Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một cá nhân theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Đông Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG XUÂN HIẾU

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MẤT TÍCH,
TUYÊN BỐ CHẾT ĐỐI VỚI MỘT CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH

Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

MÃ SỐ

: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Thu Hà

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.


Tác giả

Hoàng Xuân Hiếu


LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp Cao học được hoàn thành tại Đại học Luật Hà Nội. Có được
bản luận văn tốt nghiệp này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất
đến TS. Lê Thu Hà– người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em với những chỉ dẫn tận
tình trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài: “Thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một cá nhân theo pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Đông
Anh”.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô giáo trong tổ bộ môn Luật tố tụng dân
sự đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành Luật tố
tụng dân sự cho em trong những năm tháng qua.
Xin gửi tới Tòa án nhân dân huyện Đông Anh lời cảm tạ sâu sắc nhất vì đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp tác giả thu thập số liệu, tiếp xúc với những hồ sơ liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
Xin ghi nhận công sức và những đóng góp quý báu và nhiệt tình của các bạn học
viên lớp cao học khóa K21 trường Đại học Luật Hà Nội đã đóng góp ý kiến và giúp đỡ
em trong suốt quá trình làm Luận văn.
Trong khuôn khổ bài Luận văn này không thể tránh khỏi những thiết sót, hạn
chế. Em mong được sự đóng góp và chỉ bảo chân thành của các Thầy, Cô để em có thể
hoàn thiện hơn nữa quan điểm và nhận thức của mình về vấn đề nghiên cứu của Luận
văn.
Sau cùng, em xin được kính chúc quý Thầy, Cô trong tổ bộ môn Luật tố tụng dân
sự thật dồi dào sức khỏe, niềm tin và nhiệt huyết để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp
của mình truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng !

Hà Nội, Ngày tháng năm 2015
Tác giả

Hoàng Xuân Hiếu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLDS

Bộ luật dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

PLTTGQVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự

TTDS


Tố tụng dân sự

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ - 1 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC TUYÊN BỐ MẤT TÍCH, TUYÊN
BỐ CHẾT ................................................................................................................... - 6 1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC DÂN SỰ VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN
SỰ. ......................................................................................................................... - 6 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm việc dân sự . ....................................................... - 6 1.1.1.1. Khái niệm việc dân sự. ..................................................................... - 6 1.1.1.2. Đặc điểm việc dân sự........................................................................ - 8 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thủ tục giải quyết việc dân sự. ........................... - 9 1.1.2.1.Khái niệm thủ tục giải quyết việc dân sự. ......................................... - 9 1.1.2.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết việc dân sự. ................................. - 12 1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT. ......................... - 14 1.2.1. Khái niệm thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết ................................................................................................................... - 15 1.2.2 Ý nghĩa của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết. .................................................................................................................. - 19 1.3. TUYÊN BỐ MẤT TÍCH, TUYÊN BỐ CHẾT TRONG QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ............................... - 20 CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT .. - 22 2.1. THỤ LÝ YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ
CHẾT................................................................................................................... - 22 2.1.1. Điều kiện về chủ thể yêu cầu. ................................................................ - 22 2.1.2. Điều kiện về thời gian biệt tích, mất tích và điều kiện do pháp luật nội dung
quy định. .......................................................................................................... - 23 2.1.2.1. Điều kiện xem xét, thụ lý yêu cầu tuyên bố một người mất tích. . - 23 2.1.2.2. Điều kiện xem xét, thụ lý yêu cầu tuyên bố một người là đã chết.- 24 2.1.3. Đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ...................... - 24 2.1.4. Điều kiện về thẩm quyền giải quyết của Tòa án. ................................... - 26 2.1.4.1. Thẩm quyền của Tòa án theo cấp. .................................................. - 26 2.1.4.2. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ............................................ - 27 2.1.4.3. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của người yêu cầu........ - 29 2.1.5. Điều kiện về nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc đã chết........................................................................................ - 30 2.1.6. Trả lại đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ............ - 30 -


2.2. CHUẨN BỊ XÉT ĐƠN YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH

HOẶC ĐÃ CHẾT. .............................................................................................. - 31 2.2.1. Chuẩn bị phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích. ...... - 33 2.2.2. Chuẩn bị phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người đã chết......... - 36 2.3. PHIÊN HỌP XÉT ĐƠN YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH
HOẶC ĐÃ CHẾT. .............................................................................................. - 37 2.3.1. Những người tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc đã chết............................................................................................... - 37 2.3.2. Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc đã chết........................................................................................ - 39 2.3.3. Quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ......................... - 41 2.3.3.1. Quyết định tuyên bố một người mất tích. ....................................... - 41 2.3.3.2. Quyết định tuyên bố một người là đã chết. .................................... - 41 2.4. THỦ TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU HỦY BỎ QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ
MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT................................................ - 42 2.4.1. Yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết.- 42 2.4.2. Xét đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết. .................................................................................................................. - 43 2.5. GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC
ĐÃ CHẾT, YÊU CẦU HỦY BỎ QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI
MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM. .............. - 45 2.5.1. Quyền kháng cáo, kháng nghị và thời hạn kháng cáo, kháng nghị quyết định
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết
định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. .............................................. - 45 2.5.2. Thủ tục phúc thẩm giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. .. - 46 CHƯƠNG III: .......................................................................................................... - 48 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT
TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ..................................................... - 48 3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VỀ GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH
HOẶC ĐÃ CHẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH. ........ - 48 3.1.1.Tình hình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết tại
Tòa án nhân dân huyện Đông Anh. ................................................................. - 48 -


3.1.2. Những khó khăn khi áp dụng quy định của BLTTDS Việt Nam trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết tại Tòa án nhân
dân huyện Đông Anh. ...................................................................................... - 49 3.1.2.1. Khó khăn trong việc xác định đương sự trong quá trình giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ........................................... - 49 3.1.2.2. Khó khăn khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ........................................... - 50 3.1.2.3. Khó khăn trong việc xác định ngày chết của người bị yêu cầu tuyên bố
đã chết. ......................................................................................................... - 51 3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC
ĐÃ CHẾT. ........................................................................................................... - 53 3.2.1. Quy định chung về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. ........ - 53 3.2.1.1.Về đương sự trong việc dân sự. ....................................................... - 53 3.2.1.2 Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết
việc dân sự. .................................................................................................. - 54 3.2.2. Quy định về thủ tục tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ........... - 56 3.2.2.1. Về thủ tục thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc
tuyên bố là đã chết. ...................................................................................... - 56 3.2.2.2. Về việc thông báo tìm kiếm hợp lệ đối với người bị yêu cầu tuyên bố
mất tích hoặc đã chết. .................................................................................. - 57 3.2.2.3. Về việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. ....... - 58 3.2.2.4. Về việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết

theo thủ tục phúc thẩm................................................................................. - 61 3.2.2.5. Về vấn đề thành phần Hội đồng phúc thẩm quyết định giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. .......................................... - 61 3.2.2.6. Về việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết; yêu cầu hủy quyết
định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết. ....................................................... - 63 KẾT LUẬN............................................................................................................... - 64 -


-1PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Để có thể tồn tại một cá nhân luôn phải tham gia vào nhiều quan hệ xã hội
và hình thành nên mối quan hệ với nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau trong xã hội.
Sự kiện một cá nhân biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú làm ảnh hưởng đến những
quan hệ xã hội mà họ tham gia, ảnh hướng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những cá
nhân, tổ chức có liên quan. Vì vậy pháp luật có quy định cho các chủ thể này có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố cá nhân đó mất tích hoặc đã chết để bảo vệ quyền và
lợi ích của mình.
Vấn đề giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết lần đầu
tiên được đề cập đến trong Thông tư số 03-NCLP ngày 03 tháng 3 năm 1966 của
TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Sau đó, tại Điều 10 PLTTGQVADS
và tại Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC về hướng dẫn thi hành PLTTGQVADS cũng đã quy định về yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. Theo những quy định này, về cơ bản,
việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết được thực hiện theo một thủ tục
chung, không tách thành thủ tục việc dân sự và thủ tục vụ án dân sự.
BLTTDS được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 lần đầu tiên đã có những quy định tách riêng
thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. Yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết theo thủ tục
riêng được quy định tại Phần thứ năm: Thủ tục giải quyết việc dân sự. Việc tách
riêng thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc đã chết nói riêng so với những quy định trước đây là một

bước đột phá về mặt tố tụng và tư duy của nhà làm luật Nó thể hiện trươc tiên từ
cách nhìn nhận hoàn toàn khoa học dựa trên tính chất đặc trưng của vụ án dân sự và
việc dân sự. Với việc quy định tách riêng thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung
và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích nói riêng mở ra một hành
lang pháp lý trong việc giải quyết nhanh, gọn, giản lược và triệt để những việc dân
sự có đặc trưng là không có tranh chấp nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu
Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ dân sự…
Trong 9 năm kể từ khi BLTTDS có hiệu lực pháp luật, việc áp dụng thủ tục
giải quyết việc dân sự để giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã


-2chết đã khắc phục được những vướng mắc so với những quy định trước đây, ví dụ
như: Theo những quy định trước khi BLTTDS có hiệu lực thi hành, đối với vụ án
yêu cầu chia thừa kế của người biệt tích, nếu đủ điều kiện Tòa án giải quyết tuyên
bố người biệt tích là đã chết, rồi sau đó giải quyết luôn vấn đề chia thừa kế đối với
di sản thừa kế của người đó trong cùng một vụ án. Đều này sẽ dẫn đến một vấn đề
đó là quyết định tuyên bố một người là đã chết chưa phát sinh hiệu lực, chưa được
xem xét tính đúng đắn mà đã được sử dụng làm cơ sở để giải quyết yêu cầu chia
thừa kế. Kể từ khi BLTTDS có hiệu lực thi hành, đối với những trường hợp như
trên, đương sự phải tiến hành thông qua thủ tục giải quyết việc dân sự tuyên bố một
người là đã chết, sau khi quyết định tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp
luật thì mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu phân chia di sản thừa kế của
người bị tuyên bố đã chết.
Bên cạnh ưu điểm trên, qua quá trình áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự
nói chung và thủ tục giải quyết tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng
đã đặt ra nhiều những vướng mắc cần tháo gỡ đòi hỏi BLTTDS cần có quy định cụ
thể và thống nhất hơn. Các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một
người mất tích hoặc đã chết lần lượt được quy định tại Chương XXIII và Chương
XXIV của BLTTDS tuy nhiên những quy định này mới chỉ mang tính khái quát

chung, thiếu đi những quy định cụ thể, chi tiết dẫn tới những cách hiểu và áp dụng
khác nhau. Chính từ thực trạng này đỏi hỏi cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn
diện, sâu sắc và đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc đã chết để từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS
Việt Nam.
Với lý do đó, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một cá nhân theo pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Đông Anh”
có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Ở những khía cạnh khác nhau về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một
người mất tích hoặc đã chết, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan được một
số tác giả đề câp như: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Cơ sở lý luận và
thực tiễn thi hành quy định tại phần thứ năm: Thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ
luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Viện khoa học xét xử - TANDTC; Đề tài nghiên
cứu cấp trường: “Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân dân”


-3của Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Trình tự ,
thủ tục giải quyết các việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự”, Lê
Thanh Huyền, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006; Luận văn thạc sỹ Luật học:
“Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết trong tố tụng
dân sự Việt Nam”, Nguyễn Văn Tiến, Trường Đại học Luật Hà Nội. Một số các bài
viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như: “Xác định thời điểm chết trong trường
hợp tuyên bố một người đã chết theo quy định của Luật dân sự”, Lê Hồng Hải, Tạp
chí Dân chủ & Pháp luật số 9/2004; “Một số quy định chung về thủ tục giải quyết
việc dân sự”, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2005; “Những vấn
đề cơ bản về thủ tục giải quyết một số việc dân sự cụ thể”, Tưởng Duy Lượng, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 11/2005: “Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự”, Lê Thu Hà, Tạp chí TAND số 12/2006; “Tuyên bố một

người là đã chết theo Điều 81 Bộ luật dân sự 2005”, Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí
TAND số 11/2009…Khác với các công trình nghiên cứu trên, đề tài “Thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một cá nhân theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện
Đông Anh” được triển khai ở cấp độ luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu vấn đề thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết một cách đầy đủ, toàn
diện kết hợp với những nhìn nhận từ thực tiễn để làm rõ hơn quy định của
BLTTDS, đi sâu phân tích tìm ra những những khó khăn, vướng mắc đang gặp phải
khi áp dụng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. Vì
vậy, vấn đề nghiên cứu này không hề có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu
khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung
và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng
trong TTDS. Tìm hiểu thực tế áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết của Tòa án.
Hai là, chỉ ra những điểm còn chưa hợp lý, chưa rõ ràng, chưa thống nhất
trong các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc
đã chết của pháp luật TTDS Việt Nam. Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy
định trong pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc đã chết.


-43.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết việc dân sự
nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết
nói riêng.
- Nghiên cứu, tìm hiểu quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết trong TTDS Việt Nam.

- Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc đã chết, từ đó chỉ ra những vấn đề còn thiếu sót, chưa
phù hợp. Đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật TTDS về thủ
tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một
người mất tích hoặc đã chết nói riêng.
3.3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc đã chết; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động xét xử của
TAND huyện Đông Anh những năm gần đây. Từ đó rút ra những khó khăn vướng
mắc và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật TTDS.
3.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Trong khuôn khổ một luận văn Thạc sỹ Luật học, tác giải chỉ tập trung
nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy
định cụ thể về thủ tục này, luận văn có đề cập nghiên cứu về thủ tục giải quyết các
yêu cầu về dân sự nói chung cũng như nghiên cứu khái quát các quy định của
BLDS về tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người là đã chết. Tuy nhiên,
các tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để tiến tới nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết theo
quy định của BLTTDS Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến
hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật



-5biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê, thăm dò ý kiến trong phạm
vi cơ quan, người làm công tác thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết trong TTDS Việt Nam và những vướng
mắc khi áp dụng thủ tục này để giải quyết trên thực tế. Do đó Luận văn này có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sau đây:
- Thứ nhất, Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về lý
luận và thực tiễn về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết.
- Thứ hai, Quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong công
tác xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và
yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng. Từ đó đưa ra những đề
xuất, kiến nghị góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
6. Kết cấu Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh lục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
văn gồm 3 Chương:
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết yêu cầu một
người mất tích hoặc đã chết.
Chƣơng II: Quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết.
Chƣơng III: Thực tiễn thực hiện các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết tại
Tòa án nhân dân huyện Đông Anh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


-6CHƢƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC TUYÊN BỐ MẤT TÍCH,

TUYÊN BỐ CHẾT
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC DÂN SỰ VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC
DÂN SỰ.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm việc dân sự .
1.1.1.1. Khái niệm việc dân sự.
Theo quy định tại Điều 311 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 có đưa ra
khái niệm về việc dân sự:
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhưng có
yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn
cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác;
yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ban hành ngày 07 tháng 12
năm 1989 không có sự phân định rõ thủ tục giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự
mà chỉ quy định chung tại Điều 10 pháp lệnh về những việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án. Quy định như vậy trong Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự xuất phát từ sự kế thừa của những quy định trước đây, không có sự tách biệt
giữa vụ án dân sự và việc dân sự mà đều được xem xét là “những việc thuộc thẩm
quyền của Tòa án” và giải quyết theo một thủ tục chung. Trong quá trình áp dụng
PLTTGQCVADS để giải quyết dần phát sinh nhiều vướng mắc.
Khác với PLTTGQVADS, BLTTDS năm 2005 cũng như BLTTDS sự sửa
đổi bổ sung năm 2011 đã quy định tách biệt về thủ tục giải quyết vụ án dân sự và
thủ tục giải quyết việc dân sự. Việc quy định như vậy xuất phát từ cách nhìn nhận
hoàn toàn khoa học dựa trên những tính chất đặc trưng của vụ án dân sự và việc dân
sự. Việc dân sự có tính chất đặc trưng đó là không có tranh chấp mà chỉ là việc tổ
chức, cá nhân yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ, khi giải quyết việc dân sự Tòa án xem xét
dựa trên những chứng cứ mà người yêu cầu đưa ra có hợp pháp, hợp lý không để
đưa ra quyết định công nhận hoặc không công nhận yêu cầu. Còn vụ án dân sự có



-7tính chất đặc trưng đó là có sự tranh chấp, đối kháng quyền và lợi ích giữa các bên
nguyên đơn, bị đơn với nhau, Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự phải xem xét, đánh
giá các chứng cứ mà các đương sự đưa ra, hoặc do chính Tòa án thu thập để có thể
đưa ra bản án giải quyết tranh chấp đó. Do đó việc dân sự thường được giải quyết
nhanh và đơn giản hơn vụ án dân sự. Nếu pháp luật vẫn quy định chung một thủ tục
duy nhất để giải quyết cả vụ án dân sự và việc dân sự sẽ là không xác đáng khi “tiến
hành giải quyết một bài toán đơn giản (việc dân sự) và một bài toàn phức tạp (vụ
án dân sự) theo cùng một trình tự, cách thức”. Việc phân định rõ ràng giữa thủ tục
giải quyết việc dân sự và thủ tục giải quyết vụ án dân sự sẽ đảm bảo việc giải quyết
vụ án dân sự hoặc việc dân sự được thực hiện một cách chuyên môn hóa, giảm thời
gian tố tụng khi giải quyết những việc dân sự có tính chất đơn giản. Hơn nữa
BLTTDS quy định tách biệt giữa thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải
quyết việc dân sự đã khắc phục được những vướng mắc so với quy định trước đây
khi xem xét giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự theo một thủ tục chung.
Các loại việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định
cụ thể tại các Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều 32 BLTTDS từ đó làm căn cứ xác
định thẩm quyền theo thủ tục việc dân sự. Những yêu cầu dân sự trên được xếp vào
loại việc dân sự và được giải quyết theo thủ tục việc dân sự bởi những yêu cầu này
đều mang tính chất đặc trưng của việc dân sự đó là không có tranh chấp mà chỉ là
yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
những người liên quan. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết là một
loại việc thuộc yêu cầu về dân sự bởi đây là việc đương sự yêu cầu Tòa án công
nhận sự kiện mất tích hoặc chết của một cá nhân, Tòa án xem xét dựa trên những
chứng cứ của người yêu cầu xuất trình để đưa ra quyết định chấp nhận hoặc không
chấp nhận yêu cầu của đương sự về việc công nhận sự kiện chết hoặc mất tích của
một cá nhân mà hoàn toàn không có tranh chấp.
Khái niệm việc dân sự tại Điều 311 BLTTDS tương đối giống trong quy định
của BLTTDS nước Cộng hòa Pháp. Theo đó, Điều 25 BLTTDS của các nước Cộng

hòa Pháp quy định “Thẩm phán quyết định các việc dân sự theo quy định của pháp
luật khi có yêu cầu trong trường hợp không có tranh chấp…”. Theo pháp luật
TTDS của nước Cộng hòa Pháp thì việc dân sự được hiểu là việc cá nhân, cơ quan,


-8tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án giải quyết. BLTTDS của
nước Cộng hòa Pháp cũng ban hành quy định liệt kê các yêu cầu được giải quyết
theo thủ tục việc dân sự, bao gồm các yêu cầu sau: cải chính giấy tờ hộ tịch (Điều
1051); thay đổi tên (Điều 1055-2); tuyên bố mất tích (Điều 1067); thuận tình ly hôn
(Điều 1088); hợp pháp hóa quan hệ huyết thống (Điều 1151); thay đổi họ của trẻ
em sinh ra ngoài giá thú sau khi bố mẹ cùng khai nhận con (Điều 1153); nhận nuôi
con nuôi (Điều 1167)… Qua nghiên cứu có thể thấy các việc dân sự theo quy định
của BLTTDS nước Cộng hòa Pháp tương tự như những loại việc dân sự theo quy
định của BLTTDS Việt Nam như yêu cầu tuyên bố công dân mất tích, thuận tình ly
hôn. Tuy nhiên, có một số loại việc như nhận nuôi con nuôi, sửa chữa giấy tờ hộ
tịch, thay đổi tên thì pháp luật Việt Nam quy định được thực hiện theo thủ tục hành
chính tư pháp khác với BLTTDS nước Cộng hòa Pháp quy định những việc đó
thuộc điều chỉnh của BLTTDS. Theo quan điểm của tác giả, BLTTDS Việt Nam
quy định như vậy là hợp lý hơn so với quy định của BLTTDS nước Cộng hòa Pháp.
Tính hợp lý thể hiện trước hết ở việc phân chia rõ ràng những việc nào thuộc điều
chỉnh của BLDS, giải quyết theo thủ tục của BLTTDS, thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án; những viêc nào thuộc điều chỉnh của các ngành luật khác, được giải
quyết bởi những cơ quan có thẩm quyền chuyên môn. Việc quy định như vậy tránh
được sự chồng chéo giữa các quy định của các ngành luật khác nhau về cùng một
vấn đề. Hơn nữa, nó còn giảm tải công việc cho hệ thống Tòa án khi quy định Tòa
án chỉ giải quyết việc dân sự nào thuộc thẩm quyền của mình theo quy định của
BLTTDS. Do đó, theo tác giả BLTTDS Việt Nam ưu việt hơn BLTTDS nước Cộng
hòa Pháp trong quy định về vấn đề việc dân sự.
1.1.1.2. Đặc điểm việc dân sự.
Từ khái niệm việc dân sự tại Điều 311 BLTTDS, có thể thấy việc dân sự có

những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Các đương sự trong việc dân sự không có tranh chấp với nhau về
quyền và nghĩa vụ dân sự. Đây cũng là một trong những điểm khác biệt lớn nhất
giữa vụ án dân sự và việc dân sự. Trong vụ án dân sự luôn có sự tranh chấp về
quyền và lợi ích từ đó hình thành nên hai bên đối kháng nhau về quyền và lợi ích đó
là nguyên đơn và bị đơn. Trong khi đó, đối với việc dân sự, các đương sự không có


-9sự đối kháng, tranh chấp với nhau về quyền và lợi ích. Sự không đối kháng trong
việc dân sự có thể do:
- Các đương sự không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp do các
đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như
những quyền và lợi ích giữa các đương sự và họ cùng yêu cầu Tòa án công nhận sự
thỏa thuận đó [18,tr8]. Tuy nhiên, việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
dân sự giữa các đương sự chỉ mang tính tương đối.
- Bản chất của việc dân sự là hướng tới xác nhận một sự kiện pháp lý mà từ
sự kiện đó phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đương sự.
Thứ hai, không có nguyên đơn và bị đơn trong việc dân sự. Việc dân sự
không giống như vụ án dân sự khi mà các đương sự trong vụ án dân sự có tranh
chấp, đối kháng với nhau về quyền và lợi ích để hình thành bên nguyên đơn và bên
bị đơn. Điều đó xuất phát từ bản chất của việc giải quyết việc dân sự là việc Tòa án
công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý được xác định là căn cứ làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động. Do vậy, trong việc dân sự không hề có bất cứ tranh chấp nào về quyền và
lợi ích của các đương sự từ đó không hình thành bên nguyên đơn và bên bị đơn.
Thứ ba, từ yêu cầu của đương sự, Tòa án sẽ tiến hành xem xét từ đó công
nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý mà từ sự kiện đó làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự của đương sự và những người có liên quan đến sự kiện
đó; từ yêu cầu của đương sự Tòa án công nhận quyền và nghĩa vụ dân sự cho họ.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thủ tục giải quyết việc dân sự.

1.1.2.1.Khái niệm thủ tục giải quyết việc dân sự.
Trước khi BLTTDS được ban hành, pháp luật chưa có quy định cụ thể về
thẩm quyền cũng như trình tự giải quyết việc dân sự. PLTTGQCVADS mới chỉ
quy định chung về thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nhưng lại chưa có quy định
về thủ tục giải quyết việc dân sự. Những quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự
tại Tòa án được quy định trong BLTTDS là những quy định mới của pháp luật so
với những quy định trước đây.
Theo định nghĩa thông thường, thủ tục là các thức tiến hành một công việc
với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của cơ quan nhà nước [35;tr1596].


- 10 Trong Từ điển Luật học, không có khái niệm “thủ tục” đơn thuần mà chỉ có khái
niệm “Thủ tục tố tụng”. Thủ tục tố tụng được định nghĩa là: “Cách thức trình tự và
nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý
hoặc khởi tố theo các quy định của pháp luật. Các vụ việc có tính chất đặc thù khác
nhau nên pháp luật quy định các thủ tục tố tụng khác nhau tương ứng” [34;tr729].
Từ khái niệm, bản chất, đặc điểm của việc dân sự và khái niệm thủ tục, thủ
tục tố tụng có thể rút ra khái niệm thủ tục giải quyết việc dân sự như sau:
Thủ tục giải quyết việc dân sự là cách thức, trình tự Toàn án có thẩm quyền
tiến hành để xem xét, giải quyết các việc dân sự theo quy định của pháp luật
TTDS.
BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 có quy định vụ thể thủ tục giải quyết
việc dân sự tại Phần thứ năm “thủ tục giải quyết việc dân sự”. Theo đó, thủ tục giải
quyết việc dân sự gồm các trình tự sau:
- Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự: Việc dân sự phát sinh khi
cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền yêu cầu của mình bằng việc nộp đơn yêu
cầu giải quyết việc dân sự tới TAND có thẩm quyền. Thông thường, đơn yêu cầu
được nộp cùng với các tài liệu chứng cứ kèm theo để chứng minh cho yêu cầu là có
căn cứ và hợp pháp. Khi nhận đơn yêu cầu, Tòa án phải kiểm tra các điều kiện sau:
quyền yêu cầu, năng lực hành vi tố tụng dân sự của người yêu cầu, thẩm quyền giải

quyết của Tòa án và các điều kiện thụ lý khác. Trong trường hợp các điều kiện đã
bảo đảm, người yêu cầu đã tiến hành nộp án phí thì Tòa án tiến hành thụ lý việc dân
sự.
- Thủ tục chuẩn bị xét đơn yêu cầu. Trong giai đoạn này, Thẩm phán phụ
trách việc giải quyết việc dân sự tiến hành các công việc như thông báo thụ lý việc
dân sự, nghiên cứu đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ mà người yêu cầu gửi kèm
theo, yêu cầu các đương sự giao nộp, bổ sung thêm các tài liệu chứng cứ, thực hiện
một số biện pháp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự,…Sau khi đã chuẩn
bị đầy đủ các điều kiện để đưa việc dân sự ra giải quyết, Tòa án sẽ ra quyết định mở
phiên họp giải quyết việc dân sự. Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự
phải được gửi cho VKSND cùng cấp, người yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.


- 11 -

- Thủ tục mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Thủ tục tiến hành phiên họp
giải quyết việc dân sự được tiến hành theo Điều 314 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm
2011. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, Thẩm phán sẽ nghe người yêu cầu hoặc
người đại diện hợp pháp của họ trình bày yêu cầu, căn cứ, lập luận để chứng minh
cho yêu cầu của mình là đúng đắn và hợp pháp; nghe người có quyền và lợi ích liên
quan hoặc những người đại diện của họ trình bày ý kiến của mình về những vấn đề
liên quan đến giải quyết việc dân sự; trong trường hợp cần thiết có thể yêu cầu ý
kiến của người giám định, người làm chứng,…Nhất thiết phải có ý kiến của vị đại
diện Viện kiểm sát tham gia phiên họp về việc giải quyết việc dân sự. Theo quy
định tại Điều 107 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,
Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có quy định Viện kiểm sát
có quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và tại Điều 21 BLTTDS sửa đổi bổ
sung năm 2011 có quy định nguyên tắc kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự. Do đó, việc kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến của

Viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ
của Viện kiểm sát để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của mình.
Hơn nữa, thông qua việc phát biểu của vị đại diện viện kiểm sát thẩm phán giải
quyết việc dân sự biết được mình đã tiến hành giải quyết việc dân sự đã đúng trình
tự thủ tục theo quy định của pháp luật hay chưa, các đương sự biết được quyền tố
tụng của mình có bị vi phạm hay không. Trên cơ sở đó, thẩm phán phụ trách giải
quyết việc dân sự hoặc Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định chấp nhận hoặc không
chấp nhận yêu cầu của người yêu cầu.
- Giải quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm. Sau khi Tòa án sơ thẩm ra
Quyết định giải quyết việc dân sự thì quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật ngay
mà còn một thời hạn để các đương sự có thể kháng cáo, Viện kiểm sát có thể kháng
nghị. Trong trường hợp có kháng cáo hoặc kháng nghị thì Tòa án cấp trên trực tiếp
sẽ tiến hành giải quyết theo thủ tục phúc thẩm việc dân sự theo quy định tại Điều
312 và Điều 280 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011. Quy định này nhằm đảm bảo
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử theo quy định tại Điều 17 BLTTDS sửa
đổi bổ sung năm 2011. Từ đó đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án cũng như
quyết định của Tòa án được chính xác, khách quan đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích


- 12 hợp pháp của đương sự bởi quyết định của Tòa án có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Giải quyết việc dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đối với những
Quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện ra các căn cứ theo quy
định tại Điều 283 hoặc Điều 305 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 thì đương sự
có quyền yêu cầu người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm. Thời hạn để đương sự có đơn yêu người có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm được quy định tại Điều 208 hoặc Điều 308 BLTTDS
sửa đổi bổ sung năm 2011.
1.1.2.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết việc dân sự.
Thứ nhất, Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Theo quy định tại Điều 11 và

Điều 55 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 thì không có sự tham gia của Hội thẩm
nhân dân tham gia trong quá thủ tục quyết việc dân sự. Như vậy có thể hiểu đối với
thủ tục giải quyết việc dân sự hoàn toàn do thẩm phán đảm nhiệm. Nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật quy định tại
Điều 12 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 không được áp dụng trong thủ tục
giải quyết việc dân sự bởi khi giải quyết việc dân sự không có sự tham gia của Hội
thẩm nhân dân mà chỉ có Thẩm phán đảm nhiệm giải quyết. Việc quy định như vậy
là hoàn toàn hợp lý bởi việc dân sự có tính chất tương đối đơn giản, không có tranh
chấp giữa các đương sự về quyền và lợi ích mà chỉ là việc yêu cầu Tòa án công
nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và lợi ích của các đương sự. Hơn nữa
khác với vụ án dân sự, mọi việc dân sự khi giải quyết đều có sư tham gia của Viện
kiểm sát (Điều 21 BLTTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011) do đó dù không có sự
tham gia của hội thẩm nhân dân nhưng luôn có một cơ chế giám sát đảm bảo Thẩm
phán thực hiện đúng quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự và ban hành những
quyết định chính xác.
Thứ hai, sự tham gia của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các
phiên họp giải quyết việc dân sự. Có thể hiểu rằng bất cứ phiên họp giải quyết việc
dân sự nào cũng đều phải có sự tham gia của kiểm sát viên. Khác với phiên tòa giải
quyết vụ án dân sự, ở cấp sơ thẩm viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa giải quyết
vụ án dân sự trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS sửa


- 13 đổi bổ sung năm 2011. Việc quy định Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên
họp giải quyết việc dân sự xuất phát từ việc cần phải có một cơ chế giám sát triệt để
trong quá trình giải quyết việc dân sự khi mà việc giải quyết chỉ do Thẩm phán phụ
trách mà không hề có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Quy định này sẽ đảm bảo
cho việc Thẩm phán phụ trách thực hiện đúng và không có những vi phạm quy định
về tố tụng khi giải quyết việc dân sự gây ảnh hưởng đến kết quả giải quyết cũng
như quyền và lợi ích của các đương sự.
Thứ ba, những người tham gia tố tụng trong giải quyết việc dân sự cũng có

những đặc điểm riêng biệt. Đương sự trong việc dân sự không hình thành nên các
bên đương sự đối kháng nhau như trong vụ án dân sự. Điều này hoàn toàn dễ hiểu
bởi việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp mà chỉ yêu
cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó. Như vậy, không có tranh chấp
xảy ra trong việc dân sự đồng nghĩa với việc không hình thành các bên đương sự
đối kháng nhau.
Thứ tư, về thời hạn tố tụng. Thời hạn tố tụng giải quyết việc dân sự thường
ngắn hơn so với thời hạn tố tụng giải quyết vụ án dân sự. Điều này xuất phát từ tính
chất của việc dân sự đó là Tòa án xem xét các chứng cứ mà đương sự cung cấp để
từ đó ra quyết định công nhận hoặc không công nhận yêu cầu của người yêu cầu,
còn tính chất của vụ án dân sự đó là việc Tòa án nghiên cứu trên cở sở các chứng cứ
mà các bên đương sự cung cấp hoặc do chính thẩm phán thu thập để giải quyết
tranh chấp của các bên nên việc giải quyết việc dân sự thường đơn giản, không mất
quá nhiều thời gian để giải quyết. Việc quy định thời hạn tố tụng ngắn hơn còn là
một đòi hỏi đối với Thẩm phán giải quyết cần phải có sự tập trung, nhanh chóng kết
thúc giải quyết việc dân sự, tránh tình trạng kéo dài thời gian giải quyết gây tốn
kém, lãng phí tiền của nhà nước cũng như của đương sự. Việc tham gia của Viện
kiểm sát trong việc giải quyết tất cả các việc dân sự cũng chính là nhằm giám sát
thời hạn tố tụng trong giải quyết việc dân sự, có sự cảnh báo đối với Thẩm phán giải
quyết khi có sự vi phạm về thời hạn tố tụng.
Thứ năm, về thủ tục hòa giải. Thủ tục sơ thẩm giải quyết việc dân sự không
có quy định về thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị phiên họp và không có


- 14 phần tranh luận của các bên đương sự tại phiên họp giải quyết việc dân sự. Đặc
điểm này của thủ tục giải quyết việc dân sự cũng xuất phát từ tính chất của việc dân
sự là không có tranh chấp mà chỉ là yêu cầu công nhận hoặc không công nhận một
sự kiện pháp lý. Việc quy định thủ tục hòa giải và tranh luận tại phiên họp là không
cần thiết trong việc giải quyết việc dân sự.

Thứ sáu, Thủ tục giải quyết việc dân sự cũng áp dụng những quy định của
nguyên tắc hai cấp xét xử, tức là những quyết định việc dân sự cũng có thể kháng
cáo, kháng nghị trong một thời hạn nhất định để yêu cầu giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 280 và Điều 318 BLTTDS sửa đổi bổ
sung năm 2011 thì thủ tục sơ thẩm việc dân sự được tiến hành công khai, còn thủ
tục phúc thẩm việc dân sự không mở công khai, không triệu tập người yêu cầu và
những người có liên quan trừ khi thấy cần thiết.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT.
Cá nhân sinh ra là một thực thể xã hội đồng thời là thực thể pháp lí. Sự tồn
tại của cá nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự đem lại cho các
cá nhân những quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Đồng thời, sự tồn tại của các
nhân bao giờ cũng nằm trong mối quan hệ, liên quan với nhiều cá nhân khác trong
cộng đồng xã hội. Đồng nghĩa với việc đó, khi thiếu vắng sự hiện diện của họ sẽ
làm thay đổi quá trình tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội mà họ tham gia.
Sự tồn tại của cá nhân không những có ý nghĩa đối với quyền và nghĩa vụ của bản
thân cá nhân đó mà đôi khi nó còn có tác động đến những người khác có liên quan
đến cá nhân đó. Vì vậy, trong Bộ luật dân sự Việt Nam cũng như Bộ luật tố tụng
dân sự đã ghi nhận chế định về việc tuyên bố mất tích và tuyên bố chết đối với một
cá nhân, đây trở thành một chế định đặc biệt của luật dân sự.
Tại khoản 3 và khoản 4 Điều 26 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 có quy
định: yêu cầu tuyên bố một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người
mất tích; yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết được coi là những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án. Như vậy thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc
đã chết cũng mang những đặc điểm chung của thủ tục giải quyết việc dân sự. Để


- 15 hiểu rõ hơn thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết
chúng ta cùng đi sau nghiên cứu những tại những phần sau.

1.2.1. Khái niệm thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một ngƣời mất tích hoặc
đã chết
Theo từ điển luật học của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “mất tích tức là
hoàn toàn không còn thấy tông tích đâu cả, cũng không rõ còn hay mất” [34;tr535].
Theo từ điển Tiếng việt 2003 của viện ngôn ngữ học thì: “chết là mất khả năng
sống, không còn biểu hiện của sự sống” [35;tr151].
Yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết là một loại việc dân sự,
theo đó người có quyền, lợi ích liên quan đề nghị Tòa án tuyên bố một người là mất
tích hoặc là đã chết khi họ đã biệt tích một thời gian dài, không có tin tức xác thực
là còn sống hay đã chết. Thời gian này được quy định cụ thể trong trong từng
trường hợp tại Điều 78 và Điều 81 BLDS. Thời gian đối với người bị yêu cầu tuyên
bố mất tích là hai năm liền trở lên từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó.
Đối với người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết thì thời gian này được xác định như
sau: Sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực
pháp luật; biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc
mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà
sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có
tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; biệt tích
năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống. Khi đó, theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc đã chết theo thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một
người mất tích tại Chương XXIII BLTTDS, giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
là đã chết theo thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết tại Chương
XXIV BLTTDS.
Như vậy, từ khái niệm về thủ tục giải quyết việc dân sự đã trình bày ở phần
trên, khái niệm “mất tích”, khái niệm “chết” và các quy định tại Chương XXIII và
chương XXIV BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011, có thể rút ra khái niệm về thủ
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết:
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết là trình



- 16 tự thủ tục tố tụng do Tòa án có thẩm quyền tiến hành để xem xét chấp thuận
hay không chấp thuận yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết từ
giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu đến khi có quyết định giải quyết của Tòa án.
Như đã nói trên, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết là một
loại việc dân sự nên thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết cũng giống như thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung. Tuy nhiên có sự khác
biệt, đó là trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết, Tòa án phải thông qua thủ tục thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố
mất tích hoặc là đã chết. Thủ tục này là bắt buộc trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích (Điều 331 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011). Đối
với quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, BLTTDS không có
quy định về thủ tục thông báo, tuy nhiên mục đích của thủ tục thông báo là để bảo
đảm tính chính xác của quyết định tuyên bố một người là đã chết. Do đó, khi giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết thì thông báo tìm kiếm cũng là thủ tục
bắt buộc. [18;tr386]
Bản chất của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết là yêu cầu Tòa án xác nhận một sự kiện pháp lý, từ sự kiện pháp lý đó sẽ là cơ
sở để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan khởi kiện đề nghị Tòa án có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp trong một vụ án khác. Đồng thời, sự kiện pháp lý đó
cũng là cơ sở để quyết định việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích hoặc
là đã chết, tránh tình trạng tẩu tán tài sản của người đó.
Thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết bước đầu đã
được đề cập đến trong Thông tư số 3-NCLP ngày 03 tháng 3 năm 1966 của
TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Theo quy định tại điềm c, Mục 2
Thông tư số 3-NCLP thì nếu người chồng hoặc người vợ đi đâu không rõ tin tức gì
đã trên dưới hai năm mà người vợ hoặc người chồng ở nhà xin ly hôn thì Tòa án thụ
lý giải quyết, trừ trường hợp người vắng mặt do thực hiện nghĩa vụ do nhà nước
giao. Tòa án có thẩm quyền giải quyết loại việc này là Tòa án cơ sở nơi người xin ly
hôn cư trú. Thủ tục xét xử loại việc này quy định tại điểm v, Mục 2 Thông tư số 3NCLP: “Thẩm phán điều tra xác minh sự vắng mặt và thời gian vắng mặt của người

chồng hoặc vợ của người xin ly hôn. Để điều tra cần lấy lời khai của thân nhân


- 17 người vắng mặt, lời xác nhận của các đoàn thể xã hội địa phương và của Ủy ban
hành chính xã nơi trú quán cuối cùng của người vắng mặt và các chứng cứ cần
thiết khác. Đề phòng lẫn lộn người vắng mặt vì nghĩa vụ nhà nước giao cho với
người tự ý đi đâu không rõ. Đối với những người vắng mặt vì nghĩa vụ chung thì
không áp dụng đường lối và thủ tục giải quyết việc ly hôn nói ở đây. Trước khi xử
sơ thẩm phải niêm yết giấy báo phiên tòa tại nơi trú quán cuối cùng của người vắng
mặt”. Như vậy, theo quy định tại Thông tư 03-NCLP, thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích được tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn.
Tại thời điểm này, chúng ta đang bước vào thời kỳ chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của Mĩ ở miền Bắc. Hội đồng quốc phòng đã họp và đề ra nhiệm vụ, phương
hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ, trị an,
sẵn sàng chiến đấu. Vì vậy việc nghiên cứu để ban hành ra được những quy định cụ
thể, chi tiết về thủ tục tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết là không có. Thủ
tục tuyên bố mất tích hoặc đã chết được giải quyết trong cùng việc giải quyết vụ án
ly hôn là do đòi hỏi của hoàn cảnh thực tiễn lúc bấy giờ, các quy định được đưa ra
nhằm giải quyết ngay những vướng mắc tại thời điểm đó chính là việc yêu cầu giải
quyết ly hôn với vợ hoặc chồng là người vắng mặt chứ chưa có được một cái nhìn
hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn. Tuy nhiên, với hoàn cảnh lịch sử như vậy thì việc giải
quyết chung yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết được tiến hành trong
quá trình giải quyết ly hôn là hoàn toàn hợp lý, nó giúp tiết kiệm thời gian, tiền của
Nhà nước cũng như của của nhân dân để tập trung vào công tác chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại cũng như tập trung xây dựng miền Bắc.
Năm 1989, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự (PLTTGQCVADS). Theo đó, PLTTGQCVADS đã quy định về thẩm
quyền giải quyết việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, thủ tục giải quyết
việc này và Phần III Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 đã quy
định cụ thể hơn về việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết. Cụ thể Mục 1, 2

và 3 Phần III Nghị quyết số 03/HĐTP quy định:
“1. Tòa án có thẩm quyền giải quyết loại việc này là Tòa án cấp huyện nơi
thường trú của người khởi kiện hoặc nơi thường trú cuối cùng mà người khởi kiện
yêu cầu Tòa án xác định là mất tích hoặc đã chết.


- 18 2. Tòa án có thể xác định một người là mất tích, nếu đã quá hai năm hoặc có
thể xác định một người đã chết nếu đã quá năm năm mà ở nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú cuối cùng (và ở nơi tạm trú thường xuyên cuối cùng nếu có) của người
đó, không có tin tức gì về người đó.
Trong trường hợp không thể xác định được ngày nhận tin tức cuối cùng về
người vắng mặt thì tính thời gian bắt đầu vắng mặt là ngày đầu của tháng tiếp sau
tháng nhận được tin tức cuối cùng về người vắng mặt, còn trong trường hợp không
thể xác định được tháng đó thì tính thời gian bắt đầu vắng mặt là ngày 1 tháng 1
năm tiếp sau đó.
3. Đối với những người có thể chết trong một tai nạn nhất định như bị lũ lụt
cuốn trôi, bị đắm tàu, đi trên máy bay bị mất liên lạc v.v…. Nếu sau thời hạn sáu
tháng từ ngày xảy ra tai nạn mà không có tin tức gì chứng tỏ là người đó còn sống,
thì Tòa án xác định là người đó đã chết vào ngày xảy ra tai nạn đó.”
Theo quy định của PLGQCVADS và Phần III Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19
tháng 10 năm 1990 thì Tòa án có thể giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc là đã chết như một vụ án độc lập, không nhất thiết phải giải quyết cùng
với việc giải quyết ly hôn hay một loại việc khác. Tuy nhiên Pháp lệnh cũng chưa
có sự phân định về thủ tục giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự mà đều giải quyết
vụ án dân sự và việc dân sự thông qua một thủ tục. Ngày 28 tháng 10 năm 1995,
BLDS đầu tiên được ban hành, theo đó tại Điều 88 và Điều 91 đã quy định cụ thể về
quyền yêu cầu và điều kiện để xác định một người mất tích hoặc là đã chết.
Ngày 15 tháng 6 năm 2004, BLTTDS (BLTTDS năm 2004) đã được Quốc
hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Theo đó yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết

theo thủ tục độc lập quy định tại Phần thứ năm: “Thủ tục giải quyết việc dân sự”
của BLTTDS bên cạnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Tại Phần thứ năm “Thủ
tục giải quyết việc dân sự”, chương XXIII và Chương XXIV của BLTTDS lần lượt
quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích và thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết. Quyền yêu cầu và điều kiện để xác
định một người mất tích hoặc là đã chết được quy định tại Điều 78 và Điều 81
BLDS năm 2005. So với các quuy định của pháp luật TTDS của các giai đoạn


×