết việc
thuận tình ly hôn


5

Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn
Chương 3: Thực tiễn tiến hành thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn
tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Bình và kiến nghị.


6

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT

VIỆC THUẬN TÌNH LY HÔN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT VIỆC THUẬN TÌNH LY HÔN
1.1.1. Khái niệm thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn
Trước khi BLTTDS năm 2004 được ban hành, các văn bản quy phạm
pháp luật quy định về thủ tục tố tụng dân sự gồm có Pháp lệnh thủ tục giải
quyết vụ án dân sự năm 1989, Pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động năm 1996, Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngoài năm 1993, Pháp lệnh công nhận và thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của trọng tài nước ngoài năm
1995 đều mới chỉ đề cập đến thuật ngữ “vụ án dân sự”, chưa hề có thuật ngữ
“việc dân sự”. Tất cả các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, dù các bên
có tranh chấp hay không có tranh chấp đều được gọi chung là vụ án.
Cho đến khi BLTTDS năm 2004 được ban hành, lần đầu tiên thuật ngữ
“việc dân sự” được ghi nhận trong pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) Việt
Nam. Điều 1 BLTTDS quy định vụ việc dân sự bao gồm: vụ án dân sự và
việc dân sự.
Điều 311 BLTTDS quy định về khái niệm “việc dân sự”:
"Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp,
nhưng có yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp
lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức


7

khác; yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động"[14].

Các loại việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án bao gồm những yêu
cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được
quy định cụ thể tại các Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều 32 BLTTDS [15].
Trong đó, những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án theo quy định tại Điều 28 BLTTDS gồm có:
“1. Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
2. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
3. Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn.
4. Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
5. Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
6. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài hoặc không công
nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước
ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
7. Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy
định”[14].
Theo đó, việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là một trong số
những loại việc dân sự yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án.
Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình (LHN&GĐ) năm
2014 quy định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [16]. Như vậy, ly hôn là việc chấm


8

dứt quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện của ít nhất một bên chủ thể và trên
cơ sở đó, Tòa án sẽ xem xét giải quyết cho vợ chồng ly hôn hay không ly hôn.

Thuận tình là sự tự nguyện của của các bên, cùng thống nhất về một
vấn đề nào đó. Theo Từ điển Luật học, thuận tình ly hôn là vợ chồng cùng
yêu cầu TAND cho phép học được ly hôn [37,tr.732].
Tại Điều 55 LHN&GĐ năm 2014 quy định về thuận tình ly hôn như
sau: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên
thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng
của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận
được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ
và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”[16]. Từ đó có thể hiểu, thuận tình ly
hôn là việc hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân (được thể
hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng) và cùng thỏa thuận giải quyết
được các mối quan hệ về hôn nhân, tài sản và con cái.
Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là một loại việc dân sự nên nó có
những đặc điểm cơ bản của việc dân sự như sau:
Thứ nhất, các đương sự trong việc dân sự yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn không có tranh chấp với nhau về quyền và lợi ích hợp pháp. Đây là
một trong những đặc điểm cơ bản của việc dân sự để giúp phân biệt giữa việc
dân sự và vụ án dân sự. Trong vụ án dân sự, các đương sự có tranh chấp với
nhau về quyền và lợi ích còn việc dân sự thì không. Sở dĩ việc dân sự không
có tranh chấp giữa các đương sự là do các đương sự đã tự thỏa thuận được với
nhau về các tình tiết trong sự việc, những quyền và lợi ích giữa các đương sự
và họ cùng yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó.


9

Thứ hai, việc dân sự yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn không có
nguyên đơn và bị đơn như trong vụ án ly hôn vì không có tranh chấp mà chỉ
có người yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn.

Thứ ba, từ yêu cầu của đương sự, Tòa án sẽ công nhận hoặc không
công nhận yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và từ đó làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ cho các đương sự.
BLTTDS quy định có hai loại vụ việc là vụ án dân sự và việc dân sự,
tương ứng với nó có hai thủ tục tố tụng giải quyết là thủ tục giải quyết việc
dân sự và thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Việc pháp luật quy định thủ tục tố
tụng giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết việc dân sự
nói riêng nhằm bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân
sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thủ tục là cách thức tiến hành một công
việc với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của cơ quan nhà nước
[27,tr.1596]. Theo Từ điển tiếng Việt, thủ tục là những việc phải làm theo một
trật tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức
[36,tr.960]. Theo Từ điển Luật học, thủ tục tố tụng là cách thức trình tự và
nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được
thụ lý hoặc khởi tố theo quy định của pháp luật [37,tr.729].
Theo Điều 28 BLTTDS, yêu cầu thuận tình ly hôn là một loại việc dân
sự nên việc giải quyết yêu cầu này cũng được thực hiện theo thủ tục giải
quyết việc dân sự. Tuy nhiên, việc yêu cầu thuận tình ly hôn có điểm khác
biệt so với các việc dân sự khác là các đương sự yêu cầu Tòa án xác định
những sự kiện pháp lý mà quan hệ hôn nhân giữa họ phụ thuộc vào nó và
thông qua đó quyết định chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa họ. Vì vậy, bên
cạnh việc giải quyết theo quy định chung về giải quyết việc dân sự cũng cần
có những quy định riêng về thủ tục giải quyết loại việc này.


10

Từ những vấn đề nêu trên có thể rút ra kết luận như sau:
"Thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn là những công việc do Tòa án

có thẩm quyền tiến hành theo trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định để
xem xét, chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
của vợ chồng từ giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu đến khi quyết định công nhận
thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật."
1.1.2. Đặc điểm thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn
Việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là một loại việc dân sự được
giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự nên thủ tục giải quyết việc thuận
tình ly hôn cũng có những đặc điểm của một thủ tục giải quyết việc dân sự
như sau:
Thứ nhất, về nguyên tắc áp dụng pháp luật trong thủ tục giải quyết giải
quyết việc thuận tình ly hôn.
Về cơ bản, các nguyên tắc của tố tụng dân sự quy định tại Chương II
BLTTDS được áp dụng để giải quyết việc công nhận thuận tình ly hôn. Tuy
nhiên, không phải tất cả các nguyên tắc quy định tại Chương II BLTTDS đều
được áp dụng để giải quyết việc công nhận thuận tình ly hôn như vụ án dân sự
mà do tính chất đặc thù của việc dân sự nên có một số nguyên tắc không được
áp dụng như nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử quy định tại
Điều 11 BLTTDS hay nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể quy định tại Điều 14
BLTTDS cũng không được áp dụng khi giải quyết việc dân sự.
Thứ hai, về thành phần tiến hành tố tụng giải quyết việc công nhận
thuận tình ly hôn.
Vụ án dân sự và việc dân sự có những điểm khác nhau cơ bản, do vậy
thành phần tiến hành tố tụng giải quyết hai loại vụ việc này có sự khác nhau.
Theo Điều 52 BLTTDS thì thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
có Hội thẩm nhân dân tham gia, trong khi theo quy định tại Điều 54 BLTTDS


11

thì thành phần giải quyết việc dân sự ở cấp sơ thẩm thì không có sự tham gia

của Hội thẩm nhân dân. Tùy vào các loại việc dân sự khác nhau mà phiên họp
giải quyết việc dân sự sẽ do một hoặc ba Thẩm phán giải quyết. Trong đó,
thành phần tiến hành tố tụng giải quyết việc công nhận thuận tình ly hôn chỉ
có 01 Thẩm phán.
Thứ ba, sự tham gia của Viện kiểm sát trong thủ tục giải quyết việc
thuận tình ly hôn.
Đối với vụ án dân sự, theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS thì
Viện kiểm sát (VKS) chỉ tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do
Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công,
lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Đối với
việc dân sự, theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS thì VKS phải tham
gia tất cả các phiên họp giải quyết việc dân sự. Sở dĩ có sự khác biệt này là do
thành phần giải quyết việc dân sự chỉ do một hoặc ba Thẩm phán giải quyết,
không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân nên để đảm bảo việc giải quyết
được khách quan, tránh lạm quyền của Thẩm phán, VKS phải kiểm soát chặt
chẽ hơn. Do vậy, VKS phải tham gia tất cả các phiên họp giải quyết việc
thuận tình ly hôn.
Thứ tư, về trình tự, thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn.
Đối với việc giải quyết vụ án dân sự, pháp luật quy định Tòa án phải
tiến hành hòa giải trước khi xét xử để các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến
hành hòa giải được theo quy định tại Điều 181 và Điều 182 BLTTDS. Còn
đối với việc giải quyết việc dân sự, do không có tranh chấp giữa các bên nên
không phải tất cả các việc dân sự đều có thể hoà giải khi giải quyết. Đây là
vấn đề còn đang được tranh luận.


12


Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là loại việc không có tranh chấp,
đương sự chỉ yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của họ. Vì vậy, trong thủ tục giải
quyết việc thuận tình ly hôn pháp luật không quy định Tòa án phải mở phiên
tòa mà mở phiên họp để giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Mặt
khác, pháp luật cũng không quy định thủ tục tranh luận tại phiên họp. Sau khi
nghe các bên đương sự trình bày và đại diện Viện kiểm sát phát biểu, Thẩm
phán xem xét ra quyết định giải quyết việc dân sự.
Ngoài những đặc điểm chung của thủ tục giải quyết việc dân sự, thủ tục
giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn còn có một số đặc điểm
riêng.
- Về thủ tục hòa giải:
Tuy pháp luật TTDS không quy định khi giải quyết việc dân sự phải
tiến hành hòa giải nhưng tại Điều 10 BLTTDS quy định: “Toà án có trách
nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả
thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
BLTTDS”[14] và tại Điều 54 LHN&GĐ năm 2014 quy định: “Sau khi đã thụ
lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự”[16]. Do tính chất đặc thù của ly hôn nên khi giải quyết việc
dân sự yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, Tòa án vẫn phải tiến hành hòa
giải. Theo đó, Tòa án sẽ tiến hành hòa giải với mục đích đương sự rút đơn yêu
cầu và quay về đoàn tụ với nhau. Nếu hòa giải đoàn tụ không thành, Tòa án
bắt đầu xét đến nội dung các đương sự đã thỏa thuận trước đó. Đây là đặc
điểm riêng của thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn so với các thủ tục giải
quyết việc dân sự khác.
- Về thủ tục kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc
yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn:


13


Theo Điều 316 BLTTDS quy định: “Người yêu cầu và cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định giải quyết việc
dân sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự để yêu cầu
Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ các quyết
định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 BLTTDS”[14].
Do tính chất của việc thuận tình ly hôn là các đương sự đã thỏa thuận
được toàn bộ vụ án trước khi ra Tòa án giải quyết nên sau khi Tòa án mở
phiên họp giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và ra quyết định
giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, các đương sự không có quyền
kháng cáo và VKS không có quyền kháng nghị đối với quyết định này. Quyết
định giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực ngay sau khi
được ban hành.
1.1.3. Ý nghĩa của thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn
Việc quy định về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn có ý nghĩa cả
về lý luận và thực tiễn thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, việc quy định về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn đơn
giản hóa thủ tục giải quyết vụ việc, rút ngắn được thời gian giải quyết vụ việc,
giảm áp lực về công việc cho các Tòa án.
Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là việc giữa các đương sự không
có tranh chấp nên thủ tục giải quyết cần đơn giản hơn thủ tục giải quyết vụ án
dân sự xin ly hôn. Việc Tòa án giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
theo thủ tục giải quyết việc dân sự sẽ giúp rút ngắn thời gian giải quyết, giảm
áp lực công việc cho Tòa án khi phải giải quyết một số lượng vụ việc lớn, các
Thẩm phán cũng có nhiều thời gian để nghiên cứu những vụ việc có tính chất
phức tạp hơn, từ đó nâng cao được hiệu quả giải quyết các vụ việc. Đặc biệt là
đối với việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, các đương sự đã thỏa thuận



14

với nhau về cách thức giải quyết vụ việc thì việc giải quyết của Tòa án sẽ
thuận lợi hơn, tốn ít thời gian hơn.
Thứ hai, việc quy định về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn bảo
đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân
sự.
Trong tố tụng dân sự, các đương sự có quyền tự định đoạt việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án và có quyền quyết định
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp họ đã giải quyết được
những mâu thuẫn bằng con đường thỏa thuận và muốn sự thỏa thuận đó có
giá trị về mặt pháp lý, họ yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó thì Tòa
án phải công nhận. Thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn thực chất là thủ
tục để Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về ly hôn nên nó có
ý nghĩa bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự.
Thứ ba, việc quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và
thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn nói riêng còn tạo được điều kiện
thuận lợi cho các đương sự trong việc tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước Tòa án.
Đối với việc ly hôn thì việc quy định thủ tục giải quyết đơn giản càng
có ý nghĩa. Bởi, thủ tục giải quyết vụ việc đơn giản nó không chỉ giúp Tòa án
giải quyết nhanh vụ việc mà còn giúp cho các đương sự đỡ tốn kém, phiền hà
trong việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước
Tòa án. Mặt khác, thủ tục giải quyết ly hôn đơn giản còn tránh được việc
khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa các đương sự trong quá trình giải quyết, giúp
các bên đương sự dù không còn tồn tại quan hệ hôn nhân nhưng vẫn có thể có
quan hệ tốt với nhau, nhất là trong điều kiện họ đã có con chung thì vẫn phải
cùng nhau nuôi dạy con chung sau khi ly hôn.



15

1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC THUẬN TÌNH LY HÔN
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thủ tục giải quyết
việc thuận tình ly hôn
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên
nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục được Hiến pháp quy định nhằm
đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân và công lý. Nhà nước pháp quyền
ở bất cứ quốc gia nào đều được tổ chức và hoạt động dựa trên nền tảng của
một hệ thống pháp luật. Do đó, để xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và chế định về thủ tục giải
quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn trong tố tụng dân sự nói riêng là
đòi hỏi tất yếu để thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp. Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 đã đề ra một trong những nhiệm vụ của cải cách tư
pháp là “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS” để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [3].
- Yêu cầu của Công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Đảng và
Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, trong đó đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo và các nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp [1]. Tiếp đó, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống



16

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ cần
phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ,
bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự
tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp” [2]. Ngày
02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó xác định rõ mục tiêu, quan
điểm, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp [3]. Như vậy, từ những yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi pháp luật TTDS phải xây dựng một
cơ chế giải quyết linh hoạt, đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng, tiết kiệm thời
gian, chi phí tố tụng của Nhà nước và của đương sự, đồng thời bảo vệ kịp thời
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện
thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết việc yêu cầu công
nhận thuận tình ly hôn nói riêng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc cải cách tư
pháp.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định thủ tục giải quyết
việc thuận tình ly hôn
Khi cả hai vợ chồng đều nhận thấy cuộc sống hôn nhân của họ không
còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, họ muốn ly hôn để giải
phóng cho nhau. Cả hai vợ chồng đều thuận tình ly hôn và yêu cầu Tòa án
giải quyết việc này. Thực tiễn giải quyết vụ việc ly hôn tại Tòa án cho thấy,
thuận tình ly hôn là việc giữa các đương sự không có tranh chấp, họ đã thỏa
thuận được với nhau về cách thức giải quyết toàn bộ vụ việc trước khi ra Tòa
án giải quyết và họ chỉ có đơn ra Tòa án để yêu cầu Tòa án chấp nhận những
thỏa thuận đó của họ. Từ đó đặt ra yêu cầu phải có một thủ tục riêng đơn giản
hơn thủ tục giải quyết vụ án dân sự để giải quyết loại việc này.
Trước khi BLTTDS được ban hành và có hiệu lực, Pháp lệnh về thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự và các văn bản hướng dẫn không có quy định về



17

việc tách biệt giữa việc dân sự và vụ án dân sự. Vì vậy, vụ án dân sự và việc
dân sự đều được giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Tất cả các vụ
việc về ly hôn gồm xin ly hôn và thuận tình ly hôn đều được giải quyết theo
thủ tục giải quyết vụ án ly hôn. Tuy nhiên, từ thực tiễn giải quyết cho thấy,
việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn có tính chất đơn giản hơn vụ án ly
hôn nên cần có một thủ tục giải quyết riêng, đơn giản hơn, không tốn thời
gian của Tòa án cũng như của đương sự. Do đó, từ khi BLTTDS được ban
hành và có hiệu lực, đã có quy định tách riêng hai thủ tục giải quyết vụ án dân
sự và việc dân sự. Theo đó, việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là việc
dân sự nên được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự.


18

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Từ khi BLTTDS năm 2004 được ban hành, lần đầu tiên khái niệm việc
dân sự được đưa ra, cùng với đó là những quy định về thủ tục giải việc dân
sự, trong đó có thủ tục giải quyết việc dân sự yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn. Thủ tục giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là một loại
thủ tục giải quyết việc dân sự nên nó có những đặc điểm chung của một thủ
tục giải quyết việc dân sự. Ngoài ra, do đặc thù của yêu cầu công nhận thuận
tình ly hôn nên thủ tục giải quyết việc yêu cầu này cũng có một số đặc điểm
riêng biệt. Quy định này của BLTTDS hiện hành có ý nghĩa quan trọng, đáp
ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp của đất nước, cũng như yêu
cầu của tình hình thực tiễn khi số lượng vụ việc về ly hôn ngày càng tăng.



19

Chương 2:
NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC THUẬN
TÌNH LY HÔN
2.1. YÊU CẦU VÀ THỤ LÝ ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN
THUẬN TÌNH LY HÔN
2.1.1. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
Theo Điều 51 LHN&GĐ năm 2014 quy định về quyền yêu cầu giải
quyết ly hôn thì:
“1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân
của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có
thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”[16].
Theo đó, vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có thể yêu cầu Tòa án giải
quyết cho ly hôn. Tuy nhiên, không phải khi vợ chồng yêu cầu Tòa án giải
quyết ly hôn là Tòa án giải quyết cho ly hôn ngay. Khi nhận được yêu cầu xin
ly hôn, Tòa án phải dựa vào thực chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đó
mới đánh giá một cách khách quan để giải quyết ly hôn, không dựa vào ý chí
chủ quan của cán bộ Tòa án hay của các đương sự để giải quyết. Tòa án xem
xét, quyết định cho ly hôn khi đáp ứng được căn cứ ly hôn do pháp luật quy
định. Những căn cứ ly hôn này phải phù hợp với thực tế mâu thuẫn trong đời
sống vợ chồng. Căn cứ ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 56 LHN&GĐ
năm 2014 như sau: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án



20

không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng
có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của
vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”[16].
Khi xem xét yêu cầu ly hôn, Toà án xem xét việc vợ, chồng có hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng
làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly
hôn.
Hiện nay, pháp luật không có quy định hướng dẫn thế nào là hôn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
của hôn nhân không đạt được, nên khi giải quyết đơn xin ly hôn, Thẩm phán
phải tự phán đoán, đưa ra quyết định tình trạng quan hệ hôn nhân đã đủ căn
cứ cho ly hôn chưa. Việc không có quy định hướng dẫn này làm tăng tính độc
lập cho mỗi Thẩm phán. Tuy nhiên, có thể tham khảo quy định tại mục 8
Nghị quyết 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của LHN&GĐ
năm 2000 để xác định căn cứ cho ly hôn:
- Tình trạng của vợ chồng trầm trọng được hiểu là khi:
+ Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như
người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
+ Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường
xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và
uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn

thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.


×