Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Cơ chế đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước trong công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.86 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ HUYỀN

CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU PHẦN VỐN
NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. LÊ HỒNG HẠNH

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giáo viên
hướng dẫn của mình – GS.TS. Lê Hồng Hạnh – thầy đã trực tiếp chỉ bảo, giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy, các cô giáo khoa Pháp
luật Kinh tế - trường Đại học Luật Hà Nội, đã tận tình giảng dạy tôi suốt thời
gian qua.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2014


Học viên

Phạm Thị Huyền


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các nội dung của bài luận văn là kết quả nghiên cứu
nghiêm túc, trung thực, mọi sự trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc. Bài luận
văn là kết quả làm việc của cá nhân tôi dưới sự giúp đỡ của giáo viên hướng
dẫn, nếu có gì sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2014
Học viên

Phạm Thị Huyền


1

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. 4
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 5
Chương 1. .................................................................................................... 10
CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU PHẦN VỐN
NHÀ NƯỚC ................................................................................................ 10
1.1. Khái quát về phần vốn góp Nhà nước trong công ty cổ phần............ 10
1.1.1. Công ty cổ phần và các vấn đề về vốn sở hữu ............................ 10
1.1.2. Vốn góp của nhà nước trong vốn sở hữu của công ty cổ phần.... 12
1.1.3. Những hình thức chủ yếu của việc nhà nước góp vốn vào vốn sở hữu

của công ty cổ phần................................................................................ 15
1.1.4. Những đặc thù của cổ đông nhà nước trong công ty cổ phần ..... 17
1.2. Đại diện chủ sở hữu phần vốn góp Nhà nước trong công ty cổ phần 19
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc đại diện cho chủ sở hữu phần vốn góp Nhà
nước trong công ty cổ phần .................................................................... 19
1.2.2. Các khía cạnh pháp lý của việc đại diện cho chủ sở hữu phần vốn
góp Nhà nước trong công ty cổ phần...................................................... 20
1.2.3. Những yếu tố chi phối việc đại diện cho chủ sở hữu phần vốn Nhà
nước trong công ty cổ phần .................................................................... 21
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ
HỮU PHẦN VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ............... 23
2.1. Cơ chế chủ quản đối với công ty cổ phần có vốn góp Nhà nước và vấn đề
đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước..................................................... 23
2.1.1. Cơ chế chủ quản với công ty cổ phần có vốn góp Nhà nước ......... 23
2.1.2. Vấn đề đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong công ty cổ phần
............................................................................................................... 24


2

2.2. Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của người đại diện ............ 27
2.2.1. Số lượng, tiêu chuẩn, điều kiện của người đại diện .................... 28
2.2.2. Quy trình cử đại diện ................................................................. 32
2.2.3. Phạm vi quyền hạn của người đại diện ...................................... 32
2.2.4. Chế độ thông tin, báo cáo của người đại diện ............................ 39
2.2.5. Hình thức kỷ luật và trách nhiệm bồi thường vật chất đối với người đại
diện ........................................................................................................ 42
2.2.6. Chấm dứt tư cách đại diện theo ủy quyền phần vốn nhà nước ..... 44
2.3. Thực trạng hoạt động của người đại diện theo ủy quyền phần vốn Nhà
nước trong công ty cổ phần ....................................................................... 45

2.3.1. Những thành tựu đạt được ............................................................ 46
2.3.2. Những bất cập còn tồn tại .......................................................... 48
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CHỦ
SỞ HỮU PHẦN VỐN GÓP NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN. 56
3.1. Hoàn thiện các qui định pháp luật....................................................... 56
3.1.1. Quy định lại khái niệm “chủ sở hữu phần vốn Nhà nước đầu tư tại
doanh nghiệp” .......................................................................................... 56
3.1.2. Quy định thống nhất các văn bản pháp luật có liên quan ............ 57
3.2. Đổi mới cơ chế chủ quản đối với các doanh nghiệp có vốn góp nhà nước
.................................................................................................................. 58
3.2.1. Xóa bỏ mô hình phân công, phân cấp đại diện chủ sở hữu phần vốn
Nhà nước................................................................................................ 58
3.2.2. Thay đổi mô hình đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước .......... 61
3.3. Hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước để
hoạt động như chủ thể của nền kinh tế thị trường ...................................... 62


3

3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cơ chế đại diện phần vốn nhà
nước trong công ty cổ phần ....................................................................... 64
3.4.1. Các quy định về tiêu chuẩn người đại diện và việc bổ nhiệm người đại
diện ........................................................................................................ 65
3.4.2. Quy định về vấn đề tiền lương, thù lao, tiền thưởng của người đại
diện. ....................................................................................................... 66
3.4.3. Quy định về cơ chế thông tin, báo cáo của người đại diện............ 68
3.3.4. Quy định về cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá hoạt động đại diện
phần vốn góp trong công ty cổ phần....................................................... 68
KẾT LUẬN………………………………………............................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................72



4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTCP

Công ty cổ phần

DN

Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

HĐQT

Hội đồng quản trị

NĐD

Người đại diện

SCIC

Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước


UBND

Uỷ ban nhân dân


5

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, định hướng
nền kinh tế không chỉ thông qua việc ban hành các chính sách, pháp luật mà còn
trực tiếp tham gia vào phát triển kinh tế thông qua việc đầu tư, góp vốn vào các DN.
Thực tế đã chứng minh các DN có vốn góp Nhà nước luôn đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế. Khi góp vốn vào các DN, Nhà nước không thể trực tiếp quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh nên phải tiến hành ủy quyền cho những chủ thể
nhất định. Đây cũng chính là nguyên nhân các DN có vốn góp Nhà nước cũng đồng
thời là mảnh đất màu mỡ cho các sai phạm, lạm quyền và sự hoạt động kém hiệu
quả. Nghị quyết Hội nghị trung ương 3 khóa XI của Đảng về sắp xếp đổi mới nâng
cao hiệu quả DNNN đã xác định cần đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước
theo hướng tách biệt chức năng quản lý nhà nước khỏi chức năng quản lý hoạt động
kinh doanh của DN, đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước từ phương thức hành
chính (cấp phát vốn) sang kinh doanh vốn thông qua mô hình công ty đầu tư tài
chính nhà nước. Thời gian qua, Nhà nước ta cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật
quy định vấn đề DNNN nói chung cũng như quy chế đại diện chủ sở hữu phần vốn
góp Nhà nước tại DN nói riêng, chỉ riêng năm 2014, Chính phủ đã ban hành nhiều
Nghị định điều chỉnh về DN có vốn góp Nhà nước, đây được xem như “tám con
chiến mã” với hy vọng vực dậy các DN có vốn góp Nhà nước.
Mặc dù, Nhà nước đã và ngày càng có nhiều nỗ lực, thay đổi mô hình đại
diện, bổ sung quy chế hoạt động của NĐD nhưng các quy định về cơ chế đại diện
chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại DN ở Việt Nam xem ra vẫn chưa hữu hiệu,

dường như những quy định pháp luật chỉ phát huy tác dụng với những đơn vị và cá
nhân gương mẫu trong nghĩa vụ đại diện phần vốn mà Nhà nước đầu tư vào DN,
còn những người cố tình vì lợi ích cá nhân hay chưa tự giác thực hiện tốt trách
nhiệm của NĐD thì vẫn còn tồn tại. Rất nhiều DN khó khăn trong việc quản lý


6

NĐD phần vốn góp của Nhà nước tại DN mình, còn NĐD thì tỏ ra không toàn tâm
toàn ý công tác khi chế độ quyền hạn hay lương thưởng chưa thực sự phù hợp.
Đặc biệt hiện nay khi nhu cầu về vốn càng lớn, Nhà nước ta có những động
thái mạnh mẽ nhằm cổ phần hóa các DNNN, thì hệ thống pháp luật của chúng ta lại
thiếu vắng các quy định pháp luật về vấn đề đại diện chủ sở hữu Nhà nước trong
CTCP. Thời gian gần đây, để tăng cường hiệu quả hoạt động của DN có vốn nhà
nước, Chính phủ ban hành nhiều văn bản quy định về vấn đề có liên quan; tuy nhiên
một điều dễ dàng nhận thấy là chủ yếu các văn bản hiện nay điều chỉnh trực tiếp về
công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, những quy định về đại diện
chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong CTCP cũng rất quan trọng nhưng lại nằm rải
rác, không quy định có tính hệ thống và chưa có văn bản riêng điều chỉnh. Trên
thực tế, việc đại diện vốn chủ sở hữu Nhà nước trong các DN bao gồm cả CTCP
chưa tốt. Những NĐD cho vốn chủ sở hữu Nhà nước không làm tròn trách nhiệm,
thiếu sự quan tâm đến hiệu quả hoạt động của công ty và hầu như không phải chịu
trách nhiệm gì trước Nhà nước về hoạt động đại diện của mình.
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Cơ chế đại diện chủ sở hữu phần
vốn Nhà nước trong công ty cổ phần”
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có những đề tài, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề NĐD theo ủy
quyền phần vốn góp Nhà nước tại DN cũng như mối quan hệ giữa chủ sở hữu và
NĐD theo ủy quyền. Có thể kể đến như bài “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện –
Một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam” của tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thanh đăng

trên tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 26/2010. Bài viết đã chỉ rõ các
vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa NĐD và chủ sở hữu nói chung trên toàn
thế giới. Tác giả cho rằng do sự tách biệt giữa quyền sở hữu (người sở hữu) và
quyền điều hành (NĐD) khi một người hoạt động vì lợi ích của người khác, thì về
bản chất, NĐD luôn có xu hướng tư lợi cho họ hơn là hành động vì chủ ở hữu và


7

các cổ đông; bài viết còn nhấn mạnh “Các vấn đề giữa người chủ sở hữu và NĐD
trong các DNNN ở Việt Nam khác biệt và phức tạp hơn nhiều so với các DN ngoài
nhà nước của Việt Nam cũng như ở các nước, điều này đòi hỏi hệ thống xử lý các
vấn đề trên cũng phải phát triển tương xứng”. Từ đó Tiến sỹ cũng nêu lên những
định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết tốt mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người
đại diện ở Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề đặt ra trong bài viết của tiến sỹ
Nguyễn Ngọc Thanh đến nay vẫn chưa hoàn toàn giải quyết triệt để.
Bài viết “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt
Nam” của tiến sỹ Bùi Xuân Hải đăng trên tạp chí Khoa Học Pháp lý số 4/2007 đã
phân tích những vấn đề cơ bản của học thuyết về đại diện. Tuy bài viết đề cập đến
vấn đề NĐD nhưng trong mối quan hệ giữa NĐD theo ủy quyền với doanh nghiệp ở
Việt Nam, không phải tập trung vào NĐD theo ủy quyền phần vốn Nhà nước.
Tiến sĩ Trần Tiến Cường có bài viết “Phân công, phân cấp quản lý doanh
nghiệp nhà nước. Thực trạng, vấn đề, nguyên nhân và một số gợi ý đổi mới” nhưng
chỉ trình bày khái quát vấn đề phân công, phân cấp thực hiện quyền chủ sở hữu
phần vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp giữa các cơ quan hành chính nhà
nước.
Ngoài ra, cũng có nhiều bài nghiên cứu về Tổng công ty Đầu tư và kinh
doanh vốn Nhà nước nhưng không dưới khía cạnh là chủ thể đại diện phần vốn góp
Nhà nước mà là một chủ thể đầu tư, quản lý vốn Nhà nước.
Như vậy, đa phần các công trình nghiên cứu trước đây đều đề cập vấn đề đại

diện chủ sở hữu dưới phương diện kinh tế. Một số công trình có nghiên cứu vấn đề
đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước từ góc độ pháp luật song lại không gắn với
loại hình doanh nghiệp cụ thể là CTCP.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


8

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các văn bản pháp luật liên quan
đến vấn đề NĐD theo ủy quyền phần vốn Nhà nước tại DN. Đồng thời, trong quá
trình nghiên cứu, tác giả cũng tìm hiểu thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về
NĐD phần vốn góp Nhà nước trên thực tế hiện nay.
Luận văn không nghiên cứu quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề đại diện
vốn Nhà nước tại tất cả loại hình DN mà chỉ tập trung làm rõ các quy định liên quan
trong CTCP. Công trình này cũng không hướng tới tất cả các vấn đề liên quan mà
chỉ đề cập sự phân công, phân cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu; các khía
cạnh pháp lý chủ yếu của việc đại diện như điều kiện, tiêu chuẩn người đại diện;
quy trình cử đại diện; chế độ đãi ngộ cũng như cơ chế kiểm soát của chủ sở hữu đối
với người đại diện phần vốn góp Nhà nước trong CTCP.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên quan điểm duy vật lịch sử với phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, bên cạnh đó vận dụng phù hợp những quan
điểm, đường lối của Đảng. Phương pháp nghiên cứu trên cho phép tác giả xem xét
đối tượng nghiên cứu trong trạng thái vận động, phát triển với những điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội.
Luận văn còn chủ yếu sử dụng phương pháp liệt kê, kết hợp với phương pháp
phân tích, so sánh các quy định pháp luật có liên quan. Cụ thể tác giả tiến hành liệt
kê những quy định pháp luật liên quan đến vấn đề đại diện chủ sở hữu Nhà nước
trong CTCP, trong quá trình liệt kê, tác giả cũng đồng thời phân tích để rút ra những
ưu, nhược điểm của các quy định hiện hành. Ngoài ra, việc đối chiếu, so sánh với

các quy định pháp luật các nước về cùng vấn đề giúp tác giả có cái nhìn khái quát,
đánh giá tốt hơn hệ thống pháp luật nước ta về vấn đề đại diện chủ sở hữu Nhà
nước.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài


9

Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của
đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong CTCP, đánh giá các quy định có liên
quan và tìm ra giải pháp cho những tiêu cực đang nảy sinh trong thực tế hiện nay.
Đề tài “Cơ chế đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong công ty cổ
phần” được thực hiện với 3 mục tiêu chính sau:
Một là, phân tích toàn diện các quy phạm pháp luật hiện nay về cơ chế đại
diện theo ủy quyền phần vốn góp nhà nước tại công ty cổ phần để xác định những
thành công và những hạn chế của các qui phạm pháp luật về vấn đề này.
Hai là, phân tích thực trạng thi hành pháp luật về vấn đề liên quan, chỉ ra
những thành tựu cũng như bất cập của pháp luật về đại diện chủ sở hữu trong công
ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước.
Ba là, trên cơ sở những phân tích, đánh giá đưa ra, tác giả đề xuất một số
định hướng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của cơ chế đại diện chủ sở hữu phần
vốn góp Nhà nước trong CTCP hiện nay.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia gồm 3 chương:
Chương 1. Công ty cổ phần và vấn đề đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước;
Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật về đại diện chủ sở hữu phần vốn
nhà nước trong công ty cổ phần;
Chương 3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về đại diện chủ sở hữu phần
vốn Nhà nước trong công ty cổ phần.



10

Chương 1
CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU
PHẦN VỐN NHÀ NƯỚC
1.1. Khái quát về phần vốn Nhà nước trong công ty cổ phần
1.1.1. Công ty cổ phần và các vấn đề về vốn sở hữu
Công ty cổ phần được xem là loại hình công ty đối vốn ra đời đầu tiên trong
lịch sử. Pháp luật các nước đã ghi nhận sự tồn tại của CTCP từ hàng trăm năm trước.
Ở Việt Nam từ rất sớm đã có những quy định điều chỉnh về loại hình DN này. Luật lệ
về công ty lần đầu tiên ở nước ta quy định trong “Bộ Dân luật thi hành tại các toà
Nam án Bắc Kỳ”, trong đó tiết thứ 5 (Chương IX) nói về hội buôn được chia thành
hai loại là hội người và hội vốn, trong đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô
danh (CTCP) và hội hợp cổ (Công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn chung, quy định của
pháp luật thời kỳ này về CTCP còn rất sơ khai. Dưới thời Pháp thuộc, quy định của
Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807, trong đó có quy định về CTCP được áp dụng ở
cả ba kỳ tại Việt Nam. Tiếp theo đó năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ
luật thương mại Trung phần có hiệu lực áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó cũng quy
định về CTCP (gọi là công ty vô danh). Đến năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng
hoà ban hành Bộ luật Thương mại, ghi nhận về CTCP với tên gọi là hội nặc danh
[35]. Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước năm 1975 và trên
phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ XX, với chính sách
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty nói chung và CTCP nói riêng
hầu như không được pháp luật thừa nhận. Cho đến khi Luật Công ty được ban hành
ngày 21/12/1990, CTCP mới chính thức được quy định cụ thể. Những quy định về
CTCP tiếp tục được bổ sung, làm rõ tại Luật Doanh nghiệp năm 1999 và hiện nay là
Luật Doanh nghiệp năm 2005. Điều 77 Luật Doanh nghiệp (2005) quy định về CTCP
theo hướng liệt kê các đặc điểm của loại hình công ty này, theo đó, CTCP là loại hình



11

DN mà vốn điều lệ được chia thành các phần nhỏ bằng nhau, gọi là cổ phần, người sở
hữu cổ phần là cổ đông công ty. CTCP có một số đặc điểm sau:
- Cổ đông công ty: Hầu hết pháp luật các nước đều quy định số lượng cổ
đông tối thiểu mà không giới hạn số lượng cổ đông tối đa trong công ty; cụ thể
Pháp, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, v.v. quy định số lượng cổ đông tối thiểu trong CTCP
là hai cổ đông. Tại Việt Nam, theo Luật Công ty (1990), số lượng cổ đông tối thiểu
trong suốt quá trình hoạt động của CTCP là bảy, đến Luật Doanh nghiệp (1999) và
Luật Doanh nghiệp (2005), con số này giảm xuống là ba cổ đông. Cổ đông có thể là
tổ chức hoặc cá nhân, không thuộc các trường hợp cấm thành lập, quản lý DN
(Khoản 2) hoặc không thuộc trường hợp cấm góp vốn vào DN (Khoản 4 Điều 13
Luật Doanh nghiệp năm 2005). Đặc điểm này thể hiện đặc trưng cơ bản của CTCP
là loại hình công ty đối vốn nên cần sự liên kết của nhiều cổ đông tham gia góp vốn.
- Tư cách pháp lý: CTCP có tư cách pháp nhân từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký DN, bình đẳng với các loại hình DN khác; đồng thời, nhân danh chính
công ty, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh. Xuất phát từ sự độc lập của
CTCP so với các cổ đông nên CTCP có các quyền và nghĩa vụ về tài sản riêng, do
đó các rủi ro của cổ đông khi đầu tư vào CTCP chỉ giới hạn trong giá trị cổ phần mà
cổ đông đó nắm giữ.
- Vấn đề vốn trong CTCP: Các loại hình công ty nói chung hay CTCP nói
riêng không thể được thành lập và hoạt động nếu không có vốn. Vốn là yếu tố quyết
định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối
tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty được xem là cội nguồn của
quyền lực. Với đặc trưng là loại hình công ty đối vốn, quyền lực trong CTCP sẽ
thuộc về những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên
ngoài, vốn của CTCP là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Vốn
điều lệ trong CTCP được chia thành các phần bằng nhau, gọi là cổ phần; CTCP bắt
buộc phải có cổ phần phổ thông, ngoài ra, có thể có thêm cổ phần ưu đãi. Trong cấu

trúc vốn của CTCP, ngoài vốn điều lệ, trong quá trình kinh doanh, công ty còn được


12

quyền huy động các nguồn vốn khác, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty. Theo quy định pháp luật thì CTCP ở Việt Nam có thể phát hành nhiều
loại cổ phần khác nhau như: cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi (bao gồm: cổ phần
ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại, các loại cổ phần
ưu đãi khác) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng khoán được phát
hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư kinh doanh của
CTCP.
Một đặc trưng khác liên quan đến vốn trong CTCP là khả năng chuyển
nhượng vốn linh hoạt, CTCP không phải loại hình công ty “đóng”, do đó, trừ một
số trường hợp luật định, vốn trong CTCP được tự do chuyển nhượng, tư cách cổ
đông công ty cũng dễ dàng phát sinh.
1.1.2. Vốn góp của Nhà nước trong vốn sở hữu của công ty cổ phần
Pháp luật các nước cũng đều ghi nhận sự tham gia của Nhà nước với vai trò
là một nhà đầu tư. Theo số liệu thống kê, tính đến thời điểm tháng 6 năm 2011, cổ
đông lớn nhất trong 150 công ty lớn nhất Trung Quốc vẫn là Chính phủ Trung
Quốc, các DN do Nhà nước chi phối chiếm tới 80% tổng vốn hóa thị trường cổ
phiếu nước này, so với ở Nga và Brazil lần lượt là 62% và 38% (The Economist,
21/1/2012). Tại Việt Nam, kinh tế tư nhân phát triển ngày càng mạnh mẽ song kinh
tế Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo. Nhà nước tiến hành đầu từ góp vốn kinh
doanh vì nhiều lý do khác nhau, trong đó chủ yếu vì:
- Nhà nước đầu tư vốn vào những ngành nghề cung cấp sản phẩm, dịch vụ
thiết yếu cho xã hội như xăng dầu, điện lực, viễn thông, v.v.
- Nhà nước tiến hành đầu tư tại những địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc
biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư, tạo nên các vùng kinh
tế lớn, thúc đẩy kinh tế cả nước tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng hiện đại hơn.


13

- Nhà nước đầu tư vào những ngành nghề ứng dụng công nghệ cao, tạo nền
công nghệ quốc gia tiên tiến và nguồn nhân lực chất lượng cao, nhằm tạo động lực
phát triển nhanh cho những ngành, lĩnh vực khác
- Nhà nước đầu tư vào những DN có mục đích đặc thù.
Tóm lại, việc Nhà nước đầu tư vào DN là vô cùng quan trọng, gắn với chức
năng kinh tế của Nhà nước. Đầu tư vốn vào DN không chỉ nhằm tăng hiệu quả sử
dụng nguồn lực của Nhà nước mà đảm bảo cho Nhà nước có thể chi phối được nền
kinh tế trong những thời điểm khủng hoảng hay biến động thông qua việc kiểm soát
hoặc tác động đến các DN và từ đó đến thị trường. Hơn nữa đầu tư của Nhà nước
nhằm cải cách nền kinh tế nói chung, cải cách hành chính nói riêng, hướng đến cải
thiện môi trường kinh doanh cho DN.
Doanh nghiệp được Nhà nước đầu tư vốn trở thành những DN có vốn góp
Nhà nước. Những DN này được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như công
ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà
nước có từ hai thành viên trở lên, DN có cổ phần hay vốn góp chi phối của Nhà
nước hoặc DN mà Nhà nước đầu tư một phần vốn điều lệ.
Để tham gia vào nền kinh tế và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, vốn là yếu tố tiên quyết, quan trọng hàng
đầu đối với bất kỳ một DN nào, trong đó có DN có vốn góp Nhà nước. Đối với
những DN có vốn góp Nhà nước, nguồn vốn của DN có thể bao gồm toàn bộ hoặc
một phần vốn góp Nhà nước.
Theo Khoản 3 Điều 3 Nghị định 99/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/11/2012 Về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của
chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp (Nghị định 99/2012/NĐ-CP) thì “Vốn góp của Nhà nước là vốn được

Nhà nước đầu tư vào DN do một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức kinh tế được Nhà
nước giao làm đại diện chủ sở hữu”.


14

Còn theo Khoản 2 Điều 3 Nghị định 71/2013/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước
vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ (Nghị định 71/2013/NĐ-CP) thì ““Vốn nhà nước tại DN” là vốn
đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước, các quỹ tập trung của Nhà nước khi thành
lập DN và bổ sung trong quá trình hoạt động kinh doanh; các khoản phải nộp ngân
sách được trích để lại; nguồn Quỹ đầu tư phát triển tại DN; Quỹ hỗ trợ sắp xếp
DN; vốn nhà nước được tiếp nhận từ nơi khác chuyển đến; giá trị quyền sử dụng
đất, quyền sử dụng tài nguyên Quốc gia được Nhà nước giao và ghi tăng vốn nhà
nước cho DN; các tài sản khác theo quy định của pháp luật được Nhà nước giao
cho DN”. Từ khái niệm trên có thể thấy vốn Nhà nước được cấu thành từ ba bộ
phận:
Một là, vốn được cấp từ ngân sách, là vốn DN nhà nước được cấp phát lần
đầu khi mới hoạt động, vốn được cấp bổ sung trong quá trình hoạt động;
Hai là, vốn có nguồn gốc từ ngân sách, là các khoản vốn tăng thêm do được
miễn, giảm thuế thu nhập DN hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các nguồn vốn viện trợ; viện trợ
nhân dân, viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, quà tặng theo quy định phải
ghi tăng vốn ngân sách cấp;
Ba là, vốn của DN có vốn góp nhà nước tự tích lũy, đây là phần thu nhập sau
thuế DN giữ lại để tái đầu tư.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, với xu hướng ngày càng mở rộng quy
mô và phạm vi sản xuất kinh doanh, DN có vốn nhà nước cũng như các DN khác
đều cần một lượng vốn nhiều hơn hiện tại để đáp ứng nhu cầu của mình. Trong
trường hợp này, pháp luật ghi nhận nhiều cách thức huy động vốn để thu hút lượng

vốn cần thiết cho DN như: huy động vốn vay, phát hành trái phiếu DN, v.v. Trên
thực tế, DN có vốn góp Nhà nước cũng là một pháp nhân trong nền kinh tế, do vậy
về nguyên tắc muốn hoạt động thì tất yếu phải có một lượng vốn nhất định và


15

nguồn vốn đó phải tách bạch, độc lập với khối tài sản của các tổ chức, cá nhân khác,
từ đó giới hạn phạm vi trách nhiệm của pháp nhân trong các giao dịch đồng thời
cũng tránh được sự can thiệp trực tiếp của người đầu tư đối với hoạt động kinh
doanh của DN. Do đó, vốn góp Nhà nước cũng phải được chuyển giao cho CTCP
mà Nhà nước tiến hành góp vốn, để tạo thành khối tài sản riêng của công ty đó.
1.1.3. Những hình thức chủ yếu của việc nhà nước góp vốn vào vốn sở hữu
của công ty cổ phần
Trong CTCP có vốn góp Nhà nước, Nhà nước thực hiện việc góp vốn vào
công ty dưới các hình thức cơ bản sau:
● Thành lập doanh nghiệp Nhà nước
Theo quan niệm chung trên thế giới, DNNN được coi là một tổ chức kinh tế
do Nhà nước nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ hoặc nắm giữ quyền chi phối, các tổ chức
kinh tế này có thể có tên gọi là DNNN, DN công (Public Enterprise), DN thuộc sở
hữu Nhà nước (State Owned Enterprises hoặc Government Owned Corporations),
v.v. các DN này thường được tổ chức dưới hình thức pháp lý là các công ty trách
nhiệm hữu hạn, CTCP hoạt động theo pháp luật chung về công ty hoặc điều điều
chỉnh bởi đạo luật riêng.
Ở Việt Nam, trong thời gian đầu của quá trình đổi mới nền kinh tế, DNNN
được quan niệm là những tổ chức kinh doanh do Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ
(Điều 1 Nghị định 388/HĐBT ngày 20 tháng 11 năm 1991). Theo Điều 1 Luật
Doanh nghiệp Nhà nước (2003) thì “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức
công ty Nhà nước, CTCP, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Sau khi Luật Doanh

nghiệp được ban hành năm 2005, DNNN được hiểu là DN trong đó Nhà nước sở
hữu trên 50% vốn điều lệ. Đồng thời, theo Nghị định 99/2012/NĐ-CP “DNNN là
DN mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, bao gồm DN mà Nhà nước nắm
giữ 100% vốn điều lệ là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; và DN mà


16

Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ là CTCP, công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên”
Tại những DNNN này do nắm đa số vốn điều lệ nên Nhà nước sẽ nắm giữ
quyền chi phối DN, tức là Nhà nước có quyền định đoạt đối với Điều lệ DN, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý chủ chốt, tổ chức quản lý và
quyết định các vấn đề quan trọng khác của DN. Đối với DNNN, Nhà nước có thể
đầu tư vốn bằng hai cách:
- Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ công ty.
Với loại hình DN này, toàn bộ cổ đông là các DN có vốn Nhà nước hoặc tổ
chức được Nhà nước uỷ quyền, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
Doanh nghiệp (2005). Thông thường, CTCP do Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ
bao gồm các DN hoạt động trong các lĩnh vực thiết yếu như sản xuất và sửa chữa vũ
khí, khí tài, trang bị cho quốc phòng an ninh; kiểm định kỹ thuật phương tiện giao
thông cơ giới, v.v.; hoặc là các DN hoạt động kinh doanh ở các lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế như các lĩnh vực độc quyền Nhà nước (vật liệu nổ, hóa chất độc,
chất phóng xạ, v.v.), có quy mô lớn và đóng góp lớn cho ngân sách, có vai trò tạo
điều kiện phát triển trong các ngành và lĩnh vực then chốt, trong ứng dụng công
nghệ mũi nhọn.
- Nhà nước đầu tư từ trên 50% đến dưới 100% vốn điều lệ công ty
Đây là những DN sau khi tiến hành cổ phần hóa mà Nhà nước nắm giữ
trên 50% vốn điều lệ, gồm những DN hoạt động trong các ngành, lĩnh vực theo
quy định tại Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 4/3/2011 của Thủ tướng

Chính phủ về Ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN, ví dụ những DN
tham gia sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: bảo trì hệ thống kết
cấu hạ tầng đường sắt quốc gia; quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, đường thủy
nội địa … DN bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời


17

sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
v.v..
Ở những DN này, do vẫn nắm giữ đa số vốn điều lệ nên Nhà nước vẫn nắm
phần lớn quyền quyết định đối với công ty.
● Nhà nước đầu tư không quá 50% vốn điều lệ công ty
Đây chủ yếu là các DNNN thua lỗ kéo dài, không có khả năng khắc phục sẽ
thực hiện bán, chuyển nhượng, tái cơ cấu lại nợ để chuyển thành CTCP, Nhà nước
từng bước chuyển nhượng vốn sang cho những tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu.
Cũng tương tự như khi đầu tư thành lập DNNN, tại các DN mà Nhà nước nắm giữ
dưới 50% vốn điều lệ, Nhà nước với tư cách như một cổ đông thông thường, sẽ thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với công ty mà mình là thành viên theo
quy định tại Luật Doanh nghiệp (2005)
1.1.4. Những đặc thù của cổ đông nhà nước trong công ty cổ phần
Về mặt pháp lý, Nhà nước và DN có vốn góp Nhà nước là hai chủ thể độc
lập. Mối quan hệ giữa Nhà nước và DN là mối quan hệ giữa cổ đông công ty với
công ty. Nhà nước với tư cách là người đầu tư vốn sẽ trở thành cổ đông - chủ sở
hữu đối với CTCP. Về phía mình, công ty trở thành chủ sở hữu đối với số vốn, tài
sản mà Nhà nước đầu tư. Như vậy, khi góp vốn vào CTCP, Nhà nước sẽ có tư cách
là một cổ đông, có các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật Doanh nghiệp
(2005) tương ứng với cổ phần mà mình sở hữu như được quyết định mục tiêu chiến
lược và định hướng kế hoạch phát triển DN; quyết định mức vốn đầu tư ban đầu,
mức vốn điều lệ của DN; kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh

của DN, v.v. Tuy nhiên Nhà nước với tư cách chủ thể đặc biệt cũng có những đặc
thù khác với những cổ đông thông thường khác, đặc thù đó được thể hiện chủ yếu
thông qua:
● Cơ chế đầu tư và quản lý vốn của Nhà nước


18

Nhà nước tiến hành đầu tư vốn vào DN thông qua nhiều cơ quan, tổ chức khác
nhau. Hiện nay ở nước ta trên thực tế đã xuất hiện hai cơ chế quản lý và thực hiện
quyền chủ sở hữu tại các DN có vốn nhà nước: thứ nhất là phân công, phân cấp quản
lý vốn Nhà nước (cơ chế bộ chủ quản); thứ hai, chuyển dần một số quyền chủ sở hữu,
đặc biệt là quyền kiểm soát vốn và tài sản về cho một đơn vị chuyên kinh doanh vốn
nhà nước (Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước).
- Phân công, phân cấp quản lý vốn Nhà nước
Phân cấp quản lý là việc chuyển giao hay giao bớt một phần quyền quản lý
của cấp trên cho cấp dưới quản lý. Đó là sự phân giao quyền quản lý diễn ra theo
chiều dọc trong hệ thống quản lý có thứ bậc trên - dưới. Phân công là sự phân giao
quyền quản lý theo chiều ngang giữa các cơ quan quản lý hay giữa các bộ phận của
cơ quan quản lý cùng cấp. Việc quản lý tại DN có vốn góp Nhà nước hiện nay được
tiến hành theo phương thức kết hợp giữa phân cấp và phân công trong thực hiện
quyền chủ sở hữu [26].
Trong CTCP có vốn góp Nhà nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân được phân
công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà
nước bao gồm Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh;
Bộ Tài chính; Bộ Kế hoạch và đầu tư; Bộ Nội vụ; Bộ Lao động thương binh và xã
hội; NĐD được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu phần vốn
Nhà nước; v.vv
- Quản lý vốn Nhà nước thông qua Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước (SCIC)

SCIC là công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, trực thuộc
Bộ Tài chính, được thành lập theo Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày
20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ. SCIC được giao nhiệm vụ quản lý vốn nhà
nước tại các DN do các Bộ, UBND cấp tỉnh chuyển giao và những DN do SCIC đầu
tư vốn, chuyên thực hiện chức năng quản lý và kinh doanh vốn Nhà nước.


19

● Vị trí của Nhà nước với tư cách cổ đông
Như đã nói ở trên, khi góp vốn vào công ty, Nhà nước sẽ đóng vai trò là cổ
đông công ty, có các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp
năm 2005, bình đẳng với các cổ đông thông thường khác của công ty. Bên cạnh đó,
Nhà nước được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết với số phiếu biểu quyết
nhiều hơn so với cổ phần phổ thông (nhiều hơn bao nhiêu do Điều lệ công ty quy
định)
Điều này không có nghĩa Nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với
các cổ đông khác. Ngược lại với tư cách là nhà đầu tư, Nhà nước còn có những
nghĩa vụ đặc thù, không giống những cổ đông thông thường khác. Thứ nhất, với
một nhà đầu tư thông thường, có thể xem xét đầu tư vào bất cứ ngành nghề kinh
doanh hợp pháp nào theo nhu cầu của mình, nhằm thu lợi nhuận, nhưng nhà đầu
tư là Nhà nước phải có trách nhiệm đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, khâu then
chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng,
an ninh. Thứ hai, nhà đầu tư thông thường được tự mình đưa ra các quyết định
về phương hướng kinh doanh, đầu tư nhưng nhà đầu tư là Nhà nước khi quyết
định các vấn đề quan trọng phải thông qua cơ chế thông báo, xin ý kiến. Thứ ba,
với các nhà đầu tư tư nhân, mục tiêu lợi nhuận được xem là mục tiêu cao nhất
nhất thì nhà đầu tư là Nhà nước, ngay cả trong trường hợp hướng tới mục tiêu lợi
nhuận thì mục tiêu này cũng bị chi phối bởi trách nhiệm phục vụ lợi ích công
cộng. Thứ tư, nguồn vốn của Nhà nước sử dụng trong hoạt động đầu tư thường

trực tiếp hoặc gián tiếp có nguồn gốc từ các khoản đóng góp của người dân, do
đó, trong khi tiến hành hoạt động đầu tư, cổ đông là Nhà nước còn chịu sự giám
sát chặt chẽ, đảm bảo bảo toàn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư.
1.2. Đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong công ty cổ phần
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong
công ty cổ phần


20

Điều 17 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định tài sản
Nhà nước đầu tư vào các DN thuộc sở hữu toàn dân. Đến Điều 53 Hiến pháp năm
2013 một lần nữa khẳng định điều này “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Như vậy, Nhà nước với tư cách
đại diện chủ sở hữu toàn dân sẽ thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản do Nhà nước
đầu tư vào các DN khác, trong đó có CTCP.
Nhà nước là chủ sở hữu tài sản nhưng Nhà nước lại là một thực thể pháp lý
trừu tượng, một thực thể nhân định, như những tổ chức khác khi tiến hành góp vốn
đầu tư, Nhà nước chỉ có thể thực hiện quyền chủ sở hữu thông qua những tổ chức,
con người cụ thể, tức là Nhà nước cần cử ra tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền
đại diện cho Nhà nước, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu. Tổ chức
hay cá nhân được ủy quyền sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ được Nhà nước ủy
quyền, nhân danh và vì lợi ích của Nhà nước.
1.2.2. Các khía cạnh pháp lý của việc đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà
nước trong công ty cổ phần
Trong pháp luật dân sự, quan hệ đại diện được quy định “là việc một người
(sau đây gọi là NĐD) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (Khoản

1 Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Trong những CTCP thông thường, quyền và nghĩa vụ của cổ đông đôi khi
cũng được thực hiện thông qua NĐD. NĐD sẽ thay mặt người được đại diện thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của cổ đông, vì lợi ích của người được đại diện và hưởng
thù lao. Quan hệ đại diện giữa cổ đông và NĐD được thực hiện thông qua hợp đồng
đại diện, trong đó xác định rõ các vấn đề pháp lý cơ bản về tiêu chuẩn, điều kiện


21

của NĐD; quyền và nghĩa vụ các bên; phạm vi đại diện; chấm dứt quan hệ đại diện,
v.v.
Đối với cổ đông là Nhà nước, quan hệ đại diện được xác lập thông qua văn
bản ủy quyền. Bên cạnh những vấn đề cần xác định như quan hệ đại diện cho cổ
đông thông thường khác, trong quan hệ đại diện cho chủ sở hữu Nhà nước, điều
quan trọng cần xác định đó là cơ quan nào có thẩm quyền quyết định đại diện; tiêu
chuẩn, điều kiện của NĐD; quy trình cử đại diện cũng như cơ chế giám sát hoạt
động của NĐD. Những vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể ở Chương 2 của luận
văn.
1.2.3. Những yếu tố chi phối việc đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước
trong công ty cổ phần
Việc đại diện cho chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong CTCP thông thường
được quyết định bởi một số yếu tố sau:
● Mô hình đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước
Hiện nay có hai mô hình đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong
CTCP, mỗi mô hình lại quy định khác nhau về chủ thể có thẩm quyền cử đại diện,
tiêu chuẩn cử đại diện cũng như khác nhau về quyền, nghĩa vụ của NĐD. Ví dụ liên
quan đến thẩm quyền cử đại diện, nếu theo mô hình bộ chủ quản, cơ quan có thẩm
quyền quyết định sẽ là Bộ chủ quản hoặc Bộ chuyên ngành hoặc do Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định. Trong trường hợp quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà

nước được thực hiện thông qua Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước,
việc chỉ định và đánh giá hoạt động của NĐD; việc miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ
luật NĐD tại các DN được giao quản lý sẽ thuộc thẩm quyền của SCIC.
● Tỷ lệ vốn góp Nhà nước trong công ty
Tỷ lệ vốn góp của Nhà nước tại CTCP ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của
chính NĐD phần vốn góp Nhà nước trong công ty đó. Cụ thể, đối với DN mà Nhà
nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, NĐD phải xin ý kiến chủ sở hữu phần vốn nhà


22

nước bằng văn bản để tham gia ý kiến, biểu quyết, quyết định tại cuộc họp HĐQT,
Đại hội đồng cổ đông, các cuộc họp khác (nếu có) đối với những nội dung quy định
tại Khoản 4 Điều 20 Nghị định số 99/2012/NĐ-CP; đối với DN mà Nhà nước nắm
giữ không quá 50% vốn điều lệ, NĐD chỉ xin ý kiến chủ sở hữu phần vốn nhà nước
(bằng văn bản) trước khi có ý kiến biểu quyết, quyết định những vấn đề làm thay
đổi lợi ích của Nhà nước như: làm giảm phần vốn nhà nước tại DN hoặc làm giảm
tỷ lệ vốn nhà nước tại DN và các lợi ích khác của nhà nước tại DN, những nội dung
khác, NĐD không cần xin ý kiến chủ sở hữu. Những nội dung cụ thể liên quan đến
quyền và nghĩa vụ, tác giả sẽ làm rõ hơn của Chương 2 của luận văn.
● Điều lệ, qui chế hoạt động của công ty cổ phần
Trong quan hệ đại diện, ngoài việc tuân thủ quy định pháp luật và văn bản ủy
quyền đại diện thì trước hết, các bên còn phải tự giác thực hiện theo Điều lệ công ty
nếu Điều lệ không trái luật. Trong Điều lệ CTCP có thể quy định các vấn đề liên
quan đến quan hệ đại diện phần vốn góp Nhà nước. Chẳng hạn cùng là công ty do
Nhà nước sở hữu 50% cổ phần nhưng việc Điều lệ quy định HĐQT có năm thành
viên hay bảy thành viên sẽ dẫn tới sự khác nhau trong việc có bao nhiêu NĐD phần
vốn Nhà nước có mặt trong HĐQT, số lượng NĐD phần vốn góp Nhà nước có mặt
trong HĐQT của công ty có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của việc cử đại
diện của Nhà nước. Ngoài ra, Điều lệ công ty còn xác định vấn đề tiền lương, thưởng

của công ty dành cho NĐD - những quy định này có liên quan trực tiếp đến quan hệ
đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước trong công ty cổ phần.


×