Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Địa vị pháp lý của hộ kinh doanh những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.92 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ NGỌC ÁNH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH DOANH –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH
DOANH ..................................................................................................................... 5
1.1. Vị trí, vai trò của hộ kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam ..........................................................................................................................5
1.2 Khái niệm, đặc điểm của hộ kinh doanh. ........................................................14
1.3. Cơ chế tổ chức và hoạt động của hộ kinh doanh. ...........................................21
1.4. Hệ thống văn bản pháp luật về hộ kinh doanh ...............................................24


1.5. Nội dung địa vị pháp lý của hộ kinh doanh ....................................................26
1.6 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống văn bản pháp luật về hộ kinh
doanh. .....................................................................................................................27
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH
DOANH .................................................................................................................... 31
2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của hộ kinh
doanh ......................................................................................................................31
2.2. Thực trạng thi hành các quy định pháp luật về hộ kinh doanh .......................53
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH DOANH .................................................................. 57
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh ..................................57
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh .....................59
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định pháp luật về
địa vị pháp lý của hộ kinh doanh ...........................................................................66
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 71


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trƣớc năm 1986, nền kinh tế nƣớc ta đƣợc duy trì theo mô hình kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, các thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và
tập thể, kinh tế cá thể nói chung và hộ kinh doanh nói riêng không có điều
kiện phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế. mô hình kinh doanh cá thể, hộ kinh
doanh vẫn tồn tại.
Năm 1986, với chủ trƣơng đổi mới toàn diện đất nƣớc, trong đó trọng

tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nƣớc ta đã công nhận sự
tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác bên cạnh hai loại hình quốc doanh
và tập thể. Từ đó, kinh tế hộ đƣợc phát triển mạnh mẽ và ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong tiến trình đổi mới của đất nƣớc.
Với đặc thù và ƣu điểm của mình, hộ kinh doanh đã ngày càng phát
triển rộng khắp từ nông thôn đến thành thị ở nƣớc ta và đóng góp lớn vào
GDP của cả nƣớc, tạo việc làm cho nhiều lao động, giúp giải quyết đƣợc một
phần vấn đề thất nghiệp ở nƣớc ta. Tuy nhiên, quản lý nhà nƣớc đối với loại
hình hộ kinh doanh còn đang gặp nhiều khó khăn bởi các quy định của pháp
luật về hộ kinh doanh chƣa đầy đủ và chƣa đƣợc ngƣời dân quan tâm thực
hiện. Theo thống kê thì số hộ kinh doanh có Giấy phép đăng ký hộ kinh
doanh chiếm tỷ lệ rất thấp so với số hộ kinh doanh hoạt động trong thực tế.
Điều này một mặt gây khó khăn cho cơ quan quản lý, một mặt gây thất thu
ngân sách cho nhà nƣớc. Ngoài ra, hệ thống các quy định của pháp luật về hộ
kinh doanh hiện nay còn nằm rải rác ở nhiều văn bản luật, không có tính tập
trung, các quy định của pháp luật về hộ kinh doanh còn khá chung chung, gây
khó khăn khi áp dụng trên thực tế...


2

Nhằm tìm hiểu nguyên nhân và đƣa ra giải pháp để giải quyết những
vấn đề bất cập nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Địa vị pháp lý của hộ kinh
doanh – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
Cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Mặc dù loại hình hộ kinh doanh ra đời và phát triển từ rất sớm, nhƣng
loại tổ chức kinh tế này chƣa thực sự đƣợc giới học giả quan tâm nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu về hộ kinh doanh chỉ tập trung vào vấn đề thuế tài chính của hộ. Các bài viết nghiên cứu về hộ kinh doanh cũng rất ít, có thể
kể đến bài viết của TS. Ngô Huy Cƣơng đƣợc đăng trên Tạp chí Khoa học của

Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học số 25 (2009) với tựa đề “Phân tích pháp
luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập”. Với thực trạng nghiên cứu nêu
trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Địa vị pháp lý của hộ kinh
doanh – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” sẽ mang đến cái nhìn toàn diện về
hệ thống quy định pháp luật về hộ kinh doanh.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật về hộ kinh
doanh, đánh giá các quy định và thực trạng áp dụng các quy định của pháp
luật về hộ kinh doanh ở nƣớc ta.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
uận văn đƣợc thực hiện dựa trên lý luận của chủ ngh a

ác – ênin,

các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta. Các phƣơng pháp nghiên cứu trong
luận văn đƣợc thực hiện trên nền tảng của chủ ngh a duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:


3

- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng tại chƣơng 1 và chƣơng 2 nhằm
so sánh các quy định của pháp luật về hộ kinh doanh với các loại hình doanh
nghiệp nhƣ doanh nghiệp tƣ nhân, công ty cổ phần…;
- Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng tại các chƣơng của luận văn
nhằm đƣa ra các đánh giá của tác giả đối với các quy định của pháp luật;
- Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng tại chƣơng 1, chƣơng 2 và
chƣơng 3 nhằm chỉ ra những ƣu điểm, hạn chế của chế định hộ kinh doanh
trong pháp luật;

- Phƣơng pháp chứng minh đƣợc sử dụng tại chƣơng 2 nhằm làm rõ
hơn các nhận định, đánh giá mà tác giả đã nêu ra trong bài nghiên cứu;
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng tại chƣơng 1 và chƣơng 2 nhằm
mang làm rõ hơn cho các phân tích có trong luận văn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đƣa ra phƣơng hƣớng và một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh, góp phần làm cho các
quy định của pháp luật về hộ kinh doanh đƣợc áp dụng dễ dàng và thuận tiện
trong thực tế.
Nhằm thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm
vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hộ kinh doanh;
+ Phân tích những quy định pháp luật về địa vị pháp lý của hộ kinh
doanh; Đánh giá các quy định của pháp luật về hộ kinh doanh: chỉ ra những
thành công, những hạn chế của pháp luật khi quy định về hộ kinh doanh; thực
trạng áp dụng quy định của pháp luật về hộ kinh doanh;


4

+ Xây dựng phƣơng hƣớng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về hộ kinh doanh.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc chia làm ba chƣơng, bao gồm:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của hộ kinh doanh;
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của hộ kinh doanh
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về địa vị
pháp lý của hộ kinh doanh.



5

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA HỘ KINH DOANH
1.1. Vị trí, vai trò của hộ kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam
Qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam, chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hƣớng xã hội chủ ngh a
ở nƣớc ta đã có nhiều thành tựu quan trọng. Từ một nƣớc nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu, Việt Nam đang dần đổi mới khoa học kỹ thuật, cơ cấu kinh tế
tiến tới trở thành một nƣớc công nghiệp hiện đại. Mức tăng trƣởng kinh tế
trung bình là 7%/ 1 năm là một dấu hiệu tự hào cho sự đi lên của dân tộc sau
khi trải qua hai cuộc chiến tranh và khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Mặc dù
tình hình trong nƣớc và quốc tế có rất nhiều khó khăn, thách thức nhƣng Đảng
và toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội
Đảng lần thứ X đề ra và tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ Đại hội Đảng lần thứ
XI để tạo nền tảng đến năm 2020, nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công
nghiệp hóa, theo hƣớng hiện đại.
Từ những năm đầu cải cách kinh tế, thành phần kinh tế cá thể đang trở
thành lực lƣợng hùng hậu không chỉ về số lƣợng mà còn về tỉ lệ đóng góp cho
GDP và ngân sách quốc gia hàng nghìn tỉ đồng. Là một phần của mô hình
kinh doanh cá thể, hộ kinh doanh đã và đang phát triển về quy mô và chất
lƣợng, phù hợp với thời đại lịch sử, là nhân tố quan trọng trong việc giải
quyết các vấn đề kinh tế, xã hội của đất nƣớc.


6


1.1.1Hộ kinh doanh góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giải
quyết một phần vấn đề thất nghiệp ở nước ta
Do chế độ tự cung tự cấp đã ăn sâu vào tiềm thức của ngƣời Việt Nam
nên loại hình kinh doanh nhỏ lẻ ít biến động theo thị trƣờng. Với công sức
đầu tƣ nhỏ nhƣng thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận lớn cùng với các điều kiện
thành lập và hoạt động giản đơn, lực lƣợng lao động dồi dào cũng nhƣ không
cần công nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại nên hộ kinh doanh là một mô hình
đƣợc nhiều cá nhân hoặc hộ gia đình kinh doanh lựa chọn . Với sự phát triển
nhanh chóng, hộ kinh doanh đã xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả
nƣớc, từ đồng bằng đến miền núi và hải đảo, biên cƣơng của Tổ quốc. Theo
cuộc điều tra năm 2009 của Tổng cục Thống kê, Việt Nam, có tới sấp xỉ 4
triệu hộ kinh doanh trong l nh vực phi nông nghiệp. Đến năm 2012, tổng số
hộ kinh doanh đã tăng lên khoảng 4.6 triệu hộ, với l nh vực kinh doanh rất đa
dạng nhƣ công nghiệp, xây dựng, chế biến, thƣơng mại, dịch vụ, y tế, giáo
dục đào tạo, thể thao… Trong khi kinh tế nƣớc ta vẫn bị ảnh hƣởng từ khủng
hoảng kinh tế thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang bị phá sản và giải
thể thì số lƣợng hộ kinh doanh vẫn không ngừng tăng lên, thu hút một lƣợng
lớn những ngƣời đang độ tuổi lao động. Theo bảng đánh giá của Tổng cục
Thống kê năm 2005, số lao động thuộc nhóm hộ kinh doanh có khoảng 5,6
triệu ngƣời. Từ năm 2005 đến nay, số lao động trong các hộ kinh doanh vẫn
tiếp tục tăng theo từng năm: năm 2009 cả nƣớc có trên 7 triệu lao động. Năm
2012 đánh giá sơ bộ là khoảng 7,7 triệu lao động, chiếm tỷ lệ 15% (tổng số
lao động cả nƣớc). Trong khi đó, số lƣợng ngƣời lao động trong doanh nghiệp
khoảng 8,2 triệu ngƣời, trong đó tập trung vào khu vực doanh nghiệp ngoài
nhà nƣớc (khoảng là 6,7 triệu ngƣời) [24]. Nhƣ vậy, so sánh trên cho thấy dù
kém hơn doanh nghiệp về môi trƣờng thu hút lao động nhƣng hộ kinh doanh
vẫn đang giải quyết tốt các vấn đề nhạy cảm của xã hội. Tỷ lệ thất nghiệp trên


7


toàn thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam đang có chiều hƣớng gia tăng và hậu quả
dẫn tới các hiện tƣợng tiêu cực nhƣ tội phạm, nghèo đói, bất ổn chính trị,
chiến tranh....Cho nên vấn đề tạo thêm việc làm không chỉ có ý ngh a về mặt
kinh tế mà còn ý ngh a xã hội sâu sắc. Với sự phát triển về quy mô cũng nhƣ
số lƣợng, hộ kinh doanh đã tạo nên các điều kiện để các cá nhân có môi
trƣờng lao động góp phần cải thiện đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo và
thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nƣớc ta đã đề ra.
Hiện nay, khi tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao, các công việc ngày càng
đòi hỏi lực lƣợng lao động có điều kiện, trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao thì
hộ kinh doanh với hình thức kinh doanh nhỏ lẻ hàng năm tạo ra hàng vạn việc
làm mới, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội cũng nhƣ giải
quyết các nhu cầu của thị trƣờng lao động.
1.1.2. Hộ kinh doanh có khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực xã hội, góp phần giải phóng sức lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đƣợc khởi xƣớng từ Đại
hội Đảng lần thứ VI là một trong những chủ trƣơng đúng đắn của Đảng và
Nhà nƣớc ta, nhằm mục đích giải phóng sức lao động, huy động mọi nguồn
lực trong xã hội cho sự phát triển kinh tế. Những chủ trƣơng đó đã đƣợc tiếp
tục khẳng định qua các kỳ Đại hội Đảng, đƣợc cụ thể hóa bằng văn bản pháp
luật của Nhà nƣớc, tạo nên môi trƣờng kinh doanh thông thoáng, tạo điều kiện
cho mọi ngƣời dân yên tâm đầu tƣ sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà khơi dậy
đƣợc những tiềm lực trong dân cƣ, phát huy sự sáng tạo trong nhân dân, huy
động ngày càng nhiều nguồn lực xã hội nhƣ tài nguyên, lao động, vốn đầu
tƣ...cho công cuộc đổi mới đất nƣớc.
Một trong những tiềm năng lớn của hộ kinh doanh là huy động nguồn
vốn trong xã hội. Bởi, hộ kinh doanh là mô hình hoạt động phù hợp với tâm


8


lý kinh doanh của ngƣời Việt Nam. Với số lƣợng lớn, phân bố trong nhiều
l nh vực khác nhau, hộ kinh doanh tận dụng đƣợc nhiều nguồn vốn rải rác
trong dân cƣ vào sản xuất, kinh doanh. Năm 2012, tài sản và nguồn vốn mà
hộ kinh doanh hiện có chiếm khoảng 18% GDP. Sau khi thu hút vốn, các hộ
đầu tƣ vào kinh doanh có lãi, lợi nhuận sẽ quay trở lại quá trình kinh doanh,
trở thành động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ngoài ra, hộ kinh doanh còn là cơ sở huy động nguồn nhân lực lớn cho
phát triển kinh tế xã hội. Ở nông thôn, mô hình hộ kinh doanh thu hút một
lƣợng lớn lao động nông nhàn muốn tăng thu nhập hoặc những ngƣời dân
muốn chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang thủ công nghiệp. Ở thành
thị, các cơ sở kinh doanh cá thể trong l nh vực thƣơng mại và dịch vụ, thủ
công nghiệp tạo điều kiện giải quyết việc làm cho những ngƣời lao động chƣa
có việc làm. Đây không chỉ là việc giải quyết vấn đề xã hội mà hình thức kinh
doanh này đã góp phần phát huy khả năng sáng tạo, tính năng động trong sản
xuất kinh doanh của ngƣời lao động. Trong thực tế, không ít các cá nhân kinh
doanh đã trở thành điển hình cho những sáng kiến, phát minh, kinh nghiệm
tạo ra những sản phẩm mới đƣợc xã hội công nhận, hay cải tiến phƣơng pháp
sản xuất, chế biến, tăng năng xuất lao động...đóng góp vào quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nƣớc. Chính những con ngƣời ấy là nguồn
lực quan trọng, trong tƣơng lại sẽ trở thành những ông chủ lớn, bứt phá khỏi
quy mô nhỏ và trở thành những doanh nhân làm chủ cơ sở sản xuất quy mô
lớn. Ngoài việc huy động lực lƣợng lớn ngƣời lao động nhàn rỗi, giải phóng
sức lao động, hộ kinh doanh còn trực tiếp khai thác các nguồn lực khác nhƣ:
đất đai, tài nguyên, công nghệ...góp phần vào việc sử dụng hiệu quả tƣ liệu
sản xuất của nền kinh tế.


9


Nhìn chung ở nƣớc ta, doanh nghiệp tập trung và phân bố không đồng
đều theo vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, nguồn vốn đầu tƣ….
Chính vì vậy, với lực lƣợng lớn, phát triển nhanh từ nông thôn đến thành thị,
kinh doanh đơn giản, l nh vực hoạt động đa dạng và ứng phó tốt với thị
trƣờng biến động nên hộ kinh doanh tận dụng đƣợc các nguồn lực xã hội
1.1.3. Hộ kinh doanh góp phần gìn giữ những giá trị truyền thống,
đặc thù của văn hóa làng nghề ở Việt Nam.
Tính trên cả nƣớc có khoảng 400 làng nghề truyền thống, có lịch sử
hàng trăm năm nay, thu hút hàng triệu gia đình và số lƣợng lao động lớn.
Nhiều địa phƣơng có những làng nghề truyền thống mà sự phát triển của nó
trong hộ gia đình và dòng họ theo hình thức cha truyền con nối thông qua việc
gìn giữ và phát huy các kinh nghiệm quý báu qua các thời kỳ lịch sử. Ở mỗi
vùng miền, địa phƣơng, các điều kiện về địa lý tự nhiên – con ngƣời khác
nhau nên các làng nghề có những sản phẩm đặc trƣng, nổi tiếng về chất lƣợng
kỹ thuật nhƣ: gốm Bát Tràng, chạm khắc gỗ Đồng Kỵ, chiếu cói Nga Sơn,
chế tác đá mỹ nghệ Non Nƣớc... Đi cùng với vấn đề bảo tồn bản sắc dân tộc
và phát triển trong thời kỳ mới, các hộ kinh doanh đang không ngừng cải tiến
kỹ thuật, tăng năng xuất sản phẩm nhƣng vẫn phù hợp với những giá trị
truyền thống của cha ông để lại. Không nhƣ các doanh nghiệp đòi hỏi số vốn
lớn, chịu nhiều thủ tục hành chính và các loại thuế cũng nhƣ cơ cấu tổ chức
và hoạt động phức tạp, đa số các hộ gia đình làng nghề đều có quy mô kinh
doanh nhỏ (trong phạm vi hộ gia đình). Các thành viên trong hộ đều tham gia
sản xuất, kinh doanh theo dựa vào năng lực, sở trƣờng của mình nên việc lựa
chọn mô hình hộ kinh doanh một mặt để giữ gìn những kinh nghiệm đặc sắc
trong phạm vi gia đình, dòng họ đồng thời dễ thích ứng với thị trƣờng nhƣ lúc
mới đầu khai sinh ra nó.


10


Nhƣ vậy, cùng với doanh nghiệp, hộ kinh doanh là một trong những
thành phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế ngành nghề truyền thống
của Việt Nam đã đƣợc tích lũy qua nhiều thế hệ. Hàng hóa đƣợc sản xuất luôn
luôn đi cùng với công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, không chỉ
phục vụ nhu cầu trong nƣớc mà còn đƣợc thị trƣờng quốc tế ƣa chuộng, qua
đó thúc đấy nền kinh tế phát triển.
1.1.4. Hộ kinh doanh góp phần vào tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm
trong nước, đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Sự phát triển của kinh tế những năm vừa qua đã khơi dậy những tiềm
năng về trí tuệ, sức lao động, tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực khác
của đất nƣớc. Với sự cần cù chăm chỉ của con ngƣời Việt Nam, trong 5 năm
trở lại đây, các thành phần kinh tế đã tạo ra một khối lƣợng sản phẩm có ảnh
hƣởng lớn tới quá trình phát triển của kinh tế, con ngƣời và xã hội. Qua đó tạo
động lực để đất nƣớc đi lên trở thành một nƣớc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với khoảng 4,6 triệu cơ sở, hàng năm hộ kinh doanh đã đóng góp đáng kể vào
sự tăng trƣởng GDP và tăng nguồn thu của ngân sách nhà nƣớc.
Bảng tổng giá trị sản phẩm đóng góp và tỷ trọng trong GDP của hộ
kinh doanh từ năm 2009 – 2012 [24].

Tổng giá trị sản phẩm
đóng góp (nghìn tỉ đồng)
Tỷ trọng trong GDP (%)

2009

2010

2011

2012


573,6

707,0

922,9

1077,9

31,7

32,7

33,2

33,2


11

Qua số liệu bảng cho thấy, từ năm 2009 đến năm 2012, giá trị sản phẩm
đóng góp của hộ kinh doanh đối với GDP hàng năm đều tăng, bình quân mỗi
năm tổng giá trị sản phẩm Hộ kinh doanh làm ra chiếm tỷ lệ 32 - 33% GDP
của cả nƣớc - đây là một tỷ lệ khá cao so với các loại hình kinh doanh khác.
Trong khi đó, loại hình doanh nghiệp đóng góp khoảng 43,7%, trong đó
doanh nghiệp nhà nƣớc chiếm tới hơn 30%.
1.1.5. Hộ kinh doanh góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong bối cảnh trong nƣớc và quốc tế có rất nhiều khó khăn, thách
thức, nhƣng toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt đƣợc những thành

tựu quan trọng. Từ năm 2005 đến 2010, cơ cấu kinh tế đang có bƣớc chuyển
dịch tích cực:
Trong GDP: Tỷ trọng nông nghiệp từ 19,30% năm 2005, giảm xuống
còn 18,89% năm 2010. Tỷ trọng công nghiệp từ 38,13% năm 2005, tăng lên
38,23% năm 2010. Tỷ trọng dịch vụ 42,57% năm 2005 và năm 2010 đạt
42,88% [24].
Từ thực tiễn xây dựng và phát triển đất nƣớc từ 2005 - 2010, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã rút ra đƣợc những khuyết điểm và hạn chế
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Đồng thời để phù hợp với tình
hình mới, Đảng đã đề ra phƣơng hƣớng, nhiệm vụ cho chiến lƣợc phát triển
kinh tế xã hội 5 năm tiếp theo. Trong đó, có một số chỉ tiêu quan trọng nhƣ:
Mức tăng trƣởng GDP bình quân phải đạt từ: 7,0 - 7,5%/năm; trong cơ cấu
GDP thì nông nghiệp chiếm 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng chiếm 41 42%, dịch vụ chiếm 41 - 42%. Nền kinh tế phải giải quyết việc làm cho 8
triệu lao động mới và giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 2%/năm. Thu nhập của
ngƣời dân nông thôn phải tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010 và bình quân


12

2000USD/năm/1 ngƣời [26]. Nhƣ vậy để hoàn thành các chỉ số trên thì một
trong những giải pháp quan trọng là đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh
tế, trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ. Thực tế đã cho thấy, hộ kinh doanh
trong l nh vực phi nông nghiệp đang thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hƣớng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bởi: Các hộ gia đình
ở nông thôn và những ngƣời nông dân bên cạnh việc đảm bảo an ninh lƣơng
thực thì hiện nay, một số bộ phận đang lao động trong các ngành công nghiệp,
thủ công nghiệp và dịch vụ. Xu hƣớng này đang có chiều hƣớng gia tăng và
tạo nên sự thay đổi to lớn bộ mặt của nhiều vùng nông thôn. Không những
thế, với điều kiện của khu vực nông thôn, lao động nhàn rỗi theo mùa vụ hiện
nay đang là các đối tƣợng đƣợc khuyến khích đào tạo nghề để tham gia các

hoạt động sản xuất tại các cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp tại địa phƣơng,
góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế nông thôn mới.
Ngoài ra, hộ kinh doanh đang cùng với loại hình doanh nghiệp và hợp
tác xã góp phần phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các
ngành nghề tiểu - thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên
liệu phi nông nghiệp, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, các loại hình
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Từ đó, hộ kinh doanh thúc
đẩy sản xuất nông phẩm hàng hoá, mở rộng thị trƣờng nội địa, thực hiện thuỷ
lợi hoá và xây dựng đƣờng giao thông nông thôn, phát triển thông tin liên lạc,
các khu thƣơng mại dịch vụ, vui chơi giải trí. Kết quả là hình thành nên ở
những tụ điểm dân cƣ các trung tâm dịch vụ kinh tế - kỹ thuật - thƣơng mại,
tạo điều kiện cho sự phát triển trên địa bàn nông thôn một nền nông nghiệp
sinh thái và bộ mặt nông thôn mới theo hƣớng văn minh, hiện đại. Đó cũng là
yếu tố góp phần vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa – hiện


13

đại hóa nông nghiệp, nông thôn của Đảng và nhà nƣớc ta trong giai đoạn hiện
nay.
Nhƣ vậy, sự phát triển các hộ kinh doanh trong các ngành nghề công
nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ đã và đang thu hút ngày càng nhiều lao
động nông nghiệp vào các ngành phi nông nghiệp. Các hộ kinh doanh trong
l nh vực phi nông nghiệp cùng với doanh nghiệp, hợp tác xã đang đóng vai trò
cơ bản trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phƣơng, góp phần
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nƣớc ta theo hƣớng CNH, HĐH.
1.1.6. Hộ kinh doanh góp phần tạo ra nguồn cung hàng hoá đa dạng
cho thị trường trong nước và xuất khẩu
Với đặc điểm là sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, hoạt động trên

nhiều l nh vực nhƣ loại hình doanh nghiệp (trừ những l nh vực có điều kiện),
hộ kinh doanh cùng với doanh nghiệp đã và đang tỏ rõ là một bộ phận kinh tế
quan trọng, cung cấp đầy đủ và kịp thời các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu cho
toàn xã hội. Tuy số lƣợng sản phẩm mỗi đơn vị sản xuất ra không nhiều do số
vốn nhỏ, nhƣng với số lƣợng các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, quy mô hoạt
động trên toàn quốc nên số lƣợng sản phẩm đƣợc tạo ra rất lớn, đa dạng,
phong phú về chủng loại và mẫu mã, từ các mặt hàng giản đơn đến các mặt
hàng cao cấp đến những sản phẩm truyền thống đƣợc xuất khẩu ra nƣớc ngoài
Với đóng góp khoảng hơn 30% GDP toàn quốc [24], có thể nói hộ kinh doanh
không những góp phần tạo ra khối lƣợng lớn hàng hoá phục vụ nhu cầu thị
trƣờng và xuất khẩu mà còn đóng vai trò trong việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế v mô quan trọng nhƣ: tạo sự cân đối quỹ hàng hoá, tiền tệ, bình ổn giá
cả, cân đối phát triển kinh tế giữa các vùng, ổn định đời sống nhân dân, thực
hiện xoá đói giảm nghèo.


14

1.2 Khái niệm, đặc điểm của hộ kinh doanh.
1.2.1 Khái niệm hộ kinh doanh
Hiện nay chƣa có văn bản quy phạm nào đƣa ra khái niệm hộ kinh
doanh mà chỉ là sự mô tả tổ chức kinh tế nào đƣợc coi là hộ kinh doanh.
Khoản 1 Điều 49 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng
4 năm 2010 quy định về đăng ký doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 43/2010/NĐ-CP) đã nêu rõ “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân
Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng
ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có
con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động
kinh doanh”
Từ quy định nêu trên, ta có thể hiểu hộ kinh doanh là tên gọi để chỉ

những cá nhân, một nhóm ngƣời hoặc hộ gia đình kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ có cùng chung ý chí, mục đích, lợi nhuận, có đăng ký kinh doanh với cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Trƣớc đây, tại các văn bản luật, loại hình hộ kinh doanh đƣợc gọi với
cái tên khác là “hộ kinh doanh cá thể”. Tên gọi này đƣợc sử dụng từ Nghị
định số 02/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3 tháng 2 năm 2000 về đăng ký
kinh doanh (sau đây gọi tắt là Nghị định số 02/2000/NĐ-CP) để thay thế cho
hai loại chủ thể là cá nhân kinh doanh và nhóm kinh doanh đƣợc nêu tại các
văn bản luật trƣớc Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ra đời. Thời điểm đó, “hộ
kinh doanh cá thể” chỉ có thể do cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ. Tuy
nhiên, kể từ Nghị định số 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29 tháng 8
năm 2006 về đăng ký kinh doanh (sau đây gọi tắt là Nghị định số
88/2006/NĐ-CP) cho đến Nghị định số 43/2010/NĐ-CP đang có hiệu lực hiện
nay thì thuật ngữ “hộ kinh doanh cá thể” đƣợc thay thế bởi thuật ngữ “hộ kinh


15

doanh”. Về bản chất, chúng không có sự thay đổi. Tuy nhiên, về chủ thể đƣợc
phép thành lập và hoạt động dƣới hình thức hộ kinh doanh đã đƣợc pháp luật
bổ sung thêm, đó là pháp luật cho phép “một nhóm ngƣời” đáp ứng đủ các
điều kiện theo quy định cũng đƣợc phép đăng ký thành lập hộ kinh doanh.
Cũng tại khoản 1 Điều 49 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP, pháp luật
cũng thể hiện việc không coi các hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp,
làm muối và những ngƣời bán hàng rong, quà vặt, làm dịch vụ có thu nhập
thấp là hộ kinh doanh. Mặc dù những đối tƣợng này có thể tiến hành một số
hoạt động kinh doanh cụ thể nhƣ bán các sản phẩm mình tạo ra, mua đi bán
lại các mặt hàng nhỏ lẻ, hoặc sử dụng các dịch vụ có thu nhập thấp để kiểm
lời nhƣng quy mô rất nhỏ và pháp luật không yêu cầu đăng ký kinh doanh.
Quy định này nhằm phân chia các đối tƣợng thực hiện kinh doanh dựa trên

quy mô kinh doanh, ở tầm doanh nghiệp, có doanh nghiệp tƣ nhân, ở tầm thấp
hơn có hộ kinh doanh, cuối cùng là quy mô nhỏ lẻ là các đối tƣợng có tính
chất giống nhƣ hộ kinh doanh nhƣng không phải đăng ký kinh doanh.
Hiện nay, tại một số quốc gia trên thế giới có quy định về loại hình
kinh doanh có một số điểm tƣơng đồng với hộ kinh doanh ở nƣớc ta. Cụ thể:
Pháp luật của Anh quan niệm: Thƣơng nhân đơn lẻ (sole trader) là một
ngƣời tiến hành kinh doanh với tài khoản của mình; tự lựa chọn nơi thích hợp
để hoạt động; có hoặc không có sự trợ giúp của ngƣời làm công trong kinh
doanh; vốn góp ban đầu là nguồn vốn cá nhân do tiết kiệm hoặc vay mƣợn cá
nhân. Pháp luật Hoa Kỳ quan niệm: Doanh nghiệp cá thể (sole
proprietorship) là một doanh thƣơng (a business) đƣợc vận hành bởi một
ngƣời nhƣ một tài sản cá nhân của ngƣời đó; và doanh nghiệp
(enterprise) này là một sự mở rộng đơn thuần của chủ sở hữu cá nhân
(individual owner). Thƣơng nhân đơn lẻ hay doanh nghiệp cá thể theo


16

các quan niệm này là một hình thức kinh doanh có kết cấu khác với các
hình thức kinh doanh khác nhƣ hợp danh hay các công ti. Quan niệm này
hoàn toàn trùng hợp với quan niệm của các luật gia Việt Nam ở các chế độ cũ.
Họ xem thƣơng nhân thể nhân là cá nhân (có hình hài, cốt nhục) kinh
doanh khác biệt hẳn với các thƣơng nhân pháp nhân là các tổ chức hay
đoàn thể đƣợc tạo lập bởi sự góp vốn của các nhà đầu tƣ mong muốn tìm
kiếm lợi nhuận. Các tổ chức này đƣợc gọi là các công ti. Mỗi loại công ty có
những khía cạnh pháp lý riêng về thành lập và vận hành. Những khía cạnh
pháp lý này không có liên quan gì với thƣơng nhân thể nhân. Quan
niệm này phỏng theo quan niệm của Pháp về thƣơng nhân thể nhân. Khi
nói về thƣơng nhân theo pháp luật của Pháp, ngƣời ta thƣờng dẫn Điều 1, Bộ
luật Thƣơng mại của Pháp (1807). Tại đó, thƣơng nhân có thể là thể nhân

hoặc pháp nhân. Thƣơng nhân thể nhân là một cá nhân chuyên thực hiện
các hành vi thƣơng mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thƣờng xuyên của
mình. Theo hệ thống pháp luật này cá nhân trở thành thƣơng nhân là
một vấn đề thực tế đƣợc xác định bởi tòa án. Nếu tên một cá nhân xuất hiện
trong Sổ đăng ký thƣơng mại tại tòa án thƣơng mại, thì ngƣời đó đƣợc xem
là thƣơng nhân, trừ khi có chứng cứ ngƣợc lại. Theo pháp luật Việt Nam hiện
nay hộ kinh doanh không hoàn toàn là cá nhân kinh doanh. Đôi khi hộ kinh
doanh có sự hùn vốn của các cá nhân bởi pháp luật cũng đã mô tả nhƣ vậy.
Vì vậy, nếu quan niệm hộ kinh doanh hay hộ kinh doanh cá thể là cá nhân
kinh doanh hay thƣơng nhân đơn lẻ là không hoàn toàn đúng [12].


17

1.2.2. Đặc điểm của hộ kinh doanh
1.2.2.1. Hộ kinh doanh do một cá nhân, một nhóm người hoặc một
hộ gia đình làm chủ
Xét trên góc độ pháp lý, chủ hộ kinh doanh phải là các cá nhân, con
ngƣời cụ thể. Thành viên của hộ kinh doanh không thể là một tổ chức hoặc
đại diện đƣợc các tổ chức cử ra để tham gia hộ kinh doanh. Đối với hộ kinh
doanh do một nhóm ngƣời hoặc một hộ gia đình làm chủ thì các cá nhân sẽ
thỏa thuận với nhau cử ra một đại diện để tham gia vào các quan hệ pháp luật
và mối quan hệ giữa các cá nhân đó là quan hệ đồng chủ sở hữu. Các cá nhân
muốn tạo lập hộ kinh doanh thì phải đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi, năng lực
pháp luật cũng nhƣ năng lực hành vi, ngành nghề đăng ký kinh doanh... Đối
với hộ kinh doanh, chủ sở hữu sẽ có quyền quyết định các vấn đề về cơ cấu tổ
chức, hoạt động, vốn đầu tƣ, mục tiêu và kế hoạch kinh doanh hoặc chấm dứt
sự tồn tại của nó. Chính vì vậy, điểm giống nhau giữa chủ doanh nghiệp tƣ
nhân và chủ hộ kinh doanh đều là ngƣời duy nhất hƣởng lợi nhuận phát sinh
và chịu toàn bộ rủi ro trong công việc kinh doanh của mình. Nhƣng trong

trƣờng hợp có chung đồng chủ sở hữu thì ngƣời đại diện của hộ kinh doanh
chỉ là ngƣời thay mặt tất cả các thành viên khác thực hiện các quyền và ngh a
vụ đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Riêng lợi nhuận và ngh a vụ tài sản
phát sinh thì quyền và ngh a vụ của hộ kinh doanh sẽ đƣợc chia cho tất cả các
thành viên dựa vào điều khoản thỏa thuận của các thành viên, căn cứ vào số
vốn góp hoặc công sức đóng góp của mỗi ngƣời.
Pháp luật quy định các thành viên của hộ gia đình khi tạo lập hộ kinh
doanh phải có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dƣỡng nhƣ ông
bà, bố mẹ, con cái trong gia đình, vợ với chồng hoặc bố mẹ với con nuôi.
Điều này sẽ tạo nên sức mạnh về kinh tế và một khối thống nhất về ý chí, mục


18

đích trong kinh doanh. Bởi vì, mỗi ngƣời trong hộ đều lao động theo khả
năng, trách nhiệm gắn bó với vai trò của họ trong gia đình nên mô hình này sẽ
ít xảy ra mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, các thành viên có trách nhiệm cao với
số tài sản đóng góp của mình và hiệu quả kinh doanh. Đồng thời, trong hộ gia
đình mọi ngƣời đều biết năng lực, sở trƣờng cùa từng thành viên nên việc bố
trí việc làm sẽ phù hợp, linh động dẫn đến sự đồng thuận, nhất trí cao trong
hoạt động của hộ.
1.2.2.2. Hộ kinh doanh thường kinh doanh với quy mô nhỏ hẹp
Theo quy định của pháp luật, hộ kinh doanh và doanh nghiệp đƣợc hoạt
động trong nhiều ngành, nghề nhƣng các cá nhân khi lựa chọn mô hình hộ
kinh doanh theo hƣớng là kinh doanh với số vốn nhỏ, hoạt động đơn giản và
dễ kiểm soát. Hộ kinh doanh có quy mô bé hơn các doanh nghiệp về các tiêu
chí nhƣ số lƣợng ngƣời lao động, địa điểm kinh doanh, đất đai, tƣ liệu sản
xuất… Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát từ l nh vực hoạt động của
doanh nghiệp thƣờng có phạm vi lớn và ổn định, chủ yếu trong những ngành
quan trọng của quốc gia nhƣ công nghiệp nặng, dầu khí, xây dựng, giao

thông, tài chính… Những ngành này đòi hỏi số vốn đầu tƣ lớn và trình độ lao
động có chuyên môn, nghiệp vụ cao. Cho nên, đối với doanh nghiệp, pháp
luật cho phép đƣợc mở rộng quy mô sản xuất bằng việc tăng số vốn đầu tƣ, số
lƣợng công nhân viên, nhà xƣởng sản xuất hàng hóa hoặc thành lập các các
chi nhánh, công ty con, đƣợc ƣu đãi sử dụng đất đai và các ƣu đãi khác.
Đối với hộ kinh doanh, theo Nghị định số 43/2010/NĐ – CP, số lƣợng
lao động trong hộ kinh doanh không đƣợc vƣợt quá 10 ngƣời, nếu trên 10
ngƣời thì hộ kinh doanh phải chuyển sang các loại hình doanh nghiệp. Đồng
thời, khi đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh phải xác định rõ địa điểm kinh


19

doanh tại một vị trí nhất định và không đƣợc mở chi nhánh hay địa điểm sản
xuất kinh doanh khác.
Mặc dù quy mô kinh doanh của hộ kinh doanh so với các loại hình
doanh nghiệp là nhỏ bé nhƣng so với loại hình kinh doanh nhỏ, lẻ nhƣ hộ
nông, lâm ngƣ nghiệp, bán hàng rong, quà vặt…thì hộ kinh doanh không phải
là loại hình kinh doanh có quy mô nhỏ nhất. Các đối tƣợng trên cũng tiến
hành hoạt động kinh doanh nhƣng không ổn định Hộ kinh doanh. Dấu hiệu để
phân biệt giữa hộ kinh doanh với các hình thức kinh doanh trên dựa vào mức
thu nhập thấp. Mức thu nhập đƣợc coi là thấp dựa vào các quy định cụ thể của
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng.
Nhƣ vậy, với quy mô sản xuất nhỏ, đòi hỏi vốn đầu tƣ ít, sử dụng
không nhiều lao động, hộ kinh doanh có thể thay đổi linh hoạt phƣơng thức
hoạt động kinh doanh để đối phó với những biến động của thị trƣờng và trong
công việc có thể dễ dàng quản lý, kiểm soát chặt chẽ. Nhƣng hộ kinh doanh ít
có điều kiện để trang bị máy móc hiện đại nên thƣờng công nghệ lạc hậu hơn,
nhất là trong các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Theo quy định của pháp luật, hộ kinh doanh không có con dấu riêng.

Điều này là một bất lợi khá lớn. Bởi, con dấu gần nhƣ đƣợc đồng nhất hóa
cho sự bảo chứng về tƣ cách pháp lý, tƣ cách pháp nhân của của các cơ quan,
tổ chức. Nó xác định ngƣời đã ký tên, đóng dấu; xác nhận các giấy tờ giao
dịch, hồ sơ, tài liệu. Khi đã đóng dấu, trách nhiệm pháp lý của cá nhân, tổ
chức đã đƣợc ghi nhận tùy theo hình thức và nội dung của các tài liệu đó.
1.2.2.3. Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động
kinh doanh
Chủ hộ kinh doanh cũng nhƣ tất cả các thành viên của hộ kinh doanh
đều phải chịu mọi rủi ro trong hoạt động kinh doanh của hộ. Do tính chất độc


20

lập về tài sản của hộ kinh doanh không có nên chế độ trách nhiệm trên là vô
hạn. Điều đó có ngh a là: Đối với hộ do một cá nhân làm chủ, chủ hộ không
chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của hộ trong phạm vi phần vốn
và tài sản dùng để kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình, trong trƣờng hợp vốn đầu tƣ đã đăng ký không đủ để trang trải các
khoản nợ . Nếu hộ kinh doanh có chung chủ sở hữu thì tất cả các thành viên
trong hộ phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tất cả tài sản của mình. Cụ thể là
số vốn chung không đủ để trả nợ, thì mỗi thành viên sẽ đóng góp thêm bằng
tài sản riêng hoặc tài sản dân sự chung của cả hộ để trả nợ. Việc góp thêm này
sẽ chỉ chấm dứt khi số nợ của hộ kinh doanh đƣợc trả hết. Mức góp thêm của
mỗi thành viên phụ thuộc vào thỏa thuận trong hộ kinh doanh. Nếu một số
thành viên không có khả năng góp thêm để trả nợ nhƣ thỏa thuận thì các
thành viên còn lại có ngh a vụ phải lấy tài sản của mình để tiếp tục trả nợ.
Quan hệ nợ nần chỉ đƣợc chấm dứt khi hộ kinh doanh đã thanh toán hết các
khoản nợ. Chính vì vậy, đặc trƣng pháp lý này tạo ra một số thuận lợi cơ bản
nhƣ:
- Lợi nhuận và khả năng kiểm soát công việc kinh doanh đều thuộc về

chủ hộ, vì quyền lực chỉ tập trung ở một hoặc một số nhỏ chủ sở hữu.
- Toàn bộ tài sản của chủ sở hữu kinh doanh là một bảo đảm cho việc
thanh toán các khoản nợ của hộ, cho nên khi tham gia ký kết hợp đồng hoặc
huy động nguồn vốn từ ngoài xã hội, hộ kinh doanh tạo đƣợc niềm tin về việc
thanh toán các ngh a vụ tài sản đối với khách hàng và chủ nợ.
- Khi vay vốn, chủ hộ kinh doanh có thể dễ dàng tiếp cận các khoản tín
dụng của ngân hàng dễ dàng. Do khi xem xét các điều kiện, ngân hàng có thể
căn cứ vào tài sản của chủ hộ chứ không chỉ căn cứ vào tài sản của hộ kinh
doanh để cho vay vốn.


21

Nhƣng với đặc điểm này, chủ sở hữu chỉ đƣợc thành lập duy nhất một
hộ kinh doanh cho đến khi hộ kinh doanh này chấm dứt sự tồn tại thì chủ sở
hữu mới có quyền thành lập một hộ kinh doanh khác. Bên cạnh đó, Hộ kinh
doanh sẽ không có tƣ cách pháp nhân cũng nhƣ nhƣ không đƣợc phát hành
bất kỳ một loại chứng khoán nào để thu hút vốn đầu tƣ. Nếu các cá nhân
muốn khắc phục vấn đề trên thì phải lựa chọn loại hình Doanh nghiệp, bởi chỉ
có các thành viên của Công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn và thành viên
góp vốn của công ty hợp danh mới có chế độ trách nhiệm hữu hạn về các
khoản nợ và các ngh a vụ tài sản khác trong phạm vi vốn đã cam kết góp vào
doanh nghiệp.
Đặc điểm này của hộ kinh doanh rất giống với loại hình doanh nghiệp
tƣ nhân. Theo quy định của pháp luật thì doanh nghiệp tƣ nhân cũng không có
tƣ cách pháp nhân, chủ doanh nghiệp cũng chịu trách nhiệm vô hạn với các
khoản nợ của doanh nghiệp và họ cũng chỉ đƣợc thành lập duy nhất một
doanh nghiệp tƣ nhân. Điểm khác biệt giữa hộ kinh doanh với doanh nghiệp
tƣ nhân chủ yếu dựa vào quy mô lao động mà pháp luật đã quy định giới hạn
đối với hộ kinh doanh.

1.3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của hộ kinh doanh
Đối với hộ kinh doanh, pháp luật không quy định ràng buộc về cơ cấu
tổ chức quản lý. Vì vậy việc tổ chức, phân chia quyền lực và ngh a vụ của hộ
kinh doanh cho các bộ phận quản lý đều do chính chủ sở hữu quyết định, nhà
nƣớc không can thiệp. Đó là cơ chế tự quản và hộ kinh doanh là một lợi thế
trong l nh vực tổ chức quản lý hoạt động của hộ. Theo đó, Hộ kinh doanh có
cơ cấu tổ chức rất nhỏ và đơn giản, không có Hội đồng thành viên hay Giám
đốc và các phòng, ban, chuyên môn hóa cao về công việc mà chủ yếu chỉ bao
gồm chủ sở hữu trực tiếp quản lý và ngƣời lao động. Ngoài ra, chủ hộ kinh


22

doanh có thể thuê ngƣời làm quản lý phụ trách từng l nh vực kinh doanh của
hộ và phân công từng công việc cụ thể cho ngƣời lao động hoặc tự mình vừa
quản lý vừa là lao động tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, ngƣời chịu trách nhiệm trực tiếp trƣớc pháp luật với các bên thứ ba vẫn
là chủ hộ kinh doanh.
Nhƣ vậy, đối với cơ cấu tổ chức của hộ kinh doanh, chủ sở hữu đƣợc
pháp luật giao cho toàn quyền quyết định. Trong đó, chủ hộ là ngƣời có thẩm
quyền cao nhất. Cụ thể: Đối với hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, chủ
hộ là ngƣời có quyền quyết định tất cả về hoạt động kinh doanh nhƣ đăng ký
tên hộ kinh doanh, địa điểm kinh doanh, kế hoạch kinh doanh, việc sử dụng
lợi nhuận sau khi nộp thuế và thực hiện các ngh a vụ tài chính khác theo quy
định của pháp luật.
Đối với hộ gia đình hoặc một nhóm ngƣời làm chủ sở hữu thì các thành
viên có thể thỏa thuận phân công và đảm nhận từng l nh vực hoạt động kinh
doanh theo khả năng và sở trƣờng của từng cá nhân. Mọi vấn đề chung của hộ
kinh doanh sẽ đƣợc các thành viên bàn bạc và thống nhất dựa trên lợi ích
chung của tất cả các thành viên. Đối với các quan hệ pháp luật, các chủ sở

hữu sẽ lựa chọn một ngƣời làm đại diện để thực hiện các quyền và ngh a vụ
của mình trong hoạt động kinh doanh của hộ. Do hộ kinh doanh hoạt động
trong quy mô rất nhỏ, khép kín nên việc quản trị trong hộ rất dễ dàng và thuận
lợi. Dƣới quyền của chủ sở hữu sẽ là ngƣời lao động đƣợc phân công đảm
nhận các nhiệm vụ cụ thể hoặc có thể chủ sở hữu đảm nhận nhiều công việc
của hộ. Nếu số lƣợng ngƣời lao động trên 10 ngƣời thì hộ kinh doanh phải
chuyển đổi sang đăng ký hoạt động dƣới hình thức doanh nghiệp, Khi đó cơ
cấu quản lý của hộ kinh doanh sẽ phải thay đổi đề phù hợp với loại hình mới.
Bởi vì: xuất phát từ số vốn đầu tƣ lớn và quy mô sản xuất rộng nên đòi hỏi
doanh nghiệp phải có sự chuyên môn hóa cao về phân công công việc. Thông


23

thƣờng, doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu nên sẽ có hội đồng thành viên với
chức năng quyết định các vấn đề quan trọng nhất của doanh nghiệp, nhƣ: bầu
Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, thảo luận và quyết định phƣơng hƣớng,
chiến lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp... Dƣới Hội đồng thành viên là một
cơ cấu tổ chức chặt chẽ, đứng đầu là Tổng giám đốc hay hội đồng quản trị.
Đây là bộ phận điều hành mọi hoạt động và thể chế hóa các chiếc lƣợc của
hội đồng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tiếp đó các công việc
đƣợc phân chia theo ban, ngành, phòng phụ trách từng mảng, l nh vực kinh
doanh cụ thể. Vì có tính chất quản trị tốt, các doanh nghiệp sẽ tạo có đƣợc sự
sáng tạo, khả năng phát triển doanh nghiệp lớn hơn so với hộ kinh doanh.
Nhƣng trong các quyết định kinh doanh đòi hỏi sự tập trung nhất quán cao,
không bị ảnh hƣởng bởi các ý kiến trái chiều thì hộ kinh doanh mới là loại
hình đáp ứng đƣợc yêu cầu này.
Cũng giống nhƣ loại hình doanh nghiệp, hộ kinh doanh đƣợc kinh
doanh trong các l nh vực ngành nghề mà pháp luật không cấm hoặc ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Các

cá nhân là công dân Việt Nam, nhóm ngƣời hoặc hộ gia đình đủ điều kiện mà
pháp luật quy định đều có quyền thành lập hộ kinh doanh và phải có ngh a vụ
đăng ký kinh doanh đối với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Sau khi hoàn
tất các thủ tục, hộ kinh doanh sẽ đi vào hoạt động trong những ngành nghề mà
chủ sở hữu đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh. Nhƣng do phạm vi tổ
chức nhỏ dẫn đến mối quan hệ điều hành giữa chủ sở hữu và ngƣời lao động
chủ yếu thông qua lời nói trực tiếp nên các hoạt động, kế hoạch kinh doanh
đƣợc triển khai nhanh và dễ dàng thay đổi khi gặp các sự cố. Đồng thời, trong
quá trình hoạt động, hộ kinh doanh có thể thay đổi nội dung đăng ký kinh
doanh, tạm ngừng hoạt động kinh doanh và chấm dứt hoạt động kinh doanh


×