Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.17 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN KIỀU OANH

NHỮNG DẤU HIỆU KHÔNG ĐƯỢC BẢO HỘ LÀ NHÃN HIỆU
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN LÊ HỒNG

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các thông tin nêu trong Luận văn
là trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn không sao chép từ bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Kiều Oanh


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ĐƯQT: Điều ước quốc tế
GCNĐKNH: Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
HĐBT: Hội đồng Bộ trưởng
QSHCN: Quyền sở hữu công nghiệp
SHTT: Sở hữu trí tuệ
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài .............................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ............................................ 4
6. Cơ cấu của luận văn ....................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU VÀ NHỮNG DẤU
HIỆU KHÔNG ĐƯỢC BẢO HỘ LÀ NHÃN HIỆU ............................................ 5
1.1 Khái quát về nhãn hiệu ................................................................................ 5
1.1.1 Khái niệm và bản chất của nhãn hiệu .................................................... 5
1.1.2. Các dấu hiệu có khả năng được bảo hộ là nhãn hiệu: .......................... 8
1.2. Khái quát về bảo hộ nhãn hiệu ................................................................. 10
1.2.1. Khái niệm bảo hộ nhãn hiệu ................................................................ 10

1.2.2. Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu ..................................................................... 11
1.3. Khái quát về dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu ......................... 12
1.3.1. Khái niệm dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu ......................... 12
1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc loại trừ khả năng bảo hộ là nhãn hiệu
của các dấu hiệu: ........................................................................................... 15
1.3.3. Phân loại các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu ................... 17
1.4. Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của các
Điều ước quốc tế và pháp luật một số quốc gia, khu vực trên thế giới .......... 20
1.4.1. Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của
Công ước Paris .............................................................................................. 20
1.4.2. Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của
Liên minh Châu Âu ....................................................................................... 22


1.4.3. Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của
Hoa Kỳ ........................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2: NHỮNG DẤU HIỆU KHÔNG ĐƯỢC BẢO HỘ LÀ NHÃN
HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ............................................................ 28
2.1. Dấu hiệu có tính lừa dối người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng của sản
phẩm. ................................................................................................................ 28
2.2 Dấu hiệu liên quan đến quyền tuyệt đối của quốc gia về các loại biểu
tượng nhà nước và quyền sử dụng các biểu trưng của các cơ quan, tổ chức.37
2.2.1. Dấu hiệu liên quan đến quyền tuyệt đối của quốc gia về các loại biểu
tượng nhà nước ............................................................................................. 37
2.2.2. Dấu hiệu liên quan đến quyền sử dụng các biểu trưng của các tổ chức,
cơ quan nhà nước. ......................................................................................... 40
2.3. Dấu hiệu liên quan đến giá trị nhân thân của các cá nhân. ..................... 47
2.4. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng
nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành................................................................... 50
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

LUẬT VIỆT NAM VỀ DẤU HIỆU KHÔNG ĐƯỢC BẢO HỘ LÀ NHÃN
HIỆU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .............................................. 53
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam về dấu hiệu không
được bảo hộ là nhãn hiệu ................................................................................. 53
3.1.1 Một số kết quả đạt được ........................................................................ 53
3.1.2 Một số hạn chế: ........................................................................................ 61
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thẩm định
các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu ................................................ 63
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện:.................................................................. 63
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam và nâng cao hiệu quả
thẩm định các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu ............................ 64
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 71


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, nhãn hiệu không chỉ
là dấu hiệu để phân biệt sản phẩm, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau mà
còn là yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại, làm gia tăng lợi ích cho
các chủ sở hữu cũng như hỗ trợ việc xây dựng uy tín, danh tiếng cho các doanh
nghiệp. Chính vì vậy, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hiện nay không chỉ thu hút sự
quan tâm của các tập đoàn, công ty đa quốc gia mà còn trở thành một trong những
chiến lược quan trọng của nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước. Tuy
nhiên, trong quá trình tiến hành đăng ký, không ít các chủ thể đã đề nghị bảo hộ các
dấu hiệu khiến người tiêu dùng hiểu sai lệch, nhầm lẫn về các đặc tính của hàng
hóa, dịch vụ hoặc các dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ,

quốc huy; tên gọi, biểu tượng của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức
quốc tế; tên và hình ảnh của các nhân vật đặc biệt như lãnh tụ, anh hùng dân tộc,
danh nhân; dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của các tổ chức quốc tế
nhằm lợi dụng uy tín, danh tiếng của các quốc gia, cơ quan, tổ chức đó, tạo tiền đề
cho việc dễ dàng tiếp cận thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi
của các quốc gia trong kiểm soát việc sử dụng các biểu tượng thuộc chủ quyền của
mình, gây lầm tưởng cho người tiêu dùng về mối liên hệ giữa hàng hóa, dịch vụ với
các quốc gia, cơ quan, tổ chức hay lừa dối người tiêu dùng về các đặc tính của hàng
hóa, dịch vụ, xâm phạm đến lợi ích kinh tế, lợi ích tinh thần cũng như tính mạng,
sức khỏe của cộng đồng. Do đó, trong những năm qua, Việt Nam đã không ngừng
xây dựng, củng cố và hoàn thiện cơ chế, hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nói
chung cũng như quy định về dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu nói riêng
nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thẩm định, đánh giá đơn đăng ký nhãn hiệu, bảo
đảm quyền lợi cho các chủ thể liên quan, hạn chế các tranh chấp trong quá trình sử
dụng nhãn hiệu cũng như góp phần xây dựng một hệ thống bảo hộ hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, thực tiễn thẩm định các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu đã cho
thấy một số điểm thiếu sót, chưa rõ ràng, thống nhất trong các quy định của pháp


2

luật Việt Nam hiện hành về vấn đề này dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong
việc đánh giá, kết luận, gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như thu hút
đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, theo dự báo của một số chuyên gia, số lượng đơn
đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam sẽ có xu hướng gia tăng và những khiếu nại liên
quan đến việc thẩm định các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu cũng có khả
năng tăng cao bởi nhu cầu sử dụng nhãn hiệu ngày càng lớn trong khi khả năng
sáng tạo cũng như nhận thức về pháp luật sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp còn
hạn chế.
Hơn nữa, trên thực tế, việc thẩm định các dấu hiệu không được bảo hộ nhãn

hiệu là một trong những vấn đề khá nhạy cảm, thu hút sự quan tâm của các nhà
quản lý, nhà nghiên cứu cũng như gây ra nhiều tranh cãi, ý kiến trái chiều trong dư
luận, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích quốc
gia, vùng miền.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Những dấu hiệu không được bảo hộ
là nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” là cần thiết nhằm đưa ra cái nhìn khách quan, toàn diện về
vấn đề này dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, chỉ ra những hạn chế
trong quá trình áp dụng pháp luật, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc thẩm định các dấu
hiệu này trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, các vấn đề về đăng ký, xác lập quyền đối với nhãn
hiệu, bảo hộ, thực thi QSHCN đối với nhãn hiệu đã được đề cập trong nhiều công
trình nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án, tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu
chuyên sâu về các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu vẫn còn là vấn đề khá
mới mẻ. Qua tìm hiểu của tác giả, tại Việt Nam, dấu hiệu không được bảo hộ là
nhãn hiệu mới chỉ được đề cập một cách khái quát trong Luận văn thạc sĩ “So sánh
pháp luật và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam với các điều ước quốc tế và
pháp luật một số nước công nghiệp phát triển” của tác giả Vũ Thị Phương Lan năm
2002; Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá theo quy định của Việt


3

Nam và cộng hoà Pháp” của tác giả Đặng Thị Thu Huyền năm 2004 và mới đây
nhất là Khóa luận tốt nghiệp “Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo
quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam” của tác giả Dương Thị Thanh Hà
năm 2012 và Luận văn thạc sĩ “Hủy bỏ hiệu lực GCNĐKNH – Thực trạng và giải
pháp” của tác giả Phạm Minh Huyền năm 2013. Tuy nhiên, các công trình nghiên

cứu này mới chủ yếu tiếp cận các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu khái
quát dưới góc độ lý thuyết hoặc trong tương quan so sánh với quy định của các
quốc gia khác, trong khi đó, theo tác giả được biết, hiện vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này dưới góc độ lý thuyết kết hợp với thực tiễn
nhằm chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định
của pháp luật, nâng cao hiệu quả thẩm định đơn đăng ký dấu hiệu này tại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến nhãn
hiệu và bảo hộ nhãn hiệu, xây dựng và phân tích khái niệm, đặc điểm cũng như
những yếu tố tác động đến việc quy định các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn
hiệu, nghiên cứu quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về các dấu hiệu này,
phân tích một số vụ việc về thẩm định dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu
diễn ra trong những năm gần đây để chỉ ra một số bất cập, thiếu sót trong quy định
của pháp luật, từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
thẩm định, đánh giá các dấu hiệu trên thực tế.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế về hội
nhập quốc tế.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử dụng các phương
pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp tổng hợp, phân
tích, so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với quy định và hướng dẫn của
các tổ chức quốc tế chuyên về sở hữu trí tuệ cũng như pháp luật các quốc gia phát
triển để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp


4

phân tích một số vụ việc trên thực tế để đánh giá khái quát, đề ra những giải pháp

hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thẩm định các dấu hiệu không được bảo
hộ là nhãn hiệu.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là để tổng hợp, khái quát các quy định
của các Điều ước quốc tế và một số quốc gia phát triển về dấu hiệu không được bảo
hộ là nhãn hiệu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề
này cũng như tìm hiểu thực tiễn áp dụng để từ đó chỉ ra những bất cập, vướng mắc
và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu trên thực tế.
Với đề tài này, tác giả mong muốn tổng hợp quá trình hình thành, cơ sở, nội
dung các quy định của pháp luật, phạm vi áp dụng, các giới hạn cũng như phương
pháp đánh giá các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu, phân tích một số vụ
việc cụ thể trong thực tế để qua đó góp phần nâng cao nhận thức và tạo điều kiện để
các tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn và xây dựng cho mình những dấu hiệu không
thuộc trường hợp bị loại trừ cũng như có căn cứ phản bác lại các yêu cầu của bên
thứ ba khiếu nại về GCNĐKNH của mình.
6. Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm
vi nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về bảo hộ nhãn hiệu và những dấu hiệu không được
bảo hộ là nhãn hiệu.
- Chương 2: Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo pháp luật
Việt Nam.
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật Việt Nam về dấu
hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu và một số giải pháp hoàn thiện.


5

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU VÀ NHỮNG DẤU HIỆU
KHÔNG ĐƯỢC BẢO HỘ LÀ NHÃN HIỆU

1.1 Khái quát về nhãn hiệu
1.1.1 Khái niệm và bản chất của nhãn hiệu
1.1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu
Kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học đã xác định được những nhãn
hiệu đầu tiên trên thế giới ra đời từ thời kỳ cổ đại, khi những người thợ hoặc công
trường thủ công sử dụng dấu hiệu riêng trên đồ gốm, đồ trang sức, vũ khí… để phân
biệt sản phẩm của mình với sản phẩm của người khác trong quá trình thực hiện việc
trao đổi, buôn bán các sản phẩm đó1. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền sản
xuất công nghiệp và giao lưu thương mại toàn cầu, nhãn hiệu không chỉ giúp người
tiêu dùng dễ dàng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể sản xuất, kinh doanh
khác nhau mà dần trở thành biểu tượng cho hình ảnh và danh tiếng của doanh
nghiệp, là yếu tố quyết định tính cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
cũng như là một tài sản kinh doanh có giá trị đặc biệt. Xuất phát từ vai trò đó, việc
xác lập và bảo hộ nhãn hiệu đã được ghi nhận và điều chỉnh trong các điều ước
quốc tế cũng như pháp luật của nhiều quốc gia.
Các điều ước quốc tế như Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công
nghiệp, Thỏa ước Madrid năm 1891 về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa… về cơ
bản đã điều chỉnh khá đầy đủ các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu như quy định các
nguyên tắc, thiết lập cơ chế đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu trên phạm vi quốc tế nhưng
chưa đưa ra một khái niệm về nhãn hiệu. Khái niệm và đặc điểm của nhãn hiệu
được quy định một cách thống nhất và mang tính quy chuẩn tại Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs). Cụ
thể, Khoản 1 Điều 15b Hiệp định TRIPs có quy định: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ
hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh
1

/>


6

nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể là nhãn
hiệu …”.
Như vậy, theo Hiệp định TRIPs, việc xác định một dấu hiệu bất kỳ có thể
đăng ký làm nhãn hiệu hay không sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng và tính phân biệt
của các dấu hiệu đó. Đây cũng là cách tiếp cận khá phổ biến của nhiều quốc gia khi
đưa ra khái niệm nhãn hiệu trong pháp luật của mình, hình thành cách hiểu chung
tương đối thống nhất về nhãn hiệu.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Luật SHTT) năm 2005 đã đưa ra khái niệm
nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của các tổ chức, cá nhân khác nhau”2. Đây là một khái niệm mang tính khái quát,
phù hợp với thực tiễn cũng như quy định của các ĐƯQT, cụ thể là:
+ Thứ nhất, khái niệm sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” thay cho “nhãn hiệu
hàng hóa” dùng để chỉ những dấu hiệu phân biệt hàng hóa, dịch vụ. Điều này khiến
việc sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” chính xác hơn cũng như tạo nên sự thống nhất,
phù hợp với các thuật ngữ được sử dụng cho các loại nhãn hiệu như “nhãn hiệu tập
thể”, “nhãn hiệu liên kết”, “nhãn hiệu chứng nhận” và “nhãn hiệu nổi tiếng”.
+ Thứ hai, khái niệm xác định chức năng của nhãn hiệu là để phân biệt hàng
hóa, dịch vụ (có thể cùng loại hoặc khác loại) của các tổ chức, cá nhân khác nhau;
+ Thứ ba, khái niệm không đưa ra giới hạn hay liệt kê những yếu tố được
đăng ký là nhãn hiệu.
Như vậy, các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau được coi là nhãn hiệu. Tuy nhiên, để được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép đăng ký và bảo hộ là nhãn hiệu, các dấu hiệu phải
đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định như “là dấu hiệu nhìn thấy được dưới
dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các
yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; Có khả năng phân biệt hàng
hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác”3.


2
3

Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT 2005
Điều 72, Luật SHTT


7

1.1.1.2. Bản chất của nhãn hiệu
Xét về bản chất, nhãn hiệu là một chỉ dẫn thương mại – yếu tố gắn liền với
các sản phẩm, dịch vụ trong thương mại giúp người tiêu dùng có thể phân biệt được
hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, cung cấp bởi các nhà sản xuất, kinh doanh hoặc
cung ứng khác nhau, hay nói cách khác, nhãn hiệu là biểu tượng xác định tính cá
biệt của hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Sở dĩ nhãn
hiệu có bản chất như vậy là bởi sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp
hóa đã cho phép các nhà sản xuất, nhà cung cấp cạnh tranh với nhau để chào bán ra
thị trường các sản phẩm, dịch vụ cùng loại cho cùng một đối tượng người tiêu dùng.
Do đó, người tiêu dùng có thể lựa chọn trong số các sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh
đó và cần phải phân biệt để nhận diện được đúng hàng hóa, dịch vụ mà họ thấy hài
lòng khi sử dụng hoặc đang muốn tìm kiếm. Khi đó, các dấu hiệu hay nhãn hiệu mà
các cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên sản phẩm hay các phương tiện kinh doanh
chính là nhân tố chủ yếu để người tiêu dùng nhận biết hàng hóa, dịch vụ của các cơ
sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Chính vì vậy, nhãn hiệu phải có khả năng phân
biệt, không gây nhầm lẫn, hiểu lầm cho người tiêu dùng. Khả năng phân biệt của
nhãn hiệu sẽ được xem xét, đánh giá trong mối quan hệ với hàng hóa, dịch vụ mang
nhãn hiệu cũng như với những dấu hiệu, nhãn hiệu đã tồn tại và được biết đến trước
đó. Bản chất này của nhãn hiệu khiến cho nhãn hiệu khác biệt với những đối tượng
sở hữu công nghiệp phải đáp ứng điều kiện nhất định về tính sáng tạo như sáng chế,

kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn – kết quả của quá trình
đầu tư nghiên cứu sáng tạo nhằm mang lại những hiệu quả thiết thực trong hoạt
động sản xuất. Trong khi đó, khía cạnh sáng tạo trí tuệ trong nhãn hiệu có thể có
nhưng không phải là yêu cầu có tính chất bắt buộc. Một nhãn hiệu tốt là một dấu
hiệu dễ ghi nhớ và có khả năng phân biệt để người tiêu dùng không gặp khó khăn
trong việc ghi nhớ nhãn hiệu cũng như thuận tiện trong việc lựa chọn sản phẩm,
dịch vụ. Xuất phát từ bản chất này của nhãn hiệu, quy định về điều kiện bảo hộ, sử
dụng, khai thác nhãn hiệu cũng như thực thi, bảo hộ nhãn hiệu phải được xây dựng
trên cơ sở đánh giá về khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng trong quá trình
lựa chọn và sử dụng hàng hóa, dịch vụ.


8

1.1.2. Các dấu hiệu có khả năng được bảo hộ là nhãn hiệu:
Xuất phát từ khái niệm bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có
khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một chủ thể với hàng hóa hoặc dịch
vụ của các chủ thể khác đều có thể là nhãn hiệu, về nguyên tắc, luật nhãn hiệu
không nên quy định một danh sách giới hạn những dấu hiệu có khả năng được bảo
hộ là nhãn hiệu. Các quốc gia có thể liệt kê một số dấu hiệu có thể được bảo hộ là
nhãn hiệu trong pháp luật của mình như những ví dụ minh họa thực tế, không phải
là một danh sách giới hạn xác định. Trong trường hợp có bất kỳ sự giới hạn nào,
việc xác định giới hạn đó chỉ có thể xuất phát từ những hạn chế trong thực tiễn như
gây khó khăn trong quá trình đăng ký, công bố, quản lý cũng như thực thi quyền đối
với nhãn hiệu đã được đăng ký4. Theo đó, trong trường hợp đáp ứng yêu cầu về khả
năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau, các dấu hiệu
sau đây có thể được bảo hộ là nhãn hiệu:
- Dấu hiệu là từ ngữ: Đây là những dấu hiệu khá phổ biến thường được
sử dụng làm nhãn hiệu trong thực tiễn bảo hộ. Dấu hiệu từ ngữ được dùng làm nhãn
hiệu có thể bao gồm tên công ty, tên họ, tên địa danh hoặc bất kỳ cụm từ nào, có thể

là những từ tự tạo hoặc không và khẩu hiệu.
Trên thực tế, nhãn hiệu có thể được cấu thành bởi các dấu hiệu từ ngữ như
sau: Thứ nhất là từ tự tạo – từ được kết hợp từ các ký tự thành một từ mới phát âm
được và không có trong từ điển, ví dụ như KODAK, SONY, NOKIA. Mặc dù đều
là những từ ngữ không có nghĩa nhưng chúng lại được đánh giá là có tính phân biệt
cao nên đáp ứng được yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu. Thứ hai là từ thông dụng – từ hiện
dùng và thực sự có ý nghĩa trong một ngôn ngữ nào đó, ví dụ như Đồng Tâm, Rạng
Đông. Thứ ba là từ ghép – từ được tạo thành bởi hai từ đơn lẻ trở lên, ví dụ như
Thinkpad, PizzaHut. Thứ tư là từ viết tắt – từ được tạo thành từ các chữ cái đầu tiên
của tên công ty, từ viết tắt có thể phát âm được và mang một thông điệp nào đó như:
LG, IBM, AIA.

4

Intellectual Property Reading Material, WIPO (1995), page 194


9

- Dấu hiệu là chữ cái, chữ số: Dấu hiệu có thể là một hoặc một vài chữ cái,
chữ số hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó, trong đó chữ cái được hiểu là dấu hiệu
dùng để ghi âm vị trong chữ viết ghi âm còn chữ số là ký hiệu cơ bản dùng để viết
các số. Thông thường, chữ cái hay chữ viết có thể được bảo hộ là nhãn hiệu nếu
được thể hiện dưới dạng đồ họa, hình vẽ hoặc dưới dạng kết hợp các chữ, các số và
kết hợp chữ với số, có thể được trình bày dưới dạng viết lồng vào nhau5.
- Hình: Dấu hiệu có thể là hình vẽ, biểu tượng, hình ảnh hai chiều hoặc ba
chiều của hàng hóa hoặc bao bì hàng hóa.
- Dấu hiệu kết hợp cả dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình được thể hiện bằng một
hoặc nhiều màu sắc: Dấu hiệu này là sự kết hợp của hai hay nhiều dấu hiệu, kết hợp
giữa dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình, theo đó pháp luật bảo hộ cho đồng thời cả hai

dấu hiệu. Trên thực tế, sự kết hợp giữa dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình tạo thành một
tổng thể dễ nhận biết, có khả năng phân biệt nên có thể đáp ứng yêu cầu đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu. Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận và
bảo hộ dấu hiệu kết hợp làm nhãn hiệu.
- Dấu hiệu âm thanh: Hiện nay nhiều nhà sản xuất, nhà cung cấp đã sử dụng
những âm thanh vui nhộn nhằm thu hút sự chú ý của người tiêu dùng và tạo ấn
tượng để người tiêu dùng nhận biết được về hàng hóa, dịch vụ ngay cả khi họ chưa
nhìn thấy hàng hóa. Có hai loại dấu hiệu âm thanh thường được sử dụng đó là
những âm thanh ghi lại dưới dạng các nốt nhạc hoặc tiết tấu nhạc ngắn do con
người sáng tác (ví dụ như âm thanh của chương trình Windows) hoặc các âm thanh
trong tự nhiên (như tiếng rì rào của biển cả).
- Dấu hiệu mùi vị: Mùi vị cũng có thể là yếu tố hấp dẫn người tiêu dùng và
khiến cho họ có thể nhận biết hàng hóa qua mùi vị. Hiện nay trên thế giới đã có một
số doanh nghiệp đăng ký dấu hiệu mùi vị làm nhãn hiệu để giúp người tiêu dùng,
đặc biệt là người khiếm thị có thể nhận biết được sản phẩm thông qua mùi vị đặc
trưng (ví dụ như mùi hoa Plumeria đăng ký cho sản phẩm sợi thêu).

5

Intellectual Property Reading Material, WIPO (1995), page 15


10

- Dấu hiệu nhận biết bằng xúc giác: (như dấu hiệu bề mặt chai đăng ký cho
sản phẩm nước khoáng) được gắn lên hàng hóa giúp người khiếm thị lựa chọn được
hàng hóa mà họ có nhu cầu.
1.2. Khái quát về bảo hộ nhãn hiệu
1.2.1. Khái niệm bảo hộ nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một đối tượng sở hữu công nghiệp và bảo hộ nhãn hiệu là một

khía cạnh của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Bảo hộ nhãn hiệu có thể được tiếp
cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết, về thuật ngữ “bảo hộ QSHCN”, chú thích 3 của Hiệp định TRIPs
có nêu: “bảo hộ phải bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc
đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi QSHCN, cũng như các vấn
đề ảnh hưởng đến việc sử dụng các QSHCN được quy định rõ trong Hiệp định”.
Theo tác giả Lê Xuân Thảo, “bảo hộ QSHCN” có thể được hiểu là “việc Nhà nước,
thông qua hệ thống pháp luật xác lập quyền của các chủ thể đối với các đối tượng
của SHCN tương ứng và bảo vệ các quyền đó chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của
bên thứ ba”.
Bên cạnh đó, xem xét với tư cách là một phạm trù pháp lý, bảo hộ nhãn hiệu
được tiếp cận từ góc độ khách quan và chủ quan:
Dưới khía cạnh khách quan, bảo hộ nhãn hiệu là hệ thống các quy định pháp
luật do nhà nước ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập, công nhận, thực hiện
quyền đối với nhãn hiệu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền
chống lại các hành vi xâm phạm. Pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu bao gồm tổng hợp các
quy định về điều kiện bảo hộ, thủ tục xác lập quyền, công nhận quyền đối với nhãn
hiệu và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu chống lại các hành vi xâm phạm.
Dưới góc độ chủ quan, bảo hộ nhãn hiệu là các hoạt động thực tế liên quan đến
việc xác lập, công nhận quyền đối với nhãn hiệu và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu
chống lại các hành vi xâm phạm.
Như vậy, bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu có thể được hiểu bao gồm hoạt động
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ thể quyền và các bên liên quan về:
- Hoạt động xác lập, đăng ký quyền đối với nhãn hiệu;


11

- Hoạt động khai thác và sử dụng nhãn hiệu;
- Hoạt động bảo vệ nhãn hiệu chống lại các hành vi xâm phạm.

Việc bảo hộ nhãn hiệu sẽ góp phần khẳng định vị thế của doanh nghiệp đối
với người tiêu dùng, tạo ra sự phát triển bình đẳng, lành mạnh trên thị trường,
khuyến khích hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra chiếm lĩnh các thị
trường nước ngoài, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng như bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng tránh bị nhầm lẫn, lừa dối trong quá trình lựa chọn
hàng hoá, dịch vụ.
1.2.2. Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu
Theo từ điển Tiếng Việt6, “cơ chế” là “cách thức theo đó một quá trình
được thực hiện”. Kết hợp với khái niệm “bảo hộ nhãn hiệu” như trên đã phân tích,
ta có thể hiểu cơ chế bảo hộ nhãn hiệu là cách thức xác lập quyền đối với nhãn hiệu,
quản lý, sử dụng nhãn hiệu cũng như bảo vệ nhãn hiệu chống lại các hành vi xâm
phạm.
Theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu về cơ bản được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ) thông qua thủ tục đăng ký.
Ngoài ra, đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế (nhãn hiệu của các chủ thể nước ngoài
đăng ký bảo hộ tại Việt Nam nhưng không tiến hành nộp đơn trực tiếp cho cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam mà nộp đơn thông qua Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
theo quy định của Thỏa ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế
nhãn hiệu) thì quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở
quyết định chấp nhận bảo hộ hoặc giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được
bảo hộ tại Việt Nam do Cục Sở hữu trí tuệ cấp theo yêu cầu của chủ nhãn hiệu. Đối
với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được
xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi khiến cho nhãn hiệu đó trở thành nổi
tiếng.
6

Nhà xuất bản Đà Nẵng, (1997), Từ điển Tiếng Việt, trang 207.



12

Khi nhãn hiệu đã được đăng ký, pháp luật trao cho chủ sở hữu nhãn hiệu độc
quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu cũng như định đoạt nhãn hiệu.
Theo đó, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử
dụng nhãn hiệu như “gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá,
phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động
kinh doanh; lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá
mang nhãn hiệu được bảo hộ; nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được
bảo hộ7. Ngoài ra, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền áp dụng biện pháp công nghệ
nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm; nếu phát hiện các hành vi xâm phạm nhãn hiệu
thì họ có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ theo quy định của pháp luật hoặc khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
1.3. Khái quát về dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu
1.3.1. Khái niệm dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu
Trong thực tiễn, có những dấu hiệu qua quá trình thẩm định bị từ chối bảo hộ
do không đáp ứng các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật như không có
khả năng phân biệt. Tuy nhiên, các dấu hiệu đó vẫn có thể được cấp GCNĐKNH
nếu có căn cứ chứng minh dấu hiệu đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi dưới
danh nghĩa một nhãn hiệu hay việc sử dụng dấu hiệu không có khả năng gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, cũng có
những dấu hiệu bị từ chối bảo hộ một cách tuyệt đối, trong mọi trường hợp bởi dấu
hiệu đó có liên quan đến chủ quyền tuyệt đối của quốc gia, có tính chất lừa dối
người tiêu dùng hay xâm phạm những giá trị nhân thân của những nhân vật đặc biệt
hoặc lợi dụng uy tín, danh tiếng của các tổ chức, cơ quan nhà nước… Các dấu hiệu

này được xác định là những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu. Qua khảo sát
7

Khoản 5, Điều 124 Luật SHTT


13

và nghiên cứu các công trình liên quan đến nhãn hiệu, tác giả nhận thấy cho đến
thời điểm hiện nay, nhiều quốc gia đã có quy định về những dấu hiệu không được
bảo hộ là nhãn hiệu, tuy nhiên, khái niệm dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu
chưa được quy định trong pháp luật cũng như chưa được đề cập trong các tài liệu
khoa học nghiên cứu về nhãn hiệu. Trên cơ sở nghiên cứu bản chất và thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này, về mặt khoa học, ta có thể hiểu dấu
hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo hướng như sau:
Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu không phải là những
dấu hiệu không có khả năng phân biệt, mà là những dấu hiệu mà pháp luật quy
định sẽ bị loại trừ một cách tuyệt đối trong quá trình thẩm định đơn đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu để đảm bảo lợi ích cộng đồng, an ninh, chủ quyền quốc gia, uy tín, danh
tiếng của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước cũng như những chuẩn mực đạo
đức chung của xã hội.
Có thể thấy, khái niệm trên đây đã khái quát được những nét đặc trưng cơ bản
của dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu. Cụ thể:
Thứ nhất: Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu là những dấu
hiệu mà pháp luật quy định sẽ bị loại trừ một cách tuyệt đối trong quá trình thẩm
định đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Tính tuyệt đối được thể hiện ở việc dấu hiệu đề
nghị đăng ký thuộc trường hợp dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu sẽ bị từ
chối đối với tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ khi đánh giá, thẩm định bản thân dấu
hiệu đó với các dấu hiệu được bảo vệ trên cơ sở lợi ích cộng đồng, an ninh, chủ
quyền quốc gia, uy tín, danh tiếng của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước cũng

như những chuẩn mực đạo đức chung, không phụ thuộc vào mối tương quan với các
dấu hiệu và hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ của các chủ thể sản xuất, kinh
doanh khác. Theo đó, việc thẩm định các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu
chủ yếu nhằm xác định dấu hiệu đề nghị đăng ký có trùng hoặc tương tự gây nhầm
lẫn với các dấu hiệu được bảo hộ trên cơ sở lợi ích cộng đồng hay không, ngay cả
khi bản thân dấu hiệu đó được coi là có khả năng phân biệt hoặc đạt được khả năng
phân biệt qua quá trình sử dụng. Về cơ bản, phạm vi từ chối bảo hộ đối với các dấu
hiệu này là tất cả hàng hóa, dịch vụ thuộc bất kỳ nhóm nào. Do đó, việc so sánh, đối


14

chiếu sản phẩm, dịch vụ được đề nghị đăng ký kèm theo dấu hiệu với các sản phẩm,
dịch vụ được gắn dấu hiệu của các chủ thể kinh doanh tương ứng khác là không cần
thiết. Bên cạnh đó, việc chứng minh dấu hiệu đạt được khả năng phân biệt cao hay
không tồn tại khả năng khiến người tiêu dùng liên tưởng đến mối liên hệ giữa các
chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu với quốc gia, cơ
quan nhà nước, tổ chức không được coi là căn cứ để bảo vệ dấu hiệu đề nghị đăng
ký khỏi việc bị từ chối bảo hộ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra,
việc áp dụng các quy định về dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu, về nguyên
tắc, không có sự giới hạn hay ngoại lệ nào.
Thứ hai: Yếu tố quyết định dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu xuất phát
từ mục đích nhằm đảm bảo lợi ích cộng đồng, an ninh, chủ quyền quốc gia, uy tín,
danh tiếng của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước cũng như những chuẩn mực
đạo đức xã hội. Đây được xem là những yếu tố mang tính chất chính trị, đạo đức,
liên quan đến những lợi ích công cộng mà nhà nước cần bảo vệ để đảm bảo sự phát
triển một cách cân bằng, giữ gìn sự ổn định của các hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa của mỗi quốc gia cũng như tạo tiền đề cho những quan hệ thương mại với các
quốc gia, tổ chức quốc tế khác trên thế giới. Do vậy, việc áp dụng các quy định liên
quan đến việc từ chối các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu thường phải

được tiến hành một cách chặt chẽ, logic và khách quan. Trong khi đó, khả năng
phân biệt của dấu hiệu là yếu tố quyết định dấu hiệu có đáp ứng điều kiện bảo hộ
theo quy định của pháp luật hay không. Điều này xuất phát từ bản chất của nhãn
hiệu là một chỉ dẫn thương mại giúp người tiêu dùng có thể phân biệt được hàng
hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Khả năng phân biệt được xem xét
ở đây chính là khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu với hàng hóa,
dịch vụ của các chủ thể khác. Như vậy, bên cạnh việc bảo vệ người tiêu dùng không
bị nhầm lẫn khi lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, căn cứ chủ yếu để từ chối bảo hộ đối
với dấu hiệu đề nghị đăng ký do thiếu khả năng phân biệt là nhằm bảo hộ quyền lợi
hợp pháp của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, tạo nên một môi trường cạnh tranh
lành mạnh cũng như thúc đẩy các chủ thể sản xuất, kinh doanh tích cực sáng tạo,
nâng cao năng lực để nắm giữ những lợi thế trong kinh doanh. Đây được xem là


15

những yếu tố mang tính chất thương mại, bảo vệ lợi ích tư của các chủ thể sản xuất,
kinh doanh và do vậy, việc áp dụng pháp luật có thể được tiến hành linh hoạt, mềm
dẻo hơn.
1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc loại trừ khả năng bảo hộ là nhãn hiệu của
các dấu hiệu:
Trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn xây dựng, ban hành quy phạm pháp luật về sở
hữu trí tuệ, tác giả nhận thấy các yếu tố ảnh hưởng đến việc quy định các dấu hiệu
không được bảo hộ là nhãn hiệu có thể bao gồm:
- Thứ nhất là nhu cầu bảo vệ hình ảnh, uy tín và chủ quyền quốc gia: các
dấu hiệu như quốc kỳ, quốc huy là những biểu tượng của một quốc gia, là hình ảnh
đặc trưng của quốc gia đó. Thông thường, mỗi một quốc gia, vùng lãnh thổ đều có
quốc kỳ, quốc huy riêng để phân biệt với quốc gia, vùng lãnh thổ khác và đó được
coi là dấu hiệu mang tính quy ước rộng rãi, là yếu tố thuộc chủ quyền thiêng liêng
của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. Chính bởi điều này mà trên thực tế, các dấu hiệu

như quốc kỳ, quốc huy thường chỉ được sử dụng trên các ấn phẩm quốc gia như tiền
tệ, hộ chiếu và rõ ràng việc bảo hộ độc quyền những dấu hiệu này cho một cá nhân
hay tổ chức là điều không hợp lý, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của quốc gia đó
trong việc kiểm soát việc sử dụng các biểu tượng thuộc chủ quyền của mình. Hơn
thế nữa, xuất phát từ bản chất của những dấu hiệu như quốc kỳ, quốc huy là những
hình ảnh mang tính biểu trưng cho một quốc gia, vùng lãnh thổ do đó, việc sử dụng
hình ảnh quốc kỳ, quốc huy trên các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có thể gợi lên
những liên tưởng rằng, hàng hóa, dịch vụ mang hình ảnh quốc kỳ, quốc huy có thể
xuất phát hoặc có liên quan đến quốc gia, vùng lãnh thổ có quốc kỳ, quốc huy đó và
điều này có thể khiến người tiêu dùng nhầm lẫn. Chính bởi yếu tố đó, pháp luật của
các quốc gia đã ban hành những quy định nhằm loại trừ các dấu hiệu không được
bảo hộ là nhãn hiệu trên cơ sở bảo vệ, giữ gìn hình ảnh, uy tín cũng như chủ quyền
của quốc gia.
- Thứ hai là sự tôn trọng, bảo vệ uy tín của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cũng như các tổ chức quốc tế. Đây cũng là yếu tố tác động đến
việc quy định các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu trong pháp luật của mỗi


16

quốc gia bởi lẽ cũng giống như việc mỗi một quốc gia, vùng lãnh thổ có tên gọi,
hình ảnh biểu trưng riêng, mỗi một cơ quan nhà nước, tổ chức trong nước cũng như
quốc tế cũng đều có những biểu tượng, cờ, huy hiệu chính thức, tên viết tắt, tên đầy
đủ hoặc dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành riêng và đây cũng được coi là
biểu trưng, là tài sản của các cơ quan, tổ chức đó và cần phải được tôn trọng. Do đó,
việc bảo hộ độc quyền các dấu hiệu này cho một cá nhân, tổ chức khác mà không có
sự đồng ý của cơ quan, tổ chức là chủ sở hữu các dấu hiệu đó là bất hợp lý, đồng
thời, cũng chính xuất phát từ tính biểu trưng của các dấu hiệu này nên việc sử dụng
chúng trên các hàng hóa, dịch vụ được đưa ra thị trường bởi một chủ thể khác có thể
gây lầm tưởng cho người tiêu dùng rằng hàng hóa, dịch vụ mang những dấu hiệu

này được các cơ quan, tổ chức đảm bảo chất lượng hoặc có liên quan đến cơ quan,
tổ chức đó. Do đó, có thể thấy sự tôn trọng, bảo vệ uy tín, danh tiếng của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế sẽ có ảnh hưởng đến
việc ban hành các quy định loại trừ khả năng bảo hộ nhãn hiệu của các dấu hiệu.
- Thứ ba là quan niệm về chính trị, chuẩn mực đạo đức, truyền thống và
những giá trị tinh thần của dân tộc: xuất phát từ quan điểm của tầng lớp lãnh đạo xã
hội trong từng thời kỳ, những tư tưởng chính trị, chuẩn mực đạo đức và giá trị tinh
thần của dân tộc, pháp luật của hầu hết các quốc gia không cho phép bảo hộ những
dấu hiệu trái với chuẩn mực đạo đức đã được thừa nhận của cộng đồng, làm phương
hại đến văn hóa của quốc gia, phát sinh những mâu thuẫn, xung đột sâu sắc liên
quan đến phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo hay cổ động các hành vi phạm tội,
kích động thù hằn, bạo lực, tuyên truyền chống chế độ. Cùng với sự phát triển của
văn hóa, xã hội, những thay đổi trong chuẩn mực văn hóa và giá trị tinh thần của
dân tộc có thể dẫn tới việc nhìn nhận, đánh giá thay đổi theo thời gian. Ngoài ra, các
yếu tố trên cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc đánh giá, xác định những lãnh tụ,
anh hùng dân tộc và danh nhân của mỗi quốc gia và do đó cũng tác động đến việc
quy định cũng như thực tiễn xét nghiệm các dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm
lẫn với tên gọi, bút danh, biệt hiệu của những cá nhân nêu trên. Như vậy, quan niệm
về chính trị, chuẩn mực đạo đức, truyền thống và những giá trị tinh thần của dân tộc


17

cũng là những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến việc loại trừ khả năng bảo hộ các dấu
hiệu làm nhãn hiệu.
- Thứ tư là trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích công cộng,
quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng: Đối với bất kỳ một quốc gia theo thể chế
chính trị, chế độ xã hội nào thì một trong những vấn đề cần quan tâm giải quyết đầu
tiên và liên tục đó chính là vấn đề bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích cộng đồng bởi
chính cộng đồng là nhân tố quan trọng nhất tạo nên sức mạnh của quốc gia đó.

Trong thời đại nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ như giai
đoạn hiện nay, một trong những biện pháp bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích cộng
đồng thiết thực và hiệu quả nhất đó chính là quan tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng
của người tiêu dùng. Nhà nước phải đảm bảo người tiêu dùng có quyền được thông
tin một cách chính xác để có thể lựa chọn đúng những hàng hóa, dịch vụ với tính
năng, công năng, chất lượng, xuất xứ phù hợp với nhu cầu và dự định của họ, tránh
tình trạng bị nhà sản xuất, kinh doanh lừa dối, gây ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế, lợi
ích tinh thần hay thậm chí là tính mạng, sức khỏe của họ. Xuất phát từ nhu cầu trách
nhiệm này, nhà nước đã đặt ra những quy định không bảo hộ những dấu hiệu làm
hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc
xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng
hoá, dịch vụ.
1.3.3. Phân loại các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu
Căn cứ vào nội dung, tính chất của các dấu hiệu không được bảo hộ có thể đưa
ra cách phân loại dựa theo một số tiêu chí như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào các yếu tố quyết định việc loại trừ bảo hộ các dấu hiệu,
các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu có thể được phân loại thành bốn
nhóm:
- Nhóm thứ nhất: các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu nhằm bảo đảm
lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ quyền chủ quyền, hình ảnh, uy tín, của mỗi quốc
gia. Theo đó, dấu hiệu thuộc nhóm này bao gồm các dấu hiệu trùng hoặc tương tự
đến mức gây nhầm lẫn với quốc kỳ, quốc huy, biểu tượng quốc gia.


18

- Nhóm thứ hai: các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu nhằm bảo đảm
lợi ích của các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong nước và quốc tế. Nhóm này bao
gồm các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ,
huy hiệu chính thức, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp trong nước và tổ chức quốc tế hoặc dấu chứng nhận, dấu
kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế.
- Nhóm thứ ba: các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu nhằm bảo đảm
những giá trị truyền thống và tinh thần của dân tộc. Nhóm này bao gồm các dấu
hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh,
hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân trong nước cũng như nước ngoài.
Lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân là những cá nhân kiệt xuất, có công lao lớn
đối với một quốc gia, dân tộc trong những thời kỳ lịch sử nhất định, là niềm tự hào,
niềm cổ vũ, động viên tinh thần to lớn đối với nhân dân. Do đó, tên, hình ảnh của
họ cũng chính là những nhân tố tạo nên giá trị truyền thống lịch sử, giá trị tinh thần
lớn lao.
- Nhóm thứ tư: các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu nhằm bảo đảm
quyền lợi người tiêu dùng, bao gồm những dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn
hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công
dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ.
Thứ hai, căn cứ vào phạm vi giới hạn của việc loại trừ các dấu hiệu không
được bảo hộ là nhãn hiệu, có thể phân chia các dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn
hiệu thành hai nhóm, bao gồm:
- Nhóm thứ nhất: nhóm các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn
hiệu trong mọi trường hợp. Nhóm này bao gồm;
+ dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc
huy của các nước. Xuất phát từ đặc trưng cơ bản của các dấu hiệu này là liên quan
đến chủ quyền quốc gia, mang tính quy ước rộng rãi, đại diện cho cả quốc gia, vùng
lãnh thổ tương ứng nên phạm vi từ chối bảo hộ các dấu hiệu này là tuyệt đối, không
có ngoại lệ và áp dụng đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ thuộc bất kỳ nhóm nào.


19


+ dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu,
bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân.
+ dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu
dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc
tính khác của hàng hoá, dịch vụ.
- Nhóm thứ hai: nhóm các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn
hiệu trong những trường hợp nhất định. Điều này có nghĩa không phải trong mọi
trường hợp, các dấu hiệu thuộc nhóm này đều không được bảo hộ với danh nghĩa
nhãn hiệu. Pháp luật vẫn đặt ra những điều kiện mà khi thỏa mãn những điều kiện
đó, một dấu hiệu vẫn có thể được xem xét, bảo hộ như là nhãn hiệu. Nhóm này bao
gồm:
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy
hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong nước và tổ chức quốc tế. Trong trường hợp này, dấu hiệu sẽ bị từ
chối không được bảo hộ là nhãn hiệu nếu không được các cơ quan, tổ chức sở hữu
dấu hiệu cho phép. Pháp luật quy định trường hợp loại trừ này để bảo vệ uy tín,
danh tiếng của các cơ quan, tổ chức, tránh trường hợp các chủ thể đăng ký dấu hiệu
nhằm lợi dụng uy tín, danh tiếng của các cơ quan, tổ chức hoặc khiến người tiêu
dùng lầm tưởng về mối liên hệ giữa hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu với cơ quan,
tổ chức tương ứng. Tuy nhiên, các cơ quan, tổ chức xã hội vẫn có quyền tự quyết
nhất định trong phạm vi quy định của pháp luật và cụ thể trong trường hợp này, các
cơ quan, tổ chức có quyền cho phép các chủ thể sản xuất, kinh doanh đăng ký dấu
hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên
đầy đủ của cơ quan, tổ chức khi việc đăng ký đó không làm tổn hại đến những lợi
ích của họ. Chính bởi vậy, giới hạn từ chối trong trường hợp này chỉ áp dụng đối
với việc đăng ký các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu
tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ



20

chức xã hội - nghề nghiệp trong nước và tổ chức quốc tế mà không được sự cho
phép của cơ quan, tổ chức đó.
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận,
dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế. Đối với các dấu hiệu này, phạm vi
giới hạn thậm chí còn được quy định rộng hơn, cụ thể theo quy định của pháp luật,
những dấu hiệu này chỉ được coi là dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa
nhãn hiệu trong trường hợp các tổ chức quốc tế có yêu cầu về việc không được sử
dụng dấu hiệu đăng ký làm nhãn hiệu. Trong trường hợp không có yêu cầu về việc
không được đăng ký sử dụng, cơ quan đăng ký không có quyền từ chối với lý do
dấu hiệu đó là dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của một tổ chức quốc tế.
Đồng thời, pháp luật cũng quy định các tổ chức quốc tế sở hữu những dấu hiệu này
cũng có quyền đăng ký các dấu hiệu đó làm nhãn hiệu chứng nhận.
1.4. Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của các
Điều ước quốc tế và pháp luật một số quốc gia, khu vực trên thế giới
1.4.1. Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của Công
ước Paris
Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu đã được quy định khá chi
tiết trong Điều 6ter của Công ước Paris năm 1883 làm nền tảng, cơ sở cho các quốc
gia thành viên quy định vấn đề này trong pháp luật quốc gia mình. Theo đó, điều
luật quy định các nước thành viên của Liên Minh từ chối hoặc hủy bỏ việc đăng ký,
ngăn cấm bằng các biện pháp thích hợp các dấu hiệu như sau:
- Các dấu hiệu có chứa toàn bộ hoặc một phần hoặc mô phỏng các đặc điểm,
mà không được phép của các cơ quan có thẩm quyền, các quốc huy, quốc kỳ hoặc
các biểu tượng quốc gia khác của các nước thành viên của Liên minh, các dấu hiệu
kiểm tra xác nhận hoặc bảo đảm chính thức được các nước đó chấp thuận. Việc cấm
sử dụng các dấu hiệu kiểm tra xác nhận và bảo đảm chính thức chỉ áp dụng trong
các trường hợp khi dấu hiệu có chứa chúng được nhằm để sử dụng trên hàng hoá
cùng loại hoặc tương tự.



×