Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

LỊCH sử ĐẢNG bộ HUYỆN PHỤNG HIỆP mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 17 trang )

TRƯỜNG THCS HIỆP HƯNG
GV: PHẠM THỊ NGỌC MAI
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN PHỤNG HIỆP
Câu 2. Quá trình Đảng bộ lãnh đạo Nhân dân Phụng Hiệp vùng lên khởi
nghĩa Nam kỳ, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945?
Kính thưa toàn thể các bạn tham dự cuộc thi, tìm hiểu lịch sử đảng bộ huyện
Phụng Hiệp trước khi ta tìm hiểu qúa trình Đảng bộ lãnh đạo Nhân dân Phụng
Hiệp vùng lên khởi nghĩa Nam kỳ, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền
tháng Tám năm 1945? thì ta hay khái quát tình hình huyện Phụng Hiệp trong giai
đoạn hiện nay:
I - TÌM HIỂU VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
HUYỆN:tổng quan huyện phụng HIệp
Trước ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, Phụng Hiệp là một huyện
của tỉnh Phong Dinh; Sau ngày giải phóng 30/04/1975 đến năm 1992, huyện
Phụng Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang; Từ năm 1992 đến năm 2003, huyện Phụng Hiệp
thuộc tỉnh Cần Thơ; Từ năm 2004 đến nay, huyện Phụng Hiệp thuộc tỉnh Hậu
Giang (ngày 26/11/2003, Quốc hội có Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và
điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh trong đó có việc chia tỉnh Cần Thơ
thành 2 đơn vị hành chính là thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh
Hậu Giang).
Ngày 26 tháng 07 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 98/2005/NĐ-CP,
về việc thành lập thị xã Tân Hiệp, tỉnh Hậu Giang; thành lập phường, xã thuộc thị
xã Tân Hiệp (nay đổi tên thành thị xã Ngã Bảy).
Thực hiện Nghị định này, huyện Phụng Hiệp tách ra thành 2 đơn vị hành chính
mới là thị xã Ngã Bảy và huyện Phụng Hiệp.
Huyện Phụng Hiệp tiến hành xây dựng trụ sở tạm tại thị trấn Cây Dương và di dời
về trụ sở mới vào cuối năm 2010.
II - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN:
Phụng hiệp là một huyện vùng nông nghiệp của tỉnh Hậu Giang, trung tâm huyện
Phụng Hiệp nằm trên tỉnh lộ 927 cách trung tâm tỉnh Hậu Giang 37 Km có diện
tích 483,66 Km2, dân số 193.704 người.


1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:


Huyện Phụng Hiệp nằm ở phía Đông của tỉnh Hậu Giang, địa hình chạy theo
sông, kênh, rạch và các đường Quốc lộ chính như; đường tỉnh 927,đường 928,
Quốc lộ 61 tiếp giáp với các huyện, tỉnh khác như sau: Phía Bắc giáp huyện Châu
Thành A, tỉnh Hậu Giang; Phía Đông giáp huyện Châu Thành và thị xã Ngã Bảy,
tỉnh Hậu Giang; Phía Nam giáp huyện Châu Thành và huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc
Trăng; Phía Tây giáp huyện Vị Thủy và huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Huyện
chia thành 15 đơn vị hành chính gồm 03 thị trấn: Cây Dương, Kinh Cùng, Búng
Tàu và 12 xã: Phụng Hiệp, Long Thạnh, Thạnh Hòa, Tân Bình, Hòa An, Hiệp
Hưng, Tân Phước Hưng, Hòa Mỹ, Phương Bình, Phương Phú, Tân Long và Bình
Thành.

Bản đồ hành chính huyện Phụng Hiệp
Có vị thế nằm gần với sông Hậu và nhiều kênh trục chạy qua, đồng thời quy mô
đất đai và dân số của huyện lớn là tiềm năng và lợi thế cho phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.


2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH:
Địa hình của huyện nhìn chung khá bằng phẳng, cao độ có xu thế thấp dần theo
hướng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây thấp dần vào giữa huyện, đã tạo
thành các khu vực có địa hình cao thấp khác nhau.
3. KHÍ HẬU:
Huyện Phụng Hiệp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với
những đặc trưng sau:
Nhiệt độ cao đều trong năm (trung bình 26,8 oC), tháng 4 nóng nhất (nhiệt độ
trung bình 28,3oC) và tháng giêng thấp nhất (nhiệt độ trung bình 25,5 oC). Nắng
nhiều (trung bình 2.445 giời/năm, 6,7 giời/ngày), điều kiện khí hậu khá thuận lợi

để cây trồng sinh trưởng – phát triển tốt, cho năng suất và chất lượng sản phẩm
cao.
Lượng mưa bình quân năm đạt 1.635 mm và phân hóa sâu sắc theo mùa. Mùa
mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11 với lượng mưa chiếm 90% tổng lượng mưa
trong năm. Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 3 với lượng mưa chỉ chiếm
10% tổng lượng mưa trong năm.
4. SÔNG NGÒI:
Phụng Hiệp có hệ thống sông ngòi chằng chịt với nhiều con sông lớn nhỏ. Sông
Hậu là nguồn cung cấp nước chủ yếu trên địa bàn huyện với nguồn nước dồi dào
quanh năm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế -xã hội của huyện đặc
biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.
II. KINH TẾ - XÃ HỘI
1. VỀ NÔNG NGHIỆP:
Nông nghiệp vẫn là thế mạnh của huyện, những năm qua, ngành nông nghiệp
huyện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, trên cơ sở quy hoạch phát triển sản
xuất hợp lý, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và sinh thái của từng vùng. Năm
2012 toàn huyện gieo trồng được 52.035 ha lúa (3 vụ), sản lượng 295.543 tấn.
Nhiều vùng chuyên canh lúa, mía, cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, mang lại hiệu
quả kinh tế cao đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao mức sống người dân, xóa
hộ đói, giảm hộ nghèo.
Ngoài lúa và cây ăn trái, huyện Phụng Hiệp còn chú trọng phát triển cây mía, là
vùng nguyên liệu mía của tỉnh Hậu Giang. Niên vụ mía năm 2012, huyện Phụng
Hiệp trồng được 9.705 ha, sản lượng 823.836 tấn, giá bán từ 780 – 960 đ/kg; gần
trung tâm huyện Phụng Hiệp là Công ty Mía đường - cồn Long Mỹ Phát và nhà
máy đường Phụng Hiệp đó là điều kiện thuận lợi để tiêu thụ mía trên địa bàn
huyện. Bên cạnh thế mạnh cây lúa và cây mía truyền thống, huyện Phụng Hiệp còn


tận dụng lợi thế tự nhiên để đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản. Phong trào chăn nuôi
thủy sản ở huyện Phụng Hiệp nở rộ trong vài năm gần đây. Bước đầu chăn nuôi

theo hình thức bán công nghiệp, chủ yếu trong ao, vèo, lồng... ven các tuyến kênh,
rạch. Mỗi khi mùa nước về, thay vì sản xuất lúa vụ 3 kém hiệu quả, người dân
chuyển sang nuôi cá dưới ruộng.
Tuy nhiên, do quy mô các mô hình sản xuất nhỏ, chỉ góp phần cải thiện cuộc
sống cho nhiều hộ dân nông thôn, chứ chưa thể khai thác hết tiềm năng, thế mạnh
nuôi trồng thủy sản tại địa phương. Về thủy sản năm 2012 toàn huyện thả nuôi
3.999,05 ha cá các loại với sản lượng 30.694,5 tấn. Dựa vào lợi thế tự nhiên của 2
xã Hiệp Hưng và Tân Phước Hưng có các tuyến kênh lớn như: kênh Quản lộ
Phụng Hiệp, Lái Hiếu, Cây Dương..., huyện Phụng Hiệp đã quy hoạch thành công
vùng nuôi thủy sản có giá trị thương phẩm của khu vực Đồng bằng Sông Cửu
Long và phục vụ cho xuất khẩu.
2. CÔNG NGHIỆP:
Nằm trên địa bàn huyện là các Công ty: Công ty cổ phần Việt Long VDCO sản
xuất thức ăn chăn nuôi thủy sản, Công ty TNHH hải sản Việt Hải và một số Hợp
tác xã làm ăn có hiệu quả. Nhằm phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng thủy sản trên địa
bàn huyện cũng như các huyện khác trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Sản xuất công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: toàn huyện có 765 cơ sở CN-TTCN với trên 3.529
lao động. Về hoạt động sản xuất tổng sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
đạt 1.182 tỷ đồng. Về thương mại, dịch vụ: tổng giá trị đạt 3.172 tỷ đồng.
3. GIAO THÔNG:
Trong những năm gần đây, huyện Phụng Hiệp đã và đang tập trung đầu tư phát
triển mạng lưới giao thông bộ đặt biệt là giao thông nông thôn.
Hệ thống giao thông nông thôn đường bộ, về cơ bản, đã hoàn chỉnh. Trước đây,
phương tiện giao thông nông thôn chủ yếu là ghe, tàu, thì đến nay xe 2 bánh dễ
dàng đi lại trong cả hai mùa mưa nắng, trên tất cả các tuyến đường nông thôn; xe
ôtô con từ trung tâm huyện đến được tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn.
4. DÂN CƯ:
Dân số trung bình của huyện: 193.704 người, dân cư phân bố không đều, tập
trung nhiều ở nông thôn (170.496 người), ở thành thị (23.208 người).
5. GIÁO DỤC:

Hiện nay, huyện Phụng Hiệp hiện hơn 1.440 Giáo viên từ bậc tiểu học đến phổ
thông trung học và số phòng học là 751 với 27.373 học sinh các cấp. Toàn huyện
có 55 điểm Trường trong đó: có 39 Trường Tiểu học, 12 Trường trung học cơ sở
và 4 Trường phổ thông trung học.


6. Y TẾ:
Do kinh tế phát triển nên huyện đã có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho trường
học, trạm y tế, giao thông, điện, nước sạch, vệ sinh môi trường… làm cho bộ mặt
nông thôn có nhiều đổi mới.
Trên địa bàn huyện có 01 Bệnh viện đa khoa, 14 trạm y tế xã thị trấn. Công tác Y
tế, nước sạch, vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân được thực hiện khá tốt, thường xuyên tổ chức khám bệnh miễn phí cho
bệnh nhân nghèo. Công tác dân số, gia đình và trẻ em được các ngành, các cấp
quan tâm phối hợp thực hiện. Các chỉ tiêu về KHHGĐ hàng năm đều đạt và vượt
kế hoạch.
7. VĂN HÓA THÔNG TIN:
Phụng Hiệp có 01 Trung tâm văn hóa, 11 nhà văn hóa với 12 thư viện, phòng đọc
sách và 112 nhà thông tin, đáp ứng nhu cầu về văn hóa thông tin cho nhân dân trên
địa bàn huyện. Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được phát động rộng
rãi trong mọi tầng lớp nhân dân và được duy trì thường xuyên. Hệ thống truyền
thanh được bố trí đều khắp, 15 xã, thị trấn được phủ sóng phát thanh, chất lượng
tin bài và thời lượng phát sóng được nâng lên, phát huy tốt vai trò cơ bản là cầu nối
gắn liền giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng.
8. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI:
Huyện luôn chú trọng đến công tác thương binh xã hội, xây dựng quỹ “đền ơn
đáp nghĩa”, giải quyết chính sách đối với các gia đình có công với cách mạng như
chi trả và trợ cấp, lương cho các đối tượng chính sách kịp thời, xây dựng nhà tình
nghĩa, lập sổ vàng tiết kiệm…
III – DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA:

Các di tích lịch sử văn hóa trong huyện không nhiều, song đều mang đậm dấu ấn
lịch sử, truyền thống cách mạng và văn hóa của dân tộc Việt Nam như Khu di tích
căn cứ Tỉnh ủy Cần thơ, tượng đài Tây đô :
1. KHU DI TÍCH CĂN CỨ TỈNH ỦY
Vị trí: Khu căn cứ Tỉnh ủy còn gọi là căn cứ Bà Bái, nằm ở địa phận ấp Phương
Quới, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.
Đặc điểm: Toàn bộ khu di tích được xây dựng trên khoảng đất vườn rộng 6ha,
được bao bọc bởi bốn chiến hào: kênh Xáng, Lái Hiếu (phía đông nam), kênh Cả
Cường (phía Đông bắc), kênh cũ (phía Tây bắc) và kênh Bà Bái (phía Tây nam).


Cổng vào Khu căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ
Trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của toàn miền
Nam, các đồng chí trong Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ cũng từ đây đi theo các mũi
tiến công về Cần Thơ, Vị Thanh và các trọng điểm khác của "Vùng IV chiến
thuật", đánh chiếm sân bay Trà Nóc, dinh tỉnh trưởng Cần Thơ. Vào hồi 11h30
ngày 30/4/1975, tiếng nói đầu tiên của UBND cách mạng được phát lên sóng của
đài phát thanh Cần Thơ.
Khu di tích bao gồm: Hội trường, nơi diễn ra các cuộc Hội nghị quan trọng của
Tỉnh ủy Cần Thơ, rộng 151m2, được làm từ các vật liệu chính là: tràm, đước, sắn
và mù u...
Bên trong Hội trường là Văn phòng làm việc của Ban Thường vụ và đồng chí Bí
thư. Từ năm 1980, nhà này được sử dụng để trưng bày các hiện vật về di tích. Đó
là hình ảnh những buổi lễ kết nghĩa Trung Đoàn U Minh, những hiện vật khác như:
pháo lép từ các đồn bót địch bắn vào, những trái Gạt Gài bảo vệ chung quanh căn
cứ,... vỏ lãi và máy koler mà trước đây Tỉnh ủy Cần Thơ sử dụng đi chỉ đạo phong


trào cách mạng từ năm 1972 - 1975. Ngoài ra, di tích còn trưng bày chân dung Hồ
Chủ tịch qua bức tranh sơn dầu của họa sĩ Phong Trần; bốn bộ bàn liền ghế, máy

dầu, bốn vạt giường tre của các đồng chí Thường vụ và nhiều ảnh lưu niệm, các
loại vũ khí cá nhân và vũ khí do các đồng chí ta tự tạo để bảo vệ căn cứ. Năm
1986, tỉnh Cần Thơ (cũ) đã trùng tu khu di tích. Toàn bộ cột của Hội trường và hai
hầm tránh pháo được đúc bằng bê tông cốt sắt, nhưng hình dáng, màu sắc và qui
cách giống hệt như xưa.
Du khách thường đến đây tham quan vào những ngày lễ hay ngày nghỉ cuối tuần,
họ vừa tham quan vừa giao lưu với các bạn ở tỉnh khác, đôi khi nơi đây là địa điểm
được chọn tổ chức những buổi kết nạp đoàn. Khi du khách đến thăm khu di tích sẽ
có cán bộ thuyết trình, giới thiệu những hiện vật và quá trình hoạt động cách mạng
của các cán bộ lãnh đạo cũng như lịch sử hình thành của khu căn cứ này. Khu di
tích có diện tích ban đầu là 6 ha, nhưng thời gian tới để đáp ứng nhu cầu phục vụ
khách tham quan, khu di tích sẽ được huy hoạch thêm khoảng 4 ha nữa. Nơi đây sẽ
có thêm khu ngủ, nghỉ và khu vui chơi giải trí như: vườn sinh thái, sân bóng,... khi
đó du khách có thể đến và ở lại nhiều ngày.
2. TƯỢNG ĐÀI TÂY ĐÔ
Tiểu đoàn Tây Đô được thành lập ngày 24/6/1964 tại xã Phương Bình, huyện
Phụng Hiệp với lời thề “Ra đi là chiến thắng, đánh là tiêu diệt”. Tiểu đoàn đã lập
nên hàng loạt những chiến công làm quân thù khiếp sợ. Những trận Ông Hào - Áng
Khám, Tân Hiệp, Cờ Đỏ, Quang Phong... càng khẳng định ý chí quyết chiến, quyết
thắng của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, Tiểu
đoàn Tây đô đã vinh dự được Đảng và Nhà nước hai lần phong tặng danh hiệu Anh
hùng LLVT nhân dân.
Để tôn vinh những giá trị lịch sử và giáo dục truyền thống cho các thế hệ sau,
năm 1984 UBND tỉnh Cần Thơ đã quyết định xây dựng tượng đài di tích địa điểm
thành lập Tiểu đoàn Tây Đô. Qua thời gian 27 năm tượng đài đã xuống cấp. Đến
năm 2010 Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hậu giang thống nhất chủ trương quy hoạch xây
dựng mới trên diện tích hơn 10.000m2 với tổng kinh phí đầu tư gần 15 tỉ đồng. Với
nhiều hạng mục như tượng đài hai nhân vật cao 4m, bệ tượng cao 1,2m, phù điêu
dài 10m, phòng trưng bày với gần 200 bức ảnh thể hiện toàn bộ quá trình chiến
đấu, sản xuất của tiểu đoàn qua các thời kì.



Tượng đài Tây đô
Ngày 2/2/2012 Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hậu Giang đã tổ chức lễ khánh thành khu di
tích địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô tại xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp,
tỉnh Hậu Giang. Tượng đài Tây Đô là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền, quân
và dân Cần Thơ, Hậu Giang và Sóc Trăng nói chung, xã Phương Bình, huyện
Phụng Hiệp nói riêng để ghi nhớ lại quá trình xây dựng và phát triển của tiểu đoàn
Tây Đô trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ tổ quốc. Khu
di tích tượng đài có một ý nghĩa hết sức thiêng liêng, cao cả thể hiện khí phách hào
hùng, ngoan cường, trung liệt của tiểu đoàn Tây Đô năm xưa và cũng là niềm tự
hào của các thế hệ “ Bộ đội Cụ Hồ” hôm nay.
IV. KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN LUNG NGỌC HOÀNG
Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng được thành lập theo Quyết định số
13/2002/QĐ-TTg ngày 14-01-2002 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Khu bảo
tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng được thành lập trên cơ sở đất đai của Lâm
trường Phương Ninh, phía Bắc giáp xã Phương Bình; phía Nam giáp xã Phương
Phú; phía Đông giáp xã Tân Phuớc Hưng (thuộc huyện Phụng Hiệp); phía Tây giáp
huyện Long Mỹ. Tổng diện tích khu bảo tồn là: 2. 805, 37 ha, bao gồm: phân khu
bảo vệ nghiêm ngặt: 976, 28 ha, phân khu phục hồi sinh thái: 963, 45 ha, phân khu
hành chính, dịch vụ, du lịch: 404, 61 ha, khu thực nghiệm khoa học: 461, 03 ha.


Vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng có diện tích 8.836, 07
ha.

Khu bảo tồn sinh thái quy tụ các loài sinh vật quý hiếm, phong phú, nhiều
chủng loại:
Về thực vật, các cánh rừng trong lung hiện nay có đầy đủ hệ thực vật thuộc hệ
sinh thái đất ngập nước với những quần thể rất đa dạng. Đó là các loài dây choại

mọc dưới gốc hoặc trên thân tràm, lau, sậy, bòng bong... Những loài trên cạn cũng
khá nhiều như trâm sắn, ngái lông, mua, gừa...Đến tháng 11-2009, tại lung đang
tồn tại trên 330 loài thực vật với 224 chi, 92 họ. Trong số này có 56 loài mới phát
hiện. Với số loài thực vật phong phú như vậy, lung Ngọc Hoàng sẽ là nơi nghiên
cứu khoa học, bảo vệ các thảm thực vật quý, đồng thời kết hợp phát triển du lịch
sinh thái, tái tạo các mảng sinh cảnh trên vùng đất ngập nước hiếm hoi còn sót lại
của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.


Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng
Về động vật, Lung Ngọc Hoàng hiện quy tụ nhiều loài động vật quý hiếm, trong
đó có loài đang nằm trong sách đỏ Việt Nam và thế giới như rái cá lông mũi, rùa
nắp, rắn hổ mang... Tất cả có 206 loài, trong đó có chín loài chim quý hiếm là bạc
má, cà cuốc, cò ốc, giang sen, cò lạo xám, ác là... và các loài thú như dơi chó, rái
móng, chồn mực, cáo mèo cùng các loài quý hiếm khác như càng đước, cua đinh,
rùa vàng, ếch giun, cá còm...
Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng thật sự là nơi phát triển du lịch sinh
thái, bảo vệ các loài sinh vật bản địa, đặc biệt là các loài động vật quý hiếm, tái tạo
các mẫu sinh cảnh cuối cùng còn sót lại của vùng đồng bằng ngập nước Tây Sông
Hậu. Cung cấp nguồn giống sinh vật tự nhiên cho các tỉnh phụ cận… Trong tương
lai khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng sẽ là nơi nghỉ ngơi, giải trí… cho du
khách tham quan trong và ngoài nước. Đến Lung Ngọc Hoàng, du khách có dịp đi
xuồng nhỏ giăng câu, thả lưới, đâm cá....Du khách sẽ gặp những cánh đồng hoang


vu xa tít tận phía chân trời với những bầy le le, cò trắng chập chờn tung cánh giữa
mênh mông hoang dã...

Huyện Phụng Hiệp trở nên có vị trí địa lý thuận lợi cho viếc phát triển kinh
tế và chính trị như ngày hôm nay đó là cả một quá trình đấu tranh của cả dân tộc

nói chung và của nhân dân huyện Phụng Hiệp nói riêng.
Phụng Hiệp xa xưa là vùng đất trủng, hoang vu đầy đưng sậy được từ thời
Chúa Nguyễn, vời nhiều tên gọi là Trấn giang; rồi huyện Vĩnh Định; tiếp đến đổi
tên là huyện Phong Phú.
Sau khi xâm chiếm nước ta, thực dân lấy huyện Phong Phú thành lập tỉnh
Cần Thơ, gồm 5 quận: trong đó có quận Phụng Hiệp, đặt tại Rạch gòi sau đó năm
1915, dinh quận dời về Ngã Bảy và đổi tên là quận Phụng Hiệp.
Về vị trí địa lý; huyện Phụng Hiệp đã nhiều lần chia tách, rồi sát nhập. Hiện
nay huyện Phụng Hiệp có diện tích tự nhiên 543 km2; Đông Bắc,Tây Bắc giáp
huyện Châu Thành, Đông giáp huyện Kế sách, Đông Nam, Tây Nam giáp huyện
Long Mỹ và Mỹ Tú
Trước năm 1945, quận Phụng Hiệp có 03 tổng, 13 làng. Mỗi tổng có từ 04
đến 05 làng.
Đứng đầu mỗi tổng có Cai tổng; mỗi làng có Hội tề với 12 Hương chức ( Hương
Cả, Chủ, Sư, Trưởng, Chánh, Giáo, Bộ, Quản, Thân, Hào, xã Trưởng, Chánh lục
bộ); dưới ấp có Phó Hương Hào, Ph1 Xả, Phó Hương quản, Cai tuần. Những
hương chức đều do bọ địa chủ nắm giữ, còn tên chủ quận Phụng Hiệp là người Việt
nhưng vô dân Tây ( nhập quốc tịch Pháp).
* Năm 1945, quận Phụng Hiệp có 9 làng:
* Vào giữa năm 1951, nhận thêm 03 xã cánh B của huyện Châu Thành.
* Năm 1954 và 1967 nhận thêm 03 xã của huyện Long Mỹ.
* Năm 1969, chuyển xã Thạnh Xuân, Đông Phước ( Đông Sơn và Thường
phước nhập lại) cho huyện Châu Thành.
* Sau 30-4-1975, huyện Phụng Hiệp có 11 xã và 01 thị trấn:
Dân cư huyện Phụng Hiệp năm 2000: Dân số 256.006 người; Mật độ
471/km2 (số liệu chi cục thống kê Cần Thơ); trong đó người Kinh chiếm 96%, còn


lại là người dân tộc thiểu số. Lúc ban đầu dân cư sống rãi rác các vùng Láng hầm,
Rạch gòi, Mái dầm, Tràm bông ( Đông Sơn)… dần dần phát triển, cư dân nhiều nơi

hội tụ, tập trung đông đúc như ngày nay.
Về giao thông: Huyện Phụng hiệp rất thuận lợi về giao thông thủy, bộ nhất
là giao thông thủy.
Đảng bộ và nhân dân Phụng Hiệp có lòng yêu nước nồng nàn, giàu truyền
thống cách mạng, nơi diễn cuộc Nam kỳ khởi nghĩa ở làng Phú Hữu; Bốn trận Tầm
Vu oai hùng thời kháng chiến chống Pháp; trận Tha La – Chà Đạp, Quang Phong,
Đường Gổ thời chống Mỹ cứu nước , vang vội khắp cả nước.
Vùng đất Phụng Hiệp cũng là vùng đất giàu truyền thống văn nghệ, nổi tiếng
khắp Nam bộ là gánh Bầu Bòn, chủ gánh quê ở Lái Hiếu; ông Tư Đạo quê ở Kinh
Cùng nổi tiếng nhạc lễ, đờn ca tài tử; Bà Ba Nhỏ ( Bà Ba Đen) ở Hỏa Lựu mẹ của
nghệ sĩ Kiều Tiên.
Huyện Phụng Hiệp có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, quân sự nên
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều xem trọng việc bình định chiếm lấy Phụng Hiệp,
làm cửa ngỏ án ngữ bảo vệ thành phố Cần Thơ.
Chi bộ Đảng Cộng sản huyện Phụng Hiệp ra đời lãnh đạo nhân dân vùng
lên làm Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940:
- Ngày 03/02/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước
ngoặt lịch sử trong phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc ta nói chung và
của huyện Phụng Hiệp nói riêng. Phong trào đấu tranh chống thực dân, phong kiến
dưới sự lảnh đạo của Đảng Cộng sản.
Vào thời kỳ này ở Phụng Hiệp chưa có Chi bộ Đảng ra đời, nhưng cũng có
những cuộc đấu tranh của nông dân chống bọn địa chủ phong kiến và của công
nhân các xưởng cưa đấu tranh đòi tăng lương.
- Cuối năm 1936, đầu năm 1937 đồng chí Sang và Quản Trọng Hoàng được
Tỉnh ủy Cần Thơ cử về rạch Bà Hơn làng Phú Hữu để xây dựng cơ sở cách mạng
của Đảng. ngày 15/11/1937, đồng chí Quản Trọng Hoàng tổ chức kết nạp 03 đồng
chí: Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Phước Ngoạn và Ngô Văn Diện vào Đảng Cộng
Sản Đông Dương, thành lập Chi bộ làng Phú Hữu do đồng chí Nguyễn Văn Phúc
làm Bí Thư; Đây là Chi bộ đầu tiên của quận Phụng Hiệp, là bước ngoặt đặc biệt
quan trọng trong phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Phụng Hiệp.

- Đầu năm 1938, lần lượt phát triển thêm 03 Chi bộ: Chi bộ làng Đông Sơn;
Chi bộ làng Thường Phước, Chi bộ làng Thạnh Xuân. Sau đó Tỉnh ủy chỉ đạo
thành lập Ban cán sự Đảng quận Phụng Hiệp do đồng chí Nguyễn Văn Mai phụ
trách; từ đó phong trào đấu tranh của nhân dân có cơ sở phát triển. Các tổ chức
quần chúng lần lượt được thành lập đế làm nồng cốt cho phong trào cách mạng ở
đại phương, nhiều hoạt động rải truyền đơn, căng biểu ngữ, treo cờ búa liềm diễn
ra liên tục ở thị trấn Phụng hiệp, Chợ Cái Côn, Mái Dầm….


Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ ở Châu Âu,
Chính phủ phản động ở Pháp lên cầm quyền ra lệnh khủng bố trắng, thủ tiêu tự do
dân chủ; đặc biệt là ngày 19/9/1939, thực dân Pháp điên cuồng tấn công Đảng ta,
bắt hàng ngàn đảng viên cộng sản và những người yêu nước bắn giết, tù đày.
Ở Phụng Hiệp, Ban cán sự Đảng và các Chi bộ kịp thời rút vào hoạt động bí mật
nên ít bị tổn thất; các tổ chức quần chúng công khai mới được thành lập cũng bị
giải tán.
* CUỘC KHỞI NGHĨA NAM KỲ Ở PHỤNG HIỆP
Cuối tháng 3/1940, Tỉnh ủy Cần Thơ nhận được dự thảo “ Đề cương khởi
nghĩa” của Xứ Ủy Nam kỳ. Tháng 4/1940 Tỉnh ủy Họp phân công các đồng chí
Tỉnh ủy viên xuống các chi bộ trực tiếp triển khai.
Ở Phụng Hiệp, đồng chí Nguyễn Văn Mai trực tiếp triển khai Đề cương khởi
nghĩa cho các Chi bộ: Phú Hữu, Thường phước, Đông Sơn, Thạnh Xuân. Sau 4
tháng triển khai đề cương khởi nghĩa, phong trào cách mạng ở Phụng Hiệp có bước
phát triển; các tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng công khai được phục hồi và
phát triển; Một số làng có phong trào mạnh như Phú Hữu, Đông Sơn, Thường
Phước đêm đêm quần chúng nổi trống, mõ vang động làm áp đảo tinh thần bọn tề
ấp, làng và bọn ác ôn hoang mang chạy ra đồn thị trấn để lánh thân.
Giờ khởi nghĩa và các mục tiêu tấn công được Tỉnh ủy chỉ đạo: Lúc 12 giờ
khua ngày 22 rạng ngày 23/11/1940 phá cầu Ngã Bảy và khởi nghĩa ở một số làng
trong quận. Đồng chí Nguyễn Văn Mai được Tỉnh ủy phân công lãnh đạo cuộc

khởi nghĩa ở Phụng Hiệp. Nhưng cuộc khởi nghĩa đã thất bại.
Đảng bộ và nhân dân Phụng Hiệp đấu tranh giành chính quyền tháng
8/1945.
- Sau khi cuộc khởi nghĩa ở Nam kỳ thất bại, thực dân Pháp thẳng tay đàn
áp, khủng bộ, các Chi bộ và tổ chức quần chúng ở các làng tan rã.
Đến đầu tháng 01/1941, hội nghị Tỉnh ủy ở Bù Hút làng Phong Hòa, quận Ô Môn
chủ trương củng cố, xây dựng lại các tổ chức Đảng và quần chúng để chuẩn bị cho
phong trào cách mạng mới.
- Cục diện cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai và tình hình trong nước diễn
biến nhanh chóng; và ngày 17 tháng 6 năm 1940 thực dân Pháp đầu hàng Phát xít
Đức ngay trên đất Pháp.
- Ngày 23 tháng 9 năm 1940 tại Hà Nội, Pháp ký Hiệp định đầu hàng, giao
Đông Dương cho Nhật.
Đầu tháng 02 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước lãnh đạo phong trào cách
mạng Việt Nam và từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 tại Pắc – Bó, đồng chí Nguyễn
Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8, chủ trương thành lập Mặt trận Việt
Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh và ngày 19/5/1941 Mặt trận
Việt Minh chính thức ra đời. Hội nghị xác định “ nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên của Đảng” và “ trong giai đoạn


hiện tại…nếu không đánh đuổi được pháp- Nhật thì vận mệnh của dân tộc phải
chụi kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết
được”.
- Tháng 7/ 1942, Liên Tỉnh ủy Hậu giang do đồng chí Nguyễn Truyền Thanh
làm Bí thư chỉ đạo các địa phương nhanh chóng củng cố các tổ chức cơ sở đảng và
quần chúng, tập trung xây dựng lực lượng cách mạng ở nông thôn. Nhiều đồng chí
trong Tỉnh ủy trực tiếp về Phụng Hiệp xây dựng lại cơ sở cách mạng. Sau một thời
gian ngắn, các Chi bộ và tổ chức quần chúng được phục hồi và phát triển; đây là
thời kỳ Đảng bộ huyện Phụng Hiệp phục hồi nhanh nhất sau cuộc khời nghĩa Nam

Kỳ bị thất bại.
- Ngày 09-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, chiếm Đông Dương.
- Sáng ngày 10-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp ở Sài gòn và quân Nhật cũng
đánh chiếm thị xã Cần Thơ.
- Sau khi chiếm Cần Thơ, quân Nhật nhanh chóng tràn xuống Phụng Hiệp,
bọn Việt gian quay sang ôm chân Nhật gây nhũng nhiểu cho nhân dân, đứng đầu
có tên Ba Cổn của Hòa Hảo hợp tác rất chặt chẽ với quân Nhật và làm tay sai,
khủng bố phong trào cách mạng, khống chế tinh thần nhân dân. Từ đây, nhân dân
ta sống cảnh “một cổ hai tròng” của Nhật – Pháp. Bon chúng ra sức vơ vét mọi
thứ, tăng cường bắt thanh niên đi lính phục cuộc chiến tranh xâm lược; đời sống
nhân dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, lòng căm thù bọn phát-xít Nhật càng
dâng cao độ, nên đã có bài vè chống Nhật được truyền khắp nơi
“ Trời cao có thấy
- Cái bọn giặc “Lùn”
Bức bach xóm làng
- Giết người mổ bụng
Không cho làm ruộng - Bắt trồng bố, đay
Hùng hổ ra oai
- Quạ kêu dậy đất
Được chẳng mấy lúc - Giải giáp đầu hàng…”.
- Trước tình hình thế giới và trong nước diễn biến nhanh chóng; Ngày 12-31945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “ Nhật – Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”. Trung ương chủ trương phát động mạnh mẽ phong
trào cách mạng của nhân dân chống phát xít Nhật và chuẩn bị vũ trang khởi
nghĩa.
- Thực hiện chủ trương của Trung ương, Tỉnh ủy Cần Thơ phân công đồng
chí Nguyễn Tấn Khương và Lưu Kim Phong về Phụng Hiệp xây dựng lại cơ sở
Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng và đến tháng 5 và tháng 6/1945, đã
củng cố Chi bộ ở các làng Thạnh xuân, Thường Phước, Phú Hữu…và các tổ chức
quần chúng phát triển.
- Trong thời gian này tổ chức thanh niên Tiền phong được thành lập, ở quận

Phụng Hiệp do Trần Bữu vị lảm thủ lĩnh, các làng đều có tổ chức thanh niên Tiền
phong.


- Ngày 09-5-1945, phát xít Đức đầu hàng quân Đồng Minh ở Châu Âu; ở
Mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật liên tục thất bại, bọn chúng hoang mang.
Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng liên Xô và Đồng Minh vô điều kiện; quân Nhật ở
Phụng Hiệp rút về Cần Thơ, bọn tay sai của Nhật hoang mang cực độ.
Trước tình hình này, đồng chí Bùi Thị Tường giao cho đồng chí Nguyễn Thị Tấn
nồng cốt của Đảng vận động cơ sở cách mạng ở Thị trấn Phụng Hiệp rãi truyền
đơn, treo cờ đỏ sao vàng…kêu gọi đồng bào đứng lên khởi nghĩa giành chính
quyền khi có lệnh của Đảng.
Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc Dân tại Tân Trào ra lệnh Tổng khởi nghĩa
và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu đồng bào, chiến sĩ đứng lên giành
chính quyền, đã làm nức lòng quân, dân cả nước.
Ngày 19-8-1945, nhân dân Thủ Đô Hà Nội, khởi nghĩa giành được chính
quyền từ tay Nhật – Pháp; tiếp đến là ở Huế vào ngày 23-8-1945; Ở Sài gòn và hầu
hết các tỉnh Nam kỳ đều giành thắng lợi từ 23 đến 25-8-1945.
Ở Phụng Hiệp việc chuẩn bị lực lượng đã sẳn sàng, lực lương nông cốt, như:
Phan Đình Hoàng, Lê Hồng Nhựt, Nguyễn Thị Phát, Nguyễn Thị Thơm, Trần
Tuyết Hạnh, Phạm Phú Tài, Nguyễn Thị Chiếu, Trần Phong Cẩm, Trần Phong Sắc,
Hai Kỉnh.v.v .v… đã vận động hàng trăm quần chúng trong quận kéo về trung tâm
quận lỵ tại Ngã bảy, đến 10 giờ ngày 28/8/1945 có đến 1.000 người tập hợp tại sân
vận động Phụng Hiệp trương cao băng gon, cờ Việt Minh (cờ đỏ sao vàng), cờ
Tiền phong ( nền vàng, sao đỏ) và kéo đến bao vây dinh quận Phụng Hiệp ( nay là
chợ mới Phụng Hiệp) hô vang khẩu hiệu:
Việt Nam độc lập muôn năm
Đảng cộng sản Đông Dương muôn năm.
Tên quận Thọ có nhiều nợ máu với nhân dân, vẫn ngoan cố không chụi đầu
hàng, cố thủ trong dinh quận; Quần chúng bao vây dinh quận, reo hò vang vội, khí

thế ngày càng sôi sụt, áp đảo tinh thần bọn địch, đến 14 giờ tên quận Thọ phải đầu
hàng, giao chính quyền về tay nhân dân.
Ở làng lực lượng nồng cốt vận động nhân dân nổi dậy bằng gậy gộc, tầm
vong vạt nhọn xông lên cướp chính quyền; bọn Hội tề gian ác tốp bỏ trốn, tốp đầu
hàng. Chính quyền thật sự về tay nhân dân.
Niềm vui trào nước mắt, nhân dân phấn khởi tột cùng, từ nay thoát khỏi
xiềng xích nô lệ ; nhân dân trở thành người làm chủ đất nước, quê hương.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 - 1945, đã chứng minh dưới sự lãnh
đạo sáng sốt, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, sức mạnh toàn dân tộc
được hợp sẽ thành sức mạnh long trời, lỡ đất, quật ngã kẽ thù có sức mạnh hơn ta
gấp trăm lần, giành quyền sống cho mình; Nhân dân Phụng Hiệp từ nay thoát khỏi
cảnh đời nô lệ, thật sự trở thành “chủ nhân” của quê hương, đất nước.


Từ đây, dưới ngọn cờ của Đảng, nhân dân Phụng Hiệp nói riêng và nhân dân cả
nước nói chung sẳn sàng bước vào cuộc kháng chiến, kiến quốc trường kỳ,chống
thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai.
Ý nghĩa lịch sử: Khởi nghĩa Nam Kỳ nêu một tấm gương sáng chói về tinh
thần kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam. Qua trận thử lửa này, quần
chúng càng gắn bó với Đảng, càng tôi luyện chí khí cách mạng, củng cố nhận thức:
Con đường sống duy nhất của dân tộc là phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo
lực phản cách mạng của bọn đế quốc và phong kiến, giành lại độc lập tự do
Bài học kinh nghiệm:
Bài học thứ nhất: Phải quán triệt và vận dụng đường lối cách mạng của
Đảng vào hoàn cảnh thực tế của huyện nhà.
Bài học thứ hai: Phải tin, dựa và phát huy khả năng cách mạng của nhân dân, xây
dựng khối đoàn kết dân tộc là sức mạnh tổng hợp để đánh bại mọi âm mưu thâm
độc của địch, giành thắng lợi.
Bài học thứ ba: Quán triệt quan điểm bạo lực cách mạng, tư tưởng cách
mạng tiến công, ý chí kiên cường, biết nắm lấy thời cơ giành thắng lợi.

Bài học thứ tư: Tích cực xây dựng vùng giải phóng vững mạnh, căn cứ
cách mạng trong lòng dân, tạo ra một hậu phương vững chắc cho phía trước đánh
giặc.
Bài học thứ năm: Ra sức xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt, nâng
cao bản chất cách mạng, tính tiên phong, năng lực tổ chức thực tiển, đảm bảo thắng
lợi của phong trào cách mạng ở huyện nhà.




×