Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu - So sánh pháp luật sở hữu trí tuệ Lào và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.21 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BOUNKHAM CHANTHAMANGLY

XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU - SO SÁNH PHÁP LUẬT SỞ HỮU
TRÍ TUỆ LÀO VÀ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn: TS. VŨ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Để có được luận văn này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu xắc
nhất đến cô TS. Vũ Thị Hải Yến – người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sĩ.
Em cũng xin cảm ơn sự chỉ bảo ân cần của các thầy cô trong Khoa Luật
dân sự và toàn thể các thầy cô, bạn bè dưới mái trường Đại học Luật Hà Nội.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình đã động viên em trong suốt quá
trình học tập ở Việt Nam.
Hà Nội, ngày


tháng

năm 2015

Tác giả

BOUNKHAM CHANTHAMANGLY


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BOUNKHAM CHANTHAMANGLY


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND Lào

Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

CHXHCN Việt Nam Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
SHTT

Sở hữu trí tuệ

NH


Nhãn hiệu

NHHH

Nhãn hiệu hàng hóa

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

GCNĐKNH

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu

KH&CN

Khoa học và công nghệ

WIPO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

TRIPs

Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương
mại của quyền sở hữu công nghiệp


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................1
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VÊ NHÃN HIỆU VÀ XÁC LẬP
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU .....................5
1.1. Khái quát về nhãn hiệu............................................................................5
1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu .........................................................................5
1.1.2. Các loại nhãn hiệu ..........................................................................10
1.1.3. Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu ................................................20
1.2. Khái quát chung về xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu..21
1.2.1. Khái niệm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu .......21
1.2.2. Các hình thức xác lập quyền đối với nhãn hiệu..............................21
1.2.3. Ý nghĩa của việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu23
CHƯƠNG 2 SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LÀO VÀ VIỆT
NAM VỀ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU ..................................................................................................26
2.1. Quy định của pháp luật Lào và Việt Nam về xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu trên cơ sở đăng ký ...............................................26
2.1.1. Quy định của pháp luật Lào về xác lập quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu trên cơ sở đăng ký ........................................................26
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa trên cơ sở đăng ký ............................31
2.1.3. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt giữa quy định của pháp
luật Lào và Việt Nam về xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu trên cơ sở đăng ký .............................................................................38
2.2. Quy định của pháp luật Lào và Việt Nam về xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu trên cơ sở thực tiễn sử dụng ................................41
2.2.1. Quy định của pháp luật Lào về xác lập quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu trên cơ sở thực tiễn sử dụng.........................................41



2.2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu trên cơ sở thực tiễn sử dụng.............................46
2.2.3. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt giữa quy định của pháp
luật Lào và Việt Nam về xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu trên cơ sở thực tiễn sử dụng..............................................................48
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TẠI LÀO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ....
3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu tại Lào....................................................................................51
3.1.1. Đánh giá thực trạng pháp luật SHTT của Lào liên quan đến xác lập
quyền SHCN đối với nhãn hiệu.................................................................51
3.1.2. Thực tiễn xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu tại Lào..............54
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xác lập quyền sở
hữu công nghiệp tại Lào...............................................................................57
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện...............................................................57
3.2.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật
xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Lào hiện nay .........59
KẾT LUẬN ....................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................66


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, nên việc bảo hộ nhãn
hiệu rất quan trọng đối với mỗi một quốc gia. Bảo hộ nhãn hiệu không những
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, mà còn bảo vệ lợi ích chính
đáng của người tiêu dùng, chính vì vậy, bảo hộ nhãn hiệu đã trở thành vấn đề
mang tính toàn cầu.

Tuy nhiên, không phải các tổ chức, cá nhân đều có quyền đương nhiên
đối với một nhãn hiệu. Để được hưởng sự bảo hộ một cách đầy đủ nhất về
nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu phải tiến hành xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu đó. Các quốc gia có thể có những quy định khác
nhau về việc xác định quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nhưng tất
cả đều nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi cho chủ sở hữu nhãn hiệu, cũng
như quyền lợi của đông đảo người tiêu dùng và người thứ ba trong quá trình
xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu.
Từ những lợi ích đó mà việc nghiên cứu chuyên sâu về bảo hộ nhãn hiệu
là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hiện nay, đặc biệt là với các quốc gia
đang phát triển như Việt Nam và Lào, bởi cho đến nay, SHTT nói chung,
nhãn hiệu nói riêng vẫn còn khá mới mẻ và phức tạp đối với các nhà hoạt
động thực tiễn cũng như các nhà lý luận Việt Nam và Lào. Do vậy, việc so
sánh pháp luật giữa Việt Nam và Lào về xác lập quyền sở hữu đối với nhãn
hiệu nhằm tìm ra những ưu điểm của pháp luật Việt Nam và rút ra bài học
kinh nghiệm cho Lào trong việc xây dựng pháp luật về xác lập quyền sở hữu
đối với nhãn hiệu là rất có ý nghĩa hiện nay, nhất là khi Lào đang đẩy mạnh
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của mình.
Từ các lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu – So sánh pháp luật sở hữu trí tuệ Lào và Việt Nam”
làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn đề ra những quan điểm và bài
học kinh nghiệm, góp phần xây dựng pháp luật về xác lập quyền sở hữu đối với
nhãn hiệu, đáp ứng yêu cầu trong công cuộc đổi mới đất nước Lào hiện nay.


2

2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, SHTT nói chung, NH nói riêng vẫn còn là mảnh đất mới
khai phá còn đầy mới mẻ và phức tạp đối với các nhà hoạt động thực tiễn

cũng như các nhà lý luận Việt Nam và Lào. Tư duy pháp lý về tài sản trí tuệ
mới thực sự được du nhập vào Việt Nam và Lào trong khoảng 10 đến 15 năm
năm trở lại đây - một con số quá là ngắn ngủi so với lịch sử hình thành và
phát triển của tài sản vô hình và pháp luật bảo hộ chúng. Tuy vậy, trong
khoảng thời gian đó, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn đã làm
được khá nhiều công việc có ý nghĩa đối với việc phát triển những tri thức
khoa học về quyền SHTT cũng như về pháp luật bảo hộ quyền SHTT, góp
phần nâng cao hiểu biết, nhận thức của doanh nghiệp và của nhân dân về vấn
đề này. Số lượng các công trình khoa học, các cuộc hội thảo, các bài viết về
quyền SHTT ngày càng nhiều và có chất lượng cao.
Tuy nhiên, riêng đối với NH, đặc biệt là xác lập quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu thì số lượng các công trình khoa học là chưa nhiều. Việc
nghiên cứu được đề cập trong một số công trình khoa học, một số luận án, luận
văn và chủ yếu dừng lại ở các bài viết trên các tạp chí. Cụ thể, đã có một số bài
viết như "Một số vấn đề về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng" của tác giả Nguyễn
Như Quỳnh (Tạp chí Luật học, số 2/2001), "Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Việt
Nam" của Thạc sĩ Lê Hoài Dương (Tạp chí Toà án nhân dân, số 10-2003) , So
sánh quy định về “Nhãn hiệu nổi tiếng” của Công ước Paris và Luật sở hữu trí
tuệ của Lào năm 2007; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQG năm 2002: "Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ
trên thế giới và phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn
hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ" của TS. Nguyễn Thị Quế Anh; các luận văn
thạc sĩ: "Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
hàng hóa tại Việt Nam theo quy định của pháp luật dân sự" của Vũ Thị Hải Yến;
"So sánh pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam với các điều ước
quốc tế và pháp luật một số nước công nghiệp phát triển" của Vũ Thị Phương
Lan; "Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở


3


Việt Nam: thực trạng và giải pháp hoàn thiện" của Hồ Ngọc Hiển; "Bảo hộ nhãn
hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam" của Trần Nguyệt Minh; … Như vậy,
bảo hộ NH được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng Xác lập quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu – So sánh pháp luật sở hữu trí tuệ Lào và
Việt Nam trong mối liên hệ, đánh giá, so sánh về từng khía cạnh của vấn đề là
một đề tài độc lập và không trùng lặp với các đề tài trên. Mặc dù vậy, tác giả
luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, luận
án, luận văn, các bài viết đã đạt được cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có liên
quan đến đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là:
 Về mặt lý luận:
-

Làm sáng tỏ các quy định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối

với nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật Lào.
-

Trên cơ sở phân tích, so sánh các quy định về xác lập quyền sở hữu

công nghiệp đối với nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật Lào, đề
xuất một số quan điểm, phương hướng, biện pháp phù hợp nhằm hoàn thiện
pháp luật xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong pháp luật
Việt Nam và pháp luật Lào và tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi chúng.
 Về mặt thực tiễn:
Trang bị kiến thức cơ bản về đăng ký và xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và Lào; khuyến cáo các
điểm lưu ý đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu và kinh doanh hàng hóa trong

thị trường Việt Nam và Lào. Đưa ra những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện
các quy định của pháp luật CHDCND Lào về xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt
Nam và pháp luật Lào là một đề tài rộng và phức tạp, nhất là liên quan đến
thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu của hai nước còn ngổn ngang bao vấn đề cần có lời
giải đáp. Không thể cầu toàn, với vốn hiểu biết còn hạn hẹp cùng với sự hạn


4

chế về thời gian, không gian nghiên cứu nên trong luận văn này, tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu về nội dung các điều ước quốc tế và pháp luật thực định
của hai nước về vấn đề xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp (là phương pháp truyền thống trong
nghiên cứu luật học) được sử dụng để phân tích các quy định pháp luật Việt
Nam, Lào và pháp luật quốc tếliên quan đến nhãn hiệu và xác lập quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Phương pháp nghiên cứu so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng phổ
biến trong luận văn nhằm phân tích và luận giải những tương tự và khác biệt
giữa quy định của pháp luật SHTT Việt Nam và pháp luật SHTT của Lào
cũng như quy định của các điều ước quốc tế liên quan. Trên cơ sở so sánh, đề
tài đã chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong pháp luật và thực tiễn xác lập
quyền SHCN đối với nhãn hiệu tại Lào.
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của luận văn
Khi nghiên cứu đề tài này, người viết không đặt ra quá nhiều tham vọng mà
trước hết là trang bị thêm kiến thức chuyên sâu cho bản thân; đồng thời, góp một
phần nhỏ bé của mình vào tiếng nói chung của giới luật học nhằm hoàn thiện

pháp luật về xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của Lào cùng
cơ chế thực thi chúng; góp thêm đôi điều vào việc xây dựng hành trang kiến thức
cho các thương nhân Lào để hạn chế rủi ro, chủ động trong cuộc chơi trên thị
trường Việt Nam–một thị trường mới đang ngày càng phát triển.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần: Lời cảm ơn, Mở đầu và Kết luận, luận văn được bố cục gồm:
Chương 1: Khái quát chung về nhãn hiệu và xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu
Chương 2: So sánh quy định của pháp luật Lào và Việt Nam về xác lập
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Chương 3: Thực trạng xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu tại Lào và một số kiến nghị.


5

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VÊ NHÃN HIỆU VÀ XÁC LẬP QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
1.1.

Khái quát về nhãn hiệu

1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng phải đối diện với nhiều
chủng loại hàng hóa cũng như sự đa dạng của các loại dịch vụ được cung cấp
ngày càng nhiều ở cấp độ quốc gia thậm chí quốc tế. Điều này dẫn đến nhu
cầu sử dụng nhãn hiệu để ngưởi tiêu dùng có thể phân biệt các hàng hóa, dịch
vụ của các nhà sản xuất khác nhau. Vì vậy, nhãn hiệu dần trở thành một tài
sản vô hình quan trọng, có giá trị lớn của các nhà sản xuất, giúp gia tăng sức

cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Do đó, nhu cầu xác lập và
bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu trở nên rất cần thiết.
Khái niệm nhãn hiệu được quy định trong các điều ước quốc tế và được
nội luật hóa trong pháp luật sở hữu trí tuệ của các quốc gia. Các điều ước
quốc tế quy định các nguyên tắc chung về đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu trên
phạm vi toàn cầu đã được ký kết, điển hình là Công ước Paris về bảo hộ sở
hữu công nghiệp năm 1983, Hiệp định Trips của WTO năm 1994…
Theo Khoản 1 Điều 15b, Hiệp định Trips năm 1994 quy định: “Bất kì một
dấu hiệu, hoặc một tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp
khác, đều có thể là nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng,
các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp màu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ
của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký làm nhãn hiệu…”.
Như vậy, theo Hiệp định Trips năm 1994, nhãn hiệu được ghi nhận cấu
thành từ bất kỳ dấu hiệu nào với điều kiện đảm bảo khả năng phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Có thể nói, đây là khái niệm mang tính
khái quát và mềm dẻo trong pháp luật quốc tế. Từng quốc gia khác nhau sẽ có
những quy định riêng biệt phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình.


6

Theo định nghĩa của WIPO nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc
của một nhóm các doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ
ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu
sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu
hiệu này có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu chỉ được
chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác
ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc nhãn hiệu hiệu đó không được

trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác được
đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm. (Theo tài liệu “Những điều chưa
biết về sở hữu trí tuệ: tài liệu hướng dẫn dành cho những doanh nghiệp xuất
khẩu vừa và nhỏ”, Geneva ITC/WIPR, 2004).
Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Mỹ: Các vấn đề liên quan đến
nhãn hiệu của Mỹ được điều chỉnh bởi Đạo luật Nhãn hiệu (Lanham Act) ban
hành năm 1946 và được sửa đổi nhiều lần trong quá trình áp dụng. Theo luật
này quy định "Nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay hình vẽ
hoặc sự kết hợp giữa chúng được sử dụng bởi một người hoặc được một
người đó có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại và xin đăng ký
theo quy định tại luật này- để xác định và phân biệt hàng hóa của người đó,
bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với những hàng hóa cùng loại được sản
xuất hoặc được bán bởi những người khác và để chỉ rõ nguồn gốc của hàng
hóa thậm chí mà không xác định được nguồn gốc đó " và "không có nhãn
hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa của người nộp đơn với những hàng
hóa của người khác lại bị từ chối đăng ký vào sổ đăng ký...".
Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Cộng đồng Châu Âu (EU):
Theo Điều 4 bản Quy định số 40/1994 ngày 20/12/1993 của Hội Đồng
Châu Âu thì nhãn hiệu được định nghĩa: "được công nhận là nhãn hiệu cộng
đồng bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng hiện hữu dưới dạng đồ họa, các chữ
cái, tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng


7

hóa hoặc của bao gói của hàng hóa mà các dấu hiệu đó có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh với hàng hóa, dịch vụ của chủ
thể kinh doanh khác".
Đối với Lào, nhãn hiệu là một trong những đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ được bảo hộ đầu tiên tại CHDCND Lào. Từ năm 1995, CHDCND Lào đã

ban hành Nghị định số 06/TTg ngày 18/1/1995 về bảo hộ nhãn hiệu, đây là
văn bản pháp luật đầu tiên quy định về bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu tại CHDCND Lào, với mục đích nhằm thống nhất việc quản lý bảo
hộ nhãn hiệu trong phạm vi toàn quốc, khuyến khích, thúc đẩy đầu tư nước
ngoài vào CHDCND Lào, kích thích hoạt động kinh tế thương mại trong và
ngoài nước, bảo đảm chất lượng sản xuất hàng hoá, bảo vệ người tiêu dùng,
ngăn chặn hành vi gian lận hàng hoá và hoạt động thương mại bất hợp pháp.
Để đáp ứng được mục đích nói trên và tạo sự thuận lợi cho việc đăng ký
nhãn hiệu, ủy ban Quốc gia về Khoa học, Công nghệ và Môi trường của
Lào(1) đã thông qua Quy định số 466/UQKCM ngày 7/3/2002 về đăng ký
nhãn hiệu. Như vậy, trước năm 2002 việc đăng ký nhãn hiệu tại CHDCND
Lào không có các quy định hướng dẫn chi tiết.
Với quyết tâm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cuối năm
2007, Quốc hội CHDCND Lào đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ số 08/QH
ngày 24/12/2007 - đây là văn bản luật đầu tiên của Lào quy định bảo hộ tất cả
các quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ. Lào đã trở thành thành viên của Tổ
chức Sở hữu trí tuệ Thế giới từ ngày 17/1/1995, thành viên của Công ước
Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ ngày 08/10/1998, thành viên của
Hiệp ước về hợp tác sáng chế từ ngày 14/6/2006, đang đệ đơn gia nhập Công
ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật và đang dự định tham gia
vào các công ước quốc tế khác liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
trong tương lai.
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định về nhãn hiệu hàng hóa năm 1995,
“Nhãn hiệu là một dấu hiệu có thể nhìn thấy được có khả năng phân biệt hàng


8

hoá hoặc dịch vụ giữa các doanh nghiệp. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh
hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu

sắc. Nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu được sử dụng để làm nhãn hiệu của hàng
hoá hoặc nhằm sử dụng để làm nhãn hiệu của một dịch vụ nào đó để xác nhận
rằng, hàng hóa hoặc dịch vụ đó thuộc về chủ sở hữu của chủ nhãn hiệu hàng
hóa đó tạo ra”. Như vậy khái niệm nhãn hiệu theo Nghị định này rất hạn hẹp
đối với dấu hiệu có khả năng để được đăng ký nhãn hiệu hàng hóa theo pháp
luật của Lào. Bởi vì, theo như quy định trên thì chỉ có dấu hiệu dưới dạng từ
ngữ, hình ảnh và sự kết hợp giữa các yếu tố đó tạo ra được thể hiện bằng một
hoặc nhiều màu sắc. Vậy, nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được, cảm
nhận được thông qua thị giác và thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa sử dụng chung
cho các hàng hóa và dịch vụ.
Trong khi đó, nếu so sánh với định nghĩa nhãn hiệu được quy định tại
khoản 1 Điều 17 của Hiệp định Thương mại song phương giữa CHDCND
Lào và Hoa Kỳ năm 1997: “ Nhãn hiệu được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ
hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng
hoá hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác,
bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu
tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa.
Nhãn hiệu hàng hoá bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn
hiệu chứng nhận”. Theo khái niệm nhãn hiệu trong Hiệp định này, khả năng
các dấu hiệu được đăng ký bảo hộ là nhãn hiệu hàng hóa được mở rộng,
không chỉ giới hạn bởi các dấu hiệu nhìn thấy được. Hiệp định còn đồng thời
quy định có 4 loại nhãn hiệu được bảo hộ đó là nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu
dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Trong khi đó Nghị định
về nhãn hiệu hàng hóa năm 1995 chỉ có 3 loại nhãn hiệu được bảo hộ đó là
nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và nhãn hiệu tập thể.
Từ năm 2007 đến nay, cùng với sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2007, sau đó là Luật Sở hữu trí tuệ được sửa đổi bổ sung năm 2011 đã đánh


9


dấu một bước tiến mới trong quy định về nhãn hiệu. Theo khoản 9 và khoản 10
Điều 3 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2007 định nghĩa nhãn hiệu như sau: Nhãn
hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có thể là hình ảnh, từ ngữ, chữ cái, chữ số, tên
người, màu sắc, hình dạng hoặc hình khối của vật thể hoặc sự kết hợp giữa một
hay nhiều các yếu tố đó với nhau và những yếu tố khác để sử dụng hoặc nhằm
sử dụng để làm nhãn hiệu hàng hoá; Nhãn hiệu hàng hóa là một dấu hiệu như
đã đề cập trong Khoản 9 Điều 3 sử dụng cho hàng hoá hoặc dịch vụ để phân
biệt giữa hàng hoá hoặc dịch vụ này với hàng hóa hoặc dịch vụ khác. Định
nghĩa nhãn hiệu trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2007 sau đó được sửa đổi bổ
sung năm 2011 đã mở rộng, rất nhiều dấu hiệu có khả năng đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa được quy định so với Nghị định năm 1995. Cụ thể, kết hợp giữa
Khoản 9 và Khoản 10 Điều 3 Luật sửa đổi năm 2011 thì:“Nhãn hiệu là một
dấu hiệu nào, hoặc bất kỳ sự kết hợp của các dấu hiệu, có khả năng phân biệt
hàng hoá hoặc dịch vụ của một công ty nào đó với công ty khác”.Tuy nhiên,
các nhà làm luật của Lào vẫn chưa nói rõ vấn đề dấu hiệu ở đây là những dấu
hiệu cụ thể gì nếu hiểu theo một cách khác thì có thể dấu là hiệu bất kỳ mà có
khả năng phân biệt giữa hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa
hoặc dịch vụ của chủ thể khác đều có khả năng dùng làm nhãn hiệu hàng hóa
hoặc nhãn hiệu dịch vụ của cá nhân hoặc tổ chức nào đó.
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2007 sửa đổi bổ sung năm
2011, thì những loại nhãn hiệu được bảo hộ là gồm nhãn hiệu hàng hóa, nhãn
hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu nổi tiếng.
Còn theo pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay, tại Khoản
16 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009định
nghĩa: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau”. Theo đó, có thể hiểu nhãn hiệu là mọi dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ. Quy định này hoàn toàn mang tính khái
quát, ngắn gọn giải thích về chức năng chính của nhãn hiệu. Cụ thể hơn, trong
phần điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu, tại Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ, các



10

nhà làm luật Việt Nam lại chỉ cho phép một loại dấu hiệu có thể được bảo hộ
nhãn hiệu là dấu hiệu “nhìn thấy được”. Quy định này thu hẹp phần giải thích
từ ngữ nhãn hiệu tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ nói trên, và cũng
hẹp hơn quy định của Trips là “bất cứ dấu hiệu nào”. Điều này có nghĩa rằng,
các dấu hiệu như âm thanh, mùi vị… không thể đăng ký là nhãn hiệu theo quy
định của pháp luật SHTT Việt Nam
1.1.2. Các loại nhãn hiệu
Việc phân loại nhãn hiệu có ý nghĩa rất lớn, không chỉ về mặt lý luận mà cả
trong thực tiễn. Trước hết, phân loại nhãn hiệu cho phép xác định đặc trưng của
một loại nhãn hiệu – đặc trưng này không chỉ ảnh hưởng tới yếu tố cảm nhận
nhãn hiệu trong người tiêu dùng, tới tính chất của việc sử dụng nhãn hiệu hàng
hóa mà còn ảnh hưởng tới cả quá trình đăng ký nhãn hiệu hàng hóa đó. Về cơ
bản, các nước trên thế giới thừa nhận một số loại nhãn hiệu sau:
1.1.2.1. Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ
Trong các điều ước quốc tế như Hiệp định Trips, Công ước Paris khi đề
cập đến nhãn hiệu hàng hóa đều có sự phân biệt nhất định giữa nhãn hiệu
hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai loại nhãn
hiệu này chỉ ở chỗ nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu phân biệt được gắn
lên các sản phẩm hữu hình còn các nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu phân biệt
dành cho các sản phẩm vô hình. Nhưng về mặt cơ bản, hai loại nhãn hiệu này
giống nhau. Vì nhãn hiệu dịch vụ cũng mang đầy đủ chức năng nhằm biểu
hiện nguồn gốc và phân biệt đối với các dịch vụ khác giống như các chức
năng của nhãn hiệu dùng cho hàng hóa. Đồng thời trong hầu hết các hệ thống
pháp luật nhãn hiệu hàng hóa quốc gia hay quốc tế, nhãn hiệu dịch vụ được
đăng ký, gia hạn và hủy bỏ theo cùng một cách như nhãn hiệu hàng hóa được
chuyển giao và cấp phép sử dụng theo cùng những điều kiện như nhãn hiệu

hàng hóa. Vì thế, các quy định điều chỉnh nhãn hiệu hàng hóa ở các nước
cũng được áp dụng, về nguyên tắc, giống hệt như nhãn hiệu dịch vụ.


11

Hiện nay, để phục vụ cho công tác thẩm định nhãn hiệu, các quốc gia trên
thế giới đang áp dụng Bảng phân loại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ Nice với
45 nhóm khác nhau, trong đó có 34 nhóm sản phẩm và 11 nhóm dịch vụ.
Ví dụ: Nhãn hiệu dùng cho hàng hóa

Nhãn hiệu cho sản phẩm cafe
Trung Nguyên của Việt Nam

Nhãn hiệu cho sản phẩm cafe
Dao-heuang Group của Lào

Ví dụ: Nhãn hiệu dùng cho dịch vụ

Nhãn hiệu dịch vụ vận
chuyển của hãng hàng không

Nhãn hiệu dịch vụ vận chuyển
của hãng hàng không Lào Airline

Việt Nam Airline
1.1.2.2. Nhãn hiệu tập thể
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của
các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ
của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.



12

Nhãn hiệu tập thể thường là của một hiệp hội hoặc một tập thể mà các
thành viên của nó có thể sử dụng nhãn hiệu tập thể để quảng bá sản phẩm của
mình. Hiệp hội thường thiết lập một hệ thống các tiêu chuẩn nhất định cho
việc sử dụng nhãn hiệu tập thể (chẳng hạn như các tiêu chuẩn về chất lượng)
và cho phép các công ty thành viên sử dụng nhãn hiệu nếu họ đáp ứng được
các tiêu chuẩn đó.
Nhãn hiệu tập thể có thể là một hình thức hiệu quả để cùng quảng bá sản
phẩm của một nhóm doanh nghiệp mà, nếu là với từng nhãn hiệu riêng biệt,
khó có thể được người tiêu dùng nhận biết hoặc được các đại lý lớn chấp nhận
phân phối.
Chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể có trách nhiệm đảm bảo sự tuân thủ các
yêu cầu nhất định của các thành viên (thường được quy định trong quy chế
liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu tập thể). Do đó, chức năng của nhãn
hiệu tập thể là chỉ dẫn cho công chúng về những đặc tính cụ thể nhất định của
sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể. Hầu hết các nước yêu cầu rằng đơn yêu cầu
đăng ký nhãn hiệu tập thể nộp kèm theo bản sao quy chế sử dụng nhãn hiệu
tập thể đó.
Công ước Paris có quy định về nhãn hiệu tập thể tại Điều 7bis. Theo đó,
các nước thành viên của Liên minh phải có trách nhiệm chấp nhận đơn đăng
ký và bảo hộ các nhãn hiệu tập thể với chủ sở hữu là các tập thể tồn tại hợp
pháp theo pháp luật của các nước sở tại, cho dù các tập thể đó có trực tiếp sở
hữu các cơ sở công nghiệp và thương mại hay không. Mặc dù tổ chức tập thể
có thể không thành lập ở nước sở tại nhưng nước sở tại vẫn có trách nhiệm
cho đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tập thể miễn là sự tồn tại của tổ chức tập thể
đó không trái với pháp luật của nước sở tại. Đương nhiên, các nước thành
viên cũng có quyền từ chối nếu nhãn hiệu tập thể đó trái với lợi ích xã hội.

Nội dung và điều kiện bảo hộ sẽ được thực hiện theo pháp luật nước sở tại.
Như vậy, công ước Paris cũng không đưa ra khái niệm cũng như cách thức
bảo vệ đối với nhãn hiệu tập thể.


13

Theo Khoản 11 Điều 3 của Luật sở hữu trí tuệ Lào năm 2011, thì “Nhãn
hiệu tập thể là nhãn hiệu được sử dụng bởi các doanh nghiệp có liên quan
hoặc các thành viên của một hiệp hội, hợp tác xã, tổ chức Nhà nước tư nhân
hoặc một nhóm cá nhân”.
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 (được sửa đổi năm 2009) có quy định
liên quan đến nhãn hiệu tập thể tại Khoản 17 Điều 4, cụ thể: “Nhãn hiệu tập
thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của
tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân
không phải là thành viên của tổ chức đó.”
Nhãn hiệu hàng hóa tập thể:

Đăng bạ quốc gia số 77941
cấp ngày 26/12/2006

Đăng bạ quốc gia số 86138 cấp
ngày 14/08/2007

1.1.2.3. Nhãn hiệu chứng nhận
Nhãn hiệu chứng nhận là một loại nhãn hiệu hàng hóa đặc thù mới xuất
hiện gần đây trong thực tiễn thương mại. Loại nhãn hiệu này chưa được đề
cập đến trong các điều ước quốc tế về nhãn hiệu hàng hóa, kể cả hiệp định
Trips. Một số nước cũng có quy định về việc bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận.
Nhãn hiệu chứng nhận thường được cấp cho những đối tượng đáp ứng các

tiêu chuẩn xác định mà không có hạn chế bất kỳ về tư cách thành viên. Nhãn
hiệu chứng nhận có thể được sử dụng bởi chủ thể bất kỳ mà có thể chứng
nhận rằng sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định đã được đặt ra. Tuy


14

nhiên, người Mỹ lại rất quen thuộc với nhãn hiệu hàng hóa này. Luật Nhãn
hiệu hàng hóa năm 1946 của Mỹ qua nhiều lần sửa đổi, cùng với tài liệu
hướng dẫn chính thức đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của Cục sáng chế và nhãn
hiệu hàng hóa Mỹ đề cập khá chi tiết về nhãn hiệu chứng nhận và những đặc
điểm của nó.
Ví dụ: Nhãn hiệu chứng nhận nổi tiếng như WOOLMARK chứng nhận
rằng hàng hóa mang nhãn hiệu này làm hoàn toàn (100%) bằng len.
Ở nhiều nước, khác biệt chính giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng
nhận là nhãn hiệu tập thể chỉ được sử dụng cho một nhóm doanh nghiệp cụ
thể, ví dụ các thành viên của hiệp hội, trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể
được sử dụng cho bất kỳ chủ thể nào đáp ứng các tiêu chuẩn xác định của chủ
sở hữu nhãn hiệu chứng nhận. Một yêu cầu quan trọng đối với nhãn hiệu
chứng nhận là chủ thể nộp đơn đăng ký phải được xem là “có thẩm quyền
chứng nhận” hàng hóa có liên quan. (Tài liệu của: Bộ phận doanh nghiệp vừa
nhỏ - Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO - />Nhãn hiệu chứng nhận cũng có thể được sử dụng cùng với các nhãn hiệu
riêng của nhà sản xuất hàng hóa nhất định. Nhãn hàng hóa sử dụng như nhãn
hiệu chứng nhận là bằng chứng chứng tỏ rằng sản phẩm của doanh nghiệp
đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể được đặt ra khi sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
Nhãn hiệu chứng nhận cũng không dùng để phân biệt hàng hóa/dịch vụ
của chủ nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của chủ thể cạnh tranh.
Mục đích của nhãn hiệu chứng nhận là đảm bảo chất lượng của hàng hóa,
dịch vụ mang nhãn hiệu phải đúng với yêu cầu của nhãn hiệu chứng nhận đã
được chỉ rõ trong đơn đăng ký. Người chủ nhãn hiệu chứng nhận chỉ đơn

thuần là người đứng ra đăng ký nhãn hiệu này và chỉ rõ nó nhằm xác nhận
một tiêu chuẩn nhất định, thường là tiêu chuẩn về chất lượng, nếu không là
đặc điểm về quy trình sản xuất hay sử dụng nhân công lao động. Chủ nhãn
hiệu chứng nhận phải có trách nhiệm kiểm tra chất lượng các sản phẩm gắn
nhãn hiệu chứng nhận của mình và chủ nhãn hiệu chứng nhận có thể được


15

hưởng phí thông qua việc cho phép các nhà sản xuất khác sử dụng nhãn hiệu
chứng nhận. Phạm vi sử dụng nhãn hiệu chứng nhận rất rộng, bao gồm nhiều
doanh nghiệp trong cùng một hiệp hội thậm chí không cùng một hiệp hội
nhưng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sử dụng nhãn do chủ sở hữu nhãn đặt ra
và được chủ nhãn đồng ý. Do đặc điểm này mà chủ nhãn hiệu chứng nhận
thường là các hiệp hội doanh nghiệp, các liên minh doanh nghiệp, các cơ quan
nhà nước hay chính bản thân nhà nước.
Trước khi Luật sở hữu trí tuệ 2005 ra đời, Việt Nam chưa có các quy
định về loại nhãn hiệu này dù trên thực tế có rất nhiều các doanh nghiệp của
Việt Nam sử dụng. Ví dụ như: Các nhãn hiệu thuộc dòng ISO, hàng Việt Nam
chất lượng cao…
Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, để
thực thi các cam kết quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 của Việt Nam lần đầu tiên đã ghi nhận sự tồn tại
nhãn hiệu chứng nhận:
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất
hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn
hoặc đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu (theo Khoản 18
Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 của Việt Nam).

Theo quy định của pháp luật Lào, nhãn hiệu chứng nhận cũng được ghi
nhận trong Khoản 12 Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ Lào năm 2007 sửa đổi bổ
sung năm 2011, cụ thể như sau: Nhãn hiệu chứng nhận là các nhãn hiệu, mà
chủ sở hữu đã cho phép các cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức sử dụng cho
hàng hóa, dịch vụ của họ để chứng nhận các đặc tính, liên quan đến nguồn
gốc, nguyên liệu, cách thức sản xuất hàng hóa hoặc cách thức cung cấp dịch
vụ, chủng loại, chất lượng, an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa,
dịch vụ.


16

Đăng bạ quốc gia số 124661 cấp
ngày 12/5/2009
1.1.2.4. Nhãn hiệu liên kết
Đây là một khái niệm mới được đưa vào pháp luật về nhãn hiệu ở Việt
Nam.
Khoản 19 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 Việt Nam cũng quy định nhãn
hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương
tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có
liên quan tới nhau.
Qua các khái niệm này, có thể nhận thấy nhãn hiệu liên kết có các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, các nhãn hiệu liên kết do cùng cùng một chủ thể đăng ký bảo hộ;
Thứ hai, nhãn hiệu liên kết bao gồm nhiều nhãn hiệu tương tự nhau hoặc
trùng nhau;
Thứ ba, các nhãn hiệu này dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại,
tương tự với nhau hoặc có liên quan tới nhau.
Như vậy, nhãn hiệu liên kết có thể được chia thành hai loại. Loại thứ
nhất là các nhãn hiệu hàng hóa tương tự nhau được một chủ thể đăng ký dùng

cho các hàng hóa, dịch vụ cùng loại, tương tự với nhau hay có liên quan tới
nhau. Loại thứ hai, là các nhãn hiệu hàng hóa giống hệt nhau được một chủ
thể đăng ký cho sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau hoặc có liên quan tới nhau.


17

Việc đăng ký nhãn hiệu liên kết mang lại lợi thế cho chủ sở hữu nhãn
hiệu, đó là được độc quyền sử dụng dấu hiệu có khả năng phân biệt cho nhiều
loại hàng hóa, dịch vụ không cùng nhóm của mình nếu hàng hóa, dịch vụ đó
có liên quan với nhau, nhãn hiệu liên kết còn tạo điều kiện cho người tiêu
dùng một sự liên tưởng là các hàng hóa, dịch vụ này có cùng một nguồn gốc
xuất xứ. Như vậy, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa không phải đầu tư nhiều
tiền vào hoạt động quảng cáo, xây dựng niềm tin đối với khách hàng.
Tuy nhiên, việc đăng ký nhãn hiệu liên kết cũng có nhược điểm của nó là
nếu có một sản phẩm mang nhãn hiệu bị mất uy tín thì cũng kéo theo các
nhãn hiệu tương tự hoặc có liên quan khác cũng mấy uy tín theo.
1.1.2.5. Nhãn hiệu nổi tiếng
Nhãn hiệu nổi tiếng là một loại nhãn hiệu hàng hóa được nhiều người tiêu
dùng trên thế giới biết đến, nó chiếm lĩnh thị trường rộng lớn, vượt ra khỏi
phạm vi quốc gia sản xuất ra loại hàng hóa sản phẩm đó. Một nhãn hiệu nổi
tiếng là tài sản vô giá của chủ nhãn hiệu. Bởi vì nó không chỉ thực hiện tốt
chức năng phân biệt của một nhãn hiệu thông thường mà còn là lời cam kết về
chất lượng và những phẩm chất khác của sản phẩm, của nhà sản xuất đối với
người tiêu dùng. Cũng chính vì vậy nên tình trạng nhãn hiệu nổi tiếng bị sao
chép, bị làm nhái diễn ra trên khắp thế giới. Vì thế vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng được đặt ra theo cách thức đặc biệt hơn so với nhãn hiệu thông thường
trong các điều ước quốc tế cũng như trong hệ thống pháp luật của các nước.
Mặc dù đã được biết đến từ rất lâu, song cho đến nay cách hiểu về nhãn
hiệu nổi tiếng vẫn còn đang rất khác nhau trong các điều ước quốc tế cũng

như trong pháp luật các nước. Công ước Paris năm 1983 lần đầu tiên đề cập
đến nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 6bis bằng cách quy định nghĩa vụ bắt buộc
của các quốc gia thành viên trong việc từ chối hay hủy bỏ mọi sự đăng ký
cũng như ngăn cấm mọi sự sử dụng của nhãn hiệu hàng hóa mà nó được coi là
sự sao chép, một sự bắt chước, một bản dịch hoặc có thể gây nhầm lẫn với
một nhãn hiệu nổi tiếng, và quy định về khoảng thời gian cho phép chủ sở


18

hữu nhãn hiệu nổi tiếng yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ sự đăng
ký đối với những nhãn hiệu xâm phạm. Tuy nhiên, Công ước lại không hề
đưa ra một định nghĩa chính thức và rõ ràng về nhãn hiệu nổi tiếng. Chỉ có
một căn cứ duy nhất để xác định một nhãn hiệu hàng hóa trở nên nổi tiếng, đó
là sự chấp nhận hay thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc
gia nơi nhãn hiệu được đăng ký hay quốc gia nới sản phẩm được sử dụng.
Theo những quy định của Hiệp định Trips, vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng nhìn chung dựa trên các nguyên tắc được ấn định bởi Công ước Paris
với những sự thay đổi và bổ sung phù hợp. Theo đó, khái niệm nhãn hiệu nổi
tiếng không chỉ được sử dụng cho đối tượng là hàng hóa mà còn được sử
dụng cho cả các đối tượng dịch vụ và Hiệp định cũng ghi nhận một số căn cứ
chung để xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là nổi tiếng hay không.
Ngoài ra, Hiệp định cũng mở rộng phạm vi các nhãn hiệu nổi tiếng được bảo
hộ, bảo gồm cả các nhãn hiệu được coi là rất nổi tiếng.
Hiện nay, Khoản 20 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam quy định:
“nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được nhiều người tiêu dùng biết đến rộng
rãi trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam”.
Theo Khoản 13 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2007 sửa đổi, bổ sung
2011 của Lào thì: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được biết một cách phổ
biến rộng rãi kể cả nhãn hiệu được nhận biết do sự khuyến khích nhãn hiệu

đó trong lãnh thổ Lào”.
Mặc dù có những sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật, chúng ta vẫn có
thể đưa ra một định nghĩa đúng nhất về nhãn hiệu nổi tiếng. Theo đó, nhãn
hiệu nổi tiếng được hiểu là nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi bởi
nhiều người trong phạm vi lãnh thổ nhất định hoặc được xem xét, thừa nhận
bởi các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia nơi nhãn hiệu được đăng ký
bảo hộ hay được sử dụng.
Từ đó, có thể thấy nhãn hiệu nổi tiếng có một số đặc trưng sau nổi bật so
với các nhãn hiệu thông thường khác:


19

Thứ nhất, nhãn hiệu nổi tiếng được hưởng sự bảo hộ mạnh hơn. Ngoài
ra, nhãn hiệu nổi tiếng còn được bảo hộ nhằm chống lại các nhãn hiệu tương
tự gây nhầm lẫn khi chúng được dùng cho cả sản phẩm cùng loại lẫn không
cùng loại nếu thỏa mãn điều kiện cụ thể. Trong khi với nhãn hiệu thông
thường chỉ được bảo hộ nhằm chống lại các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn
cho các sản phẩm trùng hoặc tương tự.
Thứ hai, một nhãn hiệu nổi tiếng có tính phân biệt cao. Thông qua một
nhãn hiệu nổi tiếng, người tiêu dùng có thể nhận biết ngay loại hàng hóa hay
dịch vụ mà nhãn hiệu đó sử dụng.
Thứ ba, nhãn hiệu nổi tiếng thường có tính phổ biến cao, một nhãn hiệu
nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến bởi nhiều người ở nhiều khu vực địa lý
khác nhau. Chẳng hạn, Toyota là một nhãn hiệu xe hơi của Nhật nhưng nó lại
biết đến bởi người tiêu dùng trên hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Thứ tư, nhãn hiệu nổi tiếng có giá trị kinh tế lớn. Nó cấu thành một bộ
phận tài sản quan trọng trong khối lượng tài sản của doanh nghiệp, không ít
nhãn hiệu nổi tiếng đã trở thành một phần tài sản quan trọng thậm chí đóng vai
trò quyết định trong khối lượng tài sản các công ty sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

Thứ năm, về thủ tục xác lập quyền: Quyền đối với nhãn hiệu thông
thường được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ hoặc công
nhận đăng ký quốc tế của Cục Sở hữu trí tuệ. Thông thường các chủ thể muốn
được hưởng quyền đối với nhãn hiệu phải trực tiếp làm đơn xin cấp văn bằng
bảo hộ và nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ hoặc uỷ quyền cho một tổ chức đại diện
sở hữu công nghiệp đã được cấp chứng chỉ hoạt động thực hiện các công việc
này. Còn quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng,
không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.
Thứ sáu, về thời hạn bảo hộ: Đối với nhãn hiệu thông thường chủ sở hữu
nhãn hiệu có độc quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình
trong hoạt động thương mại trong suốt thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ
nhãn hiệu (kể từ ngày được cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ
và có thể được gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10 năm). Còn nhãn hiệu
nổi tiếng có thể được bảo hộ không xác định thời hạn.


×