Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật chống bán phá giá ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.14 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong các công trình khác.

Học viên
Nguyễn Thị Thùy Trang


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU



Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP

1
5

LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN PHÁ GIÁ GIÁ

5

1.1.1. Khái niệm bán phá giá

5

1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến hành vi bán phá giá

11

1.1.3. Tác động của hành vi bán phá giá

12

1.2.

14


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ
PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

1.2.1. Khái niệm chống bán phá giá

14

1.2.2. Khái niệm pháp luật chống bán phá giá

14

1.2.3. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật chống bán phá giá ở
Việt Nam

15

1.2.4. Vai trò của pháp luật chống bán phá giá

17

1.2.5. Pháp luật chống bán phá giá của một số quốc gia và tổ chức trên
thế giới

18

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở

23

VIỆT NAM


2.1.

NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH HÀNH VI BÁN PHÁ
GIÁ VÀO VIỆT NAM

23

2.1.1. Xác định giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu

24

2.1.2. Xác định giá xuất khẩu

28

2.1.3. Xác định biên độ phá giá

31


2.2.

NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN VÀ THỦ TỤC ĐIỀU
TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

34

2.2.1. Thẩm quyền điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá


34

2.2.2. Những quy định về thủ tục điều tra chống bán phá giá

39

2.3.

NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA VIỆT NAM

51

2.3.1. Điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam

51

2.3.2. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam

52

2.3.3. Các biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam

53

2.3.4. Rà soát việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá

57

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU


60

QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở
VIỆT NAM

3.1.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN
PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM

60

3.2.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP
LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM

66

KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ADA

Anti – dumping Agreement

AFTA

Asean Free Trade Area

ASEAN

Assosiation of Southeast Asia Nations – Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á

BTBCT

Bộ trưởng bộ công thương

CPSX

Chi phí sản xuất

DOC

Department of commerce – Bộ thương mại Hoa Kỳ

EU

European Union – Liên minh châu Âu


GATT

General Agreement on Tariffs and Trade – Hiệp định
chung về Thuế quan và thương mại

GTT

Giá thông thường

GTTT

Giá trị thông thường

GXK

Giá xuất khẩu

ITC

International Trade Commission - Ủy ban Thương mại
quốc tế Hoa Kỳ

PLCBPG

Pháp lệnh chống bán phá giá

WTO

World Trade Organization – Tổ chức thương mại thế giới



1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu hướng chung của tất cả các quốc
gia trên thế giới. Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong
chủ trương hội nhập quốc tế của Việt Nam với sự khẳng định: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng
cao vị thế của đất nước...”[5]. Với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các quan hệ kinh tế song phương và
đa phương như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, Hiệp định
song phương Hoa Kỳ năm 2000, trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương
mại quốc tế WTO...
Cùng với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong
nước, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế ngày càng tăng. Sự năng
động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và quy luật cạnh tranh của
nền kinh tế thị trường đang tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống kinh tế
nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, thị trường nước ta đang bị đe doạ
trước sức tấn công của những hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ phía các doanh
nghiệp nước ngoài. Trong một nền thương mại đa phương, cạnh tranh phải tuyệt đối
tuân thủ những nguyên tắc cạnh tranh phải trung thực và lành mạnh nhằm tạo ra sân
chơi bình đẳng đối với mọi thành viên, trong đó, sự cố ý làm sai lệch mối tương quan
cạnh tranh để giành lợi thế không công bằng đều đáng lên án và có thể bị trừng phạt.
Với sự phát triển chung của nền kinh tế, những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh
ngày càng tinh vi, gây ra hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng sâu sắc tới sự ổn định
của kinh tế nước nhà cũng như sức sống của một số ngành sản xuất nội địa, thậm chí
có những tác động không nhỏ đối với việc mở rộng thị phần trong nước.
Nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước trước vấn đề bán phá giá ngay tại thị

trường nội địa, Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật có liên quan điều


2

chỉnh vấn đề này như: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1998, Pháp lệnh giá
2002... Bên cạnh đó, không thể không kể tới Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam 2004 - văn bản pháp luật đầu tiên và trực tiếp điều chỉnh
hành vi bán phá giá tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số văn bản hướng dẫn hoặc
có liên quan đến vấn đề chống bán phá giá. Tuy nhiên, Pháp lệnh chống bán phá giá
còn chứa đựng nhiều điểm hạn chế và chưa thực sự tương thích với pháp luật thế
giới. Có thể thấy, khung pháp lý về chống bán phá giá còn sơ sài, chưa phát huy vai
trò là “vũ khí tự vệ” để bảo vệ nền sản xuất trong nước, hiệu quả áp dụng không
cao. Trên thực tế, Việt Nam mới chỉ khởi xướng điều tra được một vụ kiện chống
bán phá giá đầu tiên vào năm 2013.
Xuất phát từ thực tế trên, việc bức thiết đặt ra là Nhà nước cần xây dựng một
hệ thống pháp luật chống phá giá hoàn chỉnh, đồng bộ và tương thích với hệ thống
pháp luật quốc tế, đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Chính vì vậy, em
lựa chọn đề tài: “Pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp” với mong muốn đưa ra những đóng góp mới cho việc hoàn thiện chế định
luật còn nhiều hạn chế này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá là đề tài đã được nghiên cứu bởi
một số nhà khoa học. Trên phạm vi quốc tế, vấn đề pháp luật chống bán phá giá của
WTO và của các nước được nghiên cứu sâu và toàn diện trong các tác phẩm như:
Policy makers dumping on trade của Casey J.Lartige Jr; Trada remedies and WTO
disputes settlement: Why are so few challenged của Chad P.Bown; The politics
behind the application of antidumping Laws to nonmarket economies: Distrust and
informal constraints của Cythia Horne...
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, đề tài bán phá giá và pháp luật chống

bán phá giá cũng đã được quan tâm nghiên cứu. Một số sách chuyên khảo đã đề cập
đến nội dung này như: Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Đoàn Trung Kiên, Nxb Công


3

an nhân dân, 2011; Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và
những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Vũ Thị Phương Lan, Nxb Chính trị quốc gia,
2012; Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp tại Hoa Kỳ,
Nguyễn Thị Thu Trang, 2010... Pháp luật chống bán phá giá cũng là chủ đề xuất hiện
trong các bài tạp chí như: Tìm hiểu ảnh hưởng của pháp luật chống bán phá giá đối
với cạnh tranh, Mai Hồng Quỳ và Trần Việt Dũng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
2004; Lịch sử pháp luật chống bán phá giá trong thương mại quốc tế, Vũ Thị
Phương Lan, Tạp chí Luật học, 2009 v.v.
Tuy nhiên, thay vì nghiên cứu pháp luật chống bán phá giá trong thương mại
quốc tế nói chung, luận văn chỉ tập trung phân tích thực trạng các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về bán phá giá và chống bán phá giá. Đặc biệt, đề tài
nghiên cứu và chỉ ra các điểm bất cập của pháp luật hiện hành trong mối liên hệ với
vụ điều tra chống bán phá giá đầu tiên do Việt Nam khởi xướng.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn có phạm vi nghiên cứu là: các văn bản pháp luật thực định của Việt
Nam về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu; thực tiễn xây dựng và áp dụng
pháp luật về chống bán phá giá ở Việt Nam; pháp luật của một số nước và khu vực
trên thế giới về chống bán phá giá. Cụ thể, đề tài sẽ nghiên cứu những vấn đề lí luận
về bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam như: bản chất của hiện
tượng bán phá giá, tác động của nó đến sự phát triển của thị trường quốc gia nhập
khẩu, nhu cầu điều chỉnh của pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. Trên cơ sở
nghiên cứu hiện trạng của pháp luật chống bán phá giá, luận văn chỉ ra những
những nội dung chưa phù hợp với pháp luật WTO để đưa ra các giải pháp hoàn

thiện hệ thống pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp


4

nghiên cứu khoa học như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh để giải quyết các vấn đề lý
luận và thực tiễn được đặt ra.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài hướng tới mục đích làm sáng tỏ những vấn đề về bán phá giá và pháp
luật chống bán phá giá, tìm hiểu thực trạng pháp luật bán phá giá ở Việt Nam, tìm kiếm
các giải pháp hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam.
Thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Xác định một số khái niệm cơ bản liên quan đến bán phá giá và pháp luật
chống bán phá giá; làm rõ cách thức xác định hành vi bán phá giá, các phương pháp
so sánh để tìm ra biên độ phá giá;
- Xác định các biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam trên cơ sở so sánh
với pháp luật của WTO và của một số nước trên thế giới;
- Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
chống bán phá giá ở Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Danh mục các chữ viết tắt, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá;
Chương 2. Thực trạng pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam;

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá
ở Việt Nam.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN PHÁ GIÁ GIÁ
1.1.1. Khái niệm bán phá giá
1.1.1.1. Khái niệm bán phá giá từ góc độ lý luận
Hiện tượng bán phá giá xuất hiện khá sớm trong thực tiễn thương mại quốc
tế và cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Bán phá giá vốn được
quan niệm một cách đơn giản là “bán dưới giá thị trường”, tuy nhiên, đây chỉ là
cách hiểu sơ khai, chưa gắn với thực trạng quan hệ thương mại quốc tế hiện nay.
Nếu hiểu “bán phá giá là bán dưới giá thị trường” có thể dẫn đến nhiều khả năng: (i)
một loại hàng hóa được bán với giá thấp hơn hàng hóa tương tự cùng trong một thị
trường; (ii) hàng hóa khi xuất khẩu được bán dưới giá thị trường của hàng hóa
tương tự của nước nhập khẩu; và (iii) hàng hóa xuất khẩu được bán với giá thấp hơn
giá của hàng hóa đó khi bán ở thị trường trong nước.
Nếu hiểu bán phá giá theo cách hiểu thứ nhất là chưa hợp lý, bởi việc bán
phá theo cách hiểu này chỉ diễn ra trong nội bộ một quốc gia, chỉ chịu sự điều chỉnh
của pháp luật quốc gia trong lĩnh vực cạnh tranh thay vì sự điều chỉnh của pháp luật
thương mại quốc tế. Nếu hiểu theo cách thứ hai, tức là bán phá giá nghĩa là hàng
hóa khi xuất khẩu được bán dưới giá thị trường của hàng hóa tương tự của nước
nhập khẩu thì điều này cũng sẽ dẫn tới quan điểm sai lầm. Khi các quốc gia khác
nhau có hành vi sản xuất các sản phẩm giống hệt hoặc tương tự nhau, thì căn cứ vào
điều kiện kinh tế, điều kiện sản xuất kinh doanh ở mỗi nước thì giá cả của loại hàng
hóa này tất yếu sẽ khác nhau. Nếu một quốc gia xuất khẩu có nhiều điều kiện thuận

lợi trong sản xuất một mặt hàng nào đó (như giá nhân công rẻ, điều kiện tự nhiên
thuận lợi...) thì dễ hiểu khi giá xuất khẩu của mặt hàng đó sang một quốc gia khác


6

sẽ có giá thấp hơn so với mặt hàng tương tự được sản xuất tại thị trường nước nhập
khẩu.
Chỉ quan điểm thứ ba (iii) bán phá giá là việc hàng hóa xuất khẩu được bán
với giá thấp hơn giá của hàng hóa đó khi bán ở thị trường trong nước mới là cách
hiểu hợp lý hơn cả. Và đây cũng chính là quan điểm được ghi nhận trong Black’s
Law Dictionary, theo đó bán phá giá là “việc bán một hàng hóa ở nước ngoài ở
mức giá thấp hơn so với mức giá ở thị trường trong nước” [25]. Trong từ điển
Chính sách thương mại quốc tế, phá giá được hiểu là thực tiễn của một công ty với
giá bán hàng ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước [22]. Theo
nguyên tắc thông thường, giá bán hàng hóa ở thị trường nước ngoài phải cao hơn
giá bán của hàng hóa đó tại thị trường nội địa vì người sản xuất hoặc người xuất
khẩu phải bỏ thêm chi phí vận chuyển hàng hóa, chi phí bảo hiểm, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, các khoản chi phí khác... Nếu giá bán hàng hóa ở thị trường nước
ngoài thấp hơn giá tại thị trường trong nước thì đây rõ ràng là một điều bất bình
thường, có sự phân biệt về giá mang tính quốc tế.
Ngoài ra, từ góc độ lý luận, việc xác định một hành vi phân biệt giá cả giữa
các thị trường quốc gia có phải là hành vi bán phá giá hay không còn có thể được
xem xét, cân nhắc từ khía cạnh mục đích của hành vi ấy. Bản chất bất chính của bán
phá giá được suy đoán từ mục đích của nó là nhằm làm ảnh hưởng đến các mặt
hàng tương tự. Hay nói cách khác hành vi bán phá giá là chiến lược thâm nhập hoặc
mở rộng thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu [9]. Xuất phát từ góc độ trên,
bán phá giá được hiểu là bán với giá thấp hơn giá chung của thị trường để nhằm
cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Có thể thấy hiện nay chỉ tồn tại quan điểm về bán phá giá hàng hóa mà

không có khái niệm bán phá giá dịch vụ. Điều này xuất phát từ tính phức tạp
trong việc xác định khái niệm dịch vụ, bên cạnh đó là việc xây dựng những
chuẩn mực chung cho thương mại dịch vụ. Cho đến nay, việc nghiên cứu khái


7

niệm bán phá giá dịch vụ chỉ có giá trị về mặt lý thuyết mà không được phản ánh
trong các quy tắc về chống bán phá giá hiện hành của WTO và của các nước.
Như vậy, từ các phân tích ở góc độ lý luận, có thể thấy bán phá giá là việc
bán một hàng hóa ở nước ngoài ở mức giá thấp hơn so với mức giá ở thị trường
trong nước nhằm ảnh hưởng đến các mặt hàng tương tự trên cùng thị trường đó.
1.1.1.2. Khái niệm bán phá giá theo quan điểm của WTO
Điều VI, khoản 1 Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) đưa
ra định nghĩa về bán phá giá là việc “sản phẩm của một nước được đưa vào kinh
doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của
sản phẩm” [23].
Năm 1967, một số quy định về chống bán phá giá tại GATT được chuẩn hoá
trong Hiệp định về thi hành điều VI của GATT (Agreement on the Implementation of
Article VI), thường được gọi tắt là Hiệp định chống bán phá giá (ADA). Hiệp định
ADA đã đưa ra cách nhìn cụ thể hơn “một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu như
giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang nước khác thấp
hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước
xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường” [24]. Sản phẩm tương tự trên
theo cách hiểu của Hiệp định là sản phẩm giống hệt (giống nhau ở tất cả các yếu tố
với sản phẩm được xem xét) hoặc những sản phẩm có tính chất thật tương đồng.
Có thể thấy cả hai quy định trên đều không coi bán phá giá là bán hàng dưới
giá thành của hàng hóa và cũng không dùng thiệt hại mà ngành sản xuất sản phẩm
tương tự của nước nhập khẩu phải gánh chịu làm căn cứ để xác định bán phá giá.
Theo các quy định của pháp luật WTO, hành vi bán phá giá được xác định từ biên độ

chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thông thường của sản phẩm tại nước xuất khẩu.
Các khái niệm bán phá giá mà WTO đưa ra chỉ quan tâm đến hình thức của
hiện tượng giá, theo đó có sự khác biệt giữa giá trị thông thường của hàng hóa bán
tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu vào nước nhập khẩu mà chưa phản ánh tác hại
của bán phá giá đối với cạnh tranh lành mạnh trong quan hệ thương mại quốc tế.


8

ADA không gắn liền hành vi bán phá giá với mục đích của hành vi này, việc truy
tìm mục đích thực sự của chủ thể bên ngoài lãnh thổ của nước nhập khẩu là khó
thực hiện và không cần thiết. Vì vậy, chính sách pháp luật thương mại quốc tế
không sử dụng mục đích làm căn cứ để xác định hiện tượng bán phá giá mà sử dụng
thiệt hại vật chất do bán phá giá gây ra làm cơ sở để quyết định áp dụng biện pháp
chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu.
1.1.1.3. Khái niệm bán phá giá theo quan điểm của pháp luật Việt Nam
Tại Việt Nam, quan niệm về bán phá giá lần đầu tiên được ghi nhận tại Pháp
lệnh giá 2002 và hiện nay là Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam 2004 (PLCBPG).
Tại Pháp lệnh giá 2002, khoản 3 điều 4 Pháp lệnh giá quy định: “Bán phá
giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên
thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật,
gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác
và lợi ích của Nhà nước” [21].
Như vậy, một hành vi được coi là bán phá giá khi nó có hai dấu hiệu sau:
- Doanh nghiệp đã bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông
thường tại thị trường Việt Nam. Cách thức xác định bán phá giá dựa trên cách so
sánh hai loại giá: giá bán thực tế và giá thông thường của sản phẩm bị điều tra. Xét
từ dấu hiệu này, hành vi bán phá giá được hiểu là việc bán hàng hóa, dịch vụ với
mức giá không theo đúng giá trị thông thường của sản phẩm chứ không phải sự

phân biệt giá cả mang tính quốc tế theo quan điểm chung.
- Dấu hiệu thứ hai là mục đích của hành vi chiếm lĩnh thị trường, hạn chế
cạnh tranh không đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức khác, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước. Nếu chưa xác định được mục đích
của hành vi thì chưa thể kết luận có hành vi bán phá giá.


9

Điều 23 của Pháp lệnh này đã làm rõ thêm cho khái niệm bán phá giá bằng
cách liệt kê các trường hợp không bị coi là hành vi bán phá giá, bao gồm: (i) Hạ giá
bán hàng tươi sống; (ii) Hạ giá bán hàng hóa tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về
hình thức, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng; (iii) Hạ giá bán hàng hóa
theo mùa vụ; (iv) Hạ giá bán hàng hóa để khuyến mại theo quy định của pháp luật;
và (v) Hạ giá bán hàng hóa trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động
sản xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh.
Có thể do đây là văn bản đầu tiên đề cập đến khái niệm bán phá giá ở Việt
Nam, nên các quy định về bán phá giá còn bộc lộ nhiều hạn chế, không có giá trị
thực thi. Về phạm vi áp dụng, pháp lệnh giá 2002 áp dụng đối với các đối tượng là
tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mà không phân biệt
nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, các quy định về bán phá giá còn có thể
áp dụng đối với cả các sản phẩm nội địa (sản xuất và tiêu thụ tại Việt Nam) lẫn
hàng hóa nhập khẩu. Trong quy định tại điều 4 Pháp lệnh giá, bán phá giá đơn thuần
được mô tả dưới góc nhìn của pháp luật cạnh tranh thay vì được nhìn nhận dưới góc
độ của pháp luật thương mại quốc tế.
Mặc dù Pháp lệnh giá 2002 còn một số hạn chế, song đây là văn bản pháp
luật đầu tiên đưa ra khái niệm bán phá giá, mang những ý nghĩa nhất định trong bối
cảnh Việt Nam từng bước hội nhập thế giới. Đến năm 2012, Pháp lệnh giá đã được
thay thế bởi Luật giá số 11/2012/QH13 với việc chỉ còn đề cập một số trường hợp
hạ giá bán hàng hóa mà không bị coi là vi phạm pháp luật pháp luật chống bán phá

giá hàng nhập khẩu [14].
Tiếp theo, PLCBPG 2004 đã trực tiếp quy định về bán phá giá. Pháp lệnh
ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực nội luật hóa các nguyên lý của pháp
luật chống bán phá giá của WTO để thực hiện các bước gia nhập WTO. Chính vì
vậy, nội dung của các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu ở Việt Nam phần lớn là sự phản ánh, tiếp nhận pháp luật WTO vào
pháp luật nội địa.


10

Quan niệm thứ hai về bán phá giá được đề cập tại khoản 1 điều 3 của Pháp
lệnh như sau: “Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá
giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá
trị thông thường. Giá trị thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là
giá có thế so sánh được của hàng hóa tương tự đang được bán trên thị trường nội
địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu theo điều kiện thương mại thông
thường”[20].
Khái niệm bán phá giá này đã có sự thay đổi đáng kể so với quy định tại
Pháp lệnh giá 2002. Pháp lệnh này quy định về các biện pháp chống bán phá
giá, thủ tục, nội dung điều tra để áp dụng và việc áp dụng các biện pháp đó đối với
hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam. Như vậy, hành vi bán phá giá đã
được giới hạn trong phạm vi đối tượng tác động là hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam, thay vì cả hàng hóa nội địa của Việt Nam lẫn hàng hóa nhập khẩu như quan
niệm tại Pháp lệnh giá 2002. Giá chuẩn được sử dụng để xác định về việc bán phá
giá là giá thông thường của sản phẩm tương tự trên thị trường xuất khẩu mà không
phải là giá thông thường trên thị trường Việt Nam. Sẽ không có hiện tượng bán phá
giá nếu giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam không thấp hơn giá
bán của sản phẩm tương tự trên thị trường xuất khẩu cho dù có thấp hơn giá của sản
phẩm cạnh tranh được sản xuất tại Việt Nam. Mặt khác, bán phá giá không phải là

hiện tượng các doanh nghiệp xuất khẩu với mức giá gây lỗ nên cơ quan có thẩm
quyền sẽ không so sánh giá xuất khẩu với giá thành sản xuất của sản phẩm bị điều
tra. Bán phá giá chỉ đơn giản là hiện tượng phân biệt giá quốc tế trên các thị trường
khác nhau [7]. Ngoài ra, yếu tố thiệt hại cũng được đề cập đến, nhưng không phải
với vai trò là căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá, mà là một trong các điều kiện
để áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Cách tiếp cận này phù hợp với quan niệm
truyền thống về bán phá giá và các quy định của ADA.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến hành vi bán phá giá


11

Việc xem xét nguyên nhân gây ra hiện tượng bán phá giá phải được xem xét
một cách kĩ lưỡng trong điều kiện tự do hóa thương mại quốc tế. Hành vi bán phá
giá có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, xuất phát từ xu hướng phát triển của thương mại quốc tế, các quốc
gia cắt giảm thuế thuế và hàng rào phi thuế quan dẫn đến các doanh nghiệp lạm
dụng tự do cạnh tranh để cạnh tranh không lành mạnh. Quá trình toàn cầu hóa dẫn
đến việc hàng hóa và dịch vụ được lưu thông tự do và tất yếu dẫn tới sự cạnh tranh
toàn cầu. Để có thể tồn tại, mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ phải tự xác định các lợi thế
so sánh của mình, phát huy các ngành kinh tế mũi nhọn để chiếm lĩnh được thị
trường thông qua việc đưa đến người tiêu dùng những hàng hóa, dịch vụ có chất
lượng cao, giá thành hợp lý. Ngày nay, tiến trình cắt giảm thuế quan và xóa bỏ các
hàng rào phi thuế quan càng phổ biến, làm cho quá trình thương mại quốc tế diễn ra
thuận lợi hơn, ranh giới lãnh thổ giữa các quốc gia ngày càng bị xóa mờ và sự cạnh
tranh quốc tế trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Thứ hai, các doanh nghiệp có quyền tự do ấn định giá để chiếm lĩnh thị
trường, thu lợi nhuận nên đã có hành vi bán phá giá làm bóp méo tương quan cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, vi phạm nguyên tắc về cạnh tranh công bằng, bình
đẳng. Trong bối cảnh chính phủ mỗi nước ngày càng giảm đi sự can thiệp của mình

đối với vấn đề tự do cạnh tranh, hệ quả tất yếu là xuất hiện xu hướng lạm dụng tự
do cạnh tranh để trục lợi bất chính, mà tiêu biểu nhất là hành vi bán phá giá. Dựa
trên nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp có quyền tự
ấn định giá bán hàng hóa khi tiếp cận thị trường một quốc gia khác.
Thứ ba, bán phá giá còn được cho là xuất phát từ “sự khác biệt giữa chính
sách pháp lý và kinh tế quốc dân giữa hai thị trường quốc gia” [22]. Giữa các chính
sách kinh tế quốc dân của các quốc gia tồn tại sự khác biệt về cách thức phân bổ chi
phí, quan niệm về bộ phận của giá thành sản xuất, ảnh hưởng đến chiến lược định
giá trên các thị trường khác nhau. Sự khác biệt trong chính sách pháp lý có thể tạo


12

nên các cách tính toán khác nhau, dẫn tới việc kết luận về sự xuất hiện của hành vi
bán phá giá.
Khi một doanh nghiệp quyết định bán phá giá hàng hóa của mình, có thể họ
đang mong muốn đạt được các mục đích như: (i) Bán phá giá để chiếm lĩnh thị
phần; (ii) Bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, từ đó chiếm
thế độc quyền [15]; (iii) Bán phá giá nhằm thu ngoại tệ mạnh; (iv) Bán phá giá
nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt là thu hồi vốn gấp, giải quyết lượng hàng tồn
kho, lỗi mốt v.v..
1.1.3. Tác động của hành vi bán phá giá
Hành vi bán phá giá là một hành vi bị lên án vì những tác động của nó đến
ngành sản xuất tương tự của thị trường nước nhập khẩu. Tuy nhiên, nhìn nhận một
cách tổng quan, bán phá giá không chỉ đem đến những tác động tiêu cực, mà cả các
tác động tích cực trong một chừng mực nhất định [11].
1.1.3.1. Những tác động tích cực
Thứ nhất, tác động đến người tiêu dùng: Trong một khoảng thời gian ngắn
diễn ra hành vi bán phá giá, người tiêu dùng sẽ là đối tượng được hưởng lợi. Người
tiêu dùng sẽ có cơ hội mua những hàng hóa ngoại nhập với giá rẻ, thỏa mãn nhu cầu

tiêu dùng của họ. Đây có thể là động lực khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp nội địa tại nước nhập khẩu đang chi phối thị trường và
giữ giá độc quyền, thì việc xuất hiện hành vi bán phá giá từ một doanh nghiệp nước
ngoài có thể giải phóng người tiêu dùng khỏi sự bóc lột này.
Thứ hai, tác động đến ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước: Việc
hàng hóa nhập khẩu xuất hiện và thu hút được sự quan tâm, tiêu dùng của người dân
nước nhập khẩu chắc chắn sẽ tạo sức ép cho ngành sản xuất nội địa tìm ra phương
pháp nâng cao khả năng cạnh tranh. Sự tác động này mang tính tích cực đối với thị
trường trong nước bởi sự cạnh tranh này sẽ có tác dụng giảm sức ì của các doanh
nghiệp nội địa, giúp doanh nghiệp nội địa đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng và
hạ giá thành sản phẩm.


13

Thứ ba, tác động đến các doanh nghiệp có liên quan tại nước nhập khẩu: Các
doanh nghiệp có liên quan được hiểu là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng khác
nhưng có sử dụng nguyên liệu đầu vào là các hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá.
Nhờ tiếp cận hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ, các doanh nghiệp dạng này sẽ có thể
giảm chi phí đầu vào, phát triển sản xuất kinh doanh.
1.1.3.2. Những tác động tiêu cực
Phải thừa nhận rằng, hành vi bán phá giá thường đem lại nhiểu ảnh hưởng
tiêu cực hơn là ảnh hưởng tích cực, đặc biệt là khi hành vi này diễn ra trong một
thời gian dài, quy mô rộng. Những tác động xấu có thể nhận thấy là:
Thứ nhất, đối với người tiêu dùng: Nếu hành vi bán phá giá diễn ra trong một
khoảng thời gian dài thì sẽ dẫn tới nguy cơ doanh nghiệp bán phá giá đã thực hiện
chiếm lĩnh thị trường bằng cách bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh. Lúc
này, người tiêu dùng có nguy cơ cao sẽ phải chịu thiệt hại do doanh nghiệp bán phá
giá có thể tăng giá để lấy lại những phần đã mất từ việc bán phá giá.
Thứ hai, tác động đến ngành sản xuất tương tự của nước nhập khẩu: Đây

là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của hành vi bán phá giá. Hành vi bán
phá giá sẽ gây ra những thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất: sự suy giảm thực
tế hoặc tiềm ẩn doanh thu, lợi nhuận, sản lượng, thị phần, năng suất, việc làm,
tiền lương, tăng trưởng. Sản xuất của các nước nhập khẩu hàng hóa bán phá giá
có thể bị đình trệ, không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, mất thị trường và
thậm chí phá sản.
Như vậy, hành vi bán phá giá vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu
cực đến thị trường nước nhập khẩu. Đôi khi, hành vi bán phá giá có ảnh hưởng xấu
đến đối tượng này nhưng lại tác động tốt đến đối tượng khác, chính vì vậy, Nhà
nước cần đánh giá để lựa chọn việc ưu tiên bảo vệ lợi ích của đối tượng nào, góp
phần giải quyết sự xung đột lợi ích.


14

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP
LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1.2.1. Khái niệm chống bán phá giá
Trong các văn bản pháp luật quốc tế về lĩnh vực bán phá giá hiện chưa có
định nghĩa chính thức thế nào là chống bán phá giá. Tuy nhiên, từ các quy định liên
quan, có thể hiểu chống bán phá giá là công việc của các cơ quan có thẩm quyền
của nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá phù hợp tác động
trực tiếp lên sản phẩm nhập khẩu bán phá giá để loại bỏ những thiệt hại mà sản
phẩm nhập khẩu bán phá giá đó gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của
nước mình.
Việc chống bán phá giá phải được thực hiện bởi những cơ quan được nhà
nước trao quyền, với các quyền hạn, nhiệm vụ được cụ thể hóa trong văn bản pháp
luật chống bán phá giá. Mục đích của việc chống bán phá giá là bảo hộ ngành sản
xuất nội địa của nước nhập khẩu, bù đắp các thiệt hại đáng kể đã xảy ra do hành vi
bán phá giá gây ra hoặc ngăn chặn nguy cơ có thể xảy ra thiệt hại đáng kể với ngành

sản xuất nội địa. Ngoài ra, đối với các quốc gia phát triển, các biện pháp chống bán
phá giá còn được sử dụng với mục đích hạn chế mở cửa thị trường, hạn chế sự thâm
nhập thị trường đối với các nhà xuất khẩu đến từ các quốc gia khác.
Thông thường, các quốc gia đều áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
gồm: Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời; thực hiện các biện pháp cam kết; áp
dụng thuế chống bán phá giá chính thức. Mỗi biện pháp chống bán phá giá trên đều
phải được áp dụng vào đúng thời điểm, trình tự và do cơ quan có thẩm quyền áp
dụng một cách thận trọng và chính xác.
1.2.2. Khái niệm pháp luật chống bán phá giá
Pháp luật thương mại quốc tế luôn hướng tới mục tiêu là xây dựng sân chơi
bình đẳng. Khuôn khổ pháp lý này giúp duy trì trật tự cạnh tranh lành mạnh, cho
phép các quốc gia tham gia xây dựng và áp dụng những chế định về bảo hộ ngành
sản xuất trong nước. Tại Việt Nam, pháp luật chống bán phá giá được xác định là


15

một bộ phận của pháp luật thương mại, gồm các qui phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ
chức, điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
nhằm duy trì một nền thương mại công bằng, qua đó bảo vệ lợi ích của ngành sản
xuất nội địa. [7]
Nội dung pháp luật chống bán phá giá điều chỉnh các vấn đề chính sau:
- Xây dựng các căn cứ pháp lý để xác định hành vi bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam, xác định thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và thiệt hại; xác định biên độ phá giá;
- Quy định thủ tục điều tra và xử lý vụ việc chống bán phá giá: bao gồm các
quy định về quá trình điều tra, áp dụng thuế chống bán phá gia như: thời hạn điều
tra, nội dung hồ sơ khiếu nại, việc thu thập, xử lý và sử dụng các thông tin, quyền tố
tụng của các bên liên quan;

- Các quy định về việc áp dụng các biện pháp tạm thời, biện pháp chống bán
phá, thủ tục rà soát quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá...
- Vấn đề thẩm quyền, chức năng, cơ cấu tổ chức hệ thống cơ quan thực thi
pháp luật chống bán phá giá gồm cơ quan điều tra và hội đồng xử lý vụ việc.
1.2.3. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật chống bán phá giá ở
Việt Nam
Xu thế toàn cầu hóa đã thực sự tác động đến Việt Nam trong những năm của
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội cũng dần thay
đổi để trở nên phù hợp hơn. Là một quốc gia có xuất phát điểm kinh tế còn chậm
phát triển, sự tác động của quá trình hội nhập đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực thay đổi
các thể chế pháp lý. Trong lịch sử chống bán phá giá ở Việt Nam, do cơ chế bao cấp
cho nên việc tiếp cận với các hiện tượng thương mại quốc tế còn hạn chế. Chỉ khi
đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì pháp
luật chống bán phá giá mới bắt đầu xuất hiện.


16

Luật thương mại 1997 là văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến vấn đề bán phá
giá với ý nghĩa là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, hành vi bán
phá giá lần đầu được ghi nhận tại điểm b khoản 2 điều 8 của luật thương mại 1997
“Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh gây tổn hại đến lợi ích quốc gia và các hành
vi... bán phá giá để cạnh tranh”[13]. Đồng thời, Luật cũng quy định trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi này “Người thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh
có thể bị xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đã đủ yếu tố cấu
thành tội phạm, và phải bồi thường thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác nếu hành vi
đó gây ra thiệt hại” (Điều 257, 258 Luật thương mại 1997). Lịch sử phát triển của
pháp luật chống bán phá giá cũng đã từng tồn tại những quan niệm tương tự cho
rằng bán phá giá là hành vi vi phạm pháp luật nên người thực hiện phải gánh chịu
sự trừng phạt của pháp luật [8].

Có thể thấy, hành vi bán phá giá chỉ được nêu tên trong luật thương mại
1997 của Việt Nam mà không có bất kì sự quy định cụ thể nào về khái niệm, cách
xác định hành vi bán phá giá hay các yếu tố cấu thành khác. Các quy định về hành
vi bán phá giá tại Luật thương mại 1997 chỉ mang tính chất quy định, không khả thi
và chưa từng được áp dụng vào thực tế.
Tiếp đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu số 04/1998/QH10 quy định cho phép áp dụng thuế chống bán phá giá đối
với hàng nhập khẩu bán phá giá vào Việt Nam [12]. Tuy nhiên, các quy định của
pháp luật về bán phá giá vẫn không thể áp dụng vì chưa có cơ chế điều tra, xử lý
cũng như các cơ chế thực thi phù hợp.
Cùng với việc tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần có các chế
định pháp luật về thương mại quốc tế vừa đáp ứng các chuẩn mực pháp lý mà các định
chế kinh tế quốc tế đòi hỏi, vừa đảm bảo khả năng điều tiết kinh tế hiệu quả. Đáp ứng
các yêu cầu của thực tiễn thương mại quốc tế, ngày 29/4/2004, Ủy ban thường vụ
Quốc hội thông qua Pháp lệnh chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu, chính
thức có hiệu lực vào ngày 1/10/2004. Đây được coi là văn bản đầu tiên của Việt Nam


17

điều chỉnh một cách trực tiếp và toàn diện vấn đề này. Bên cạnh đó, các văn bản hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh cũng được nhà nước ban hành như: nghị định 90/2005/NĐ-CP
ngày 11/7/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; Nghị định số 04/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 về
thành lập và quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội
đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; Nghị định 06/2006/NĐCP ngày 9/1/2006 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ công thương...
Như vậy, có thể nhận thấy pháp luật chống bán phá giá chỉ được hình thành
sau gần 20 năm xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Sự ra đời này của chế
định này là kết quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế. Qua đó có thể thấy các

nhà làm luật và cơ quan quản lý Việt Nam đã có sự quan tâm đến lĩnh vực pháp luật
chống bán phá giá, xây dựng được một khung pháp lý tương đối tương thích với
khung pháp lý chung của WTO về vấn đề này.
1.2.4. Vai trò của pháp luật chống bán phá giá
Chống bán phá giá là một vấn đề đa chiều và các quy định của pháp luật
chống bán phá giá có sự liên quan mật thiết đến các vấn đề chính trị, kinh tế, thể chế
và truyền thống. Nhìn nhận một cách khái quát, có thể thấy một số vai trò của pháp
luật chống bán phá giá như sau:
Thứ nhất, pháp luật chống bán phá giá có vai trò bảo vệ ngành sản xuất nội
địa chống lại các đối thủ cạnh tranh với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
nhằm chiếm lĩnh thị trường bằng các sản phẩm nhập khẩu giá rẻ. Khi tự do thương
mại đã trở thành xu hướng tất yếu, các quốc gia cần đến chế định pháp luật chống
bán phá giá như một chiếc “van an toàn” có thể được khóa lại bất cứ lúc nào nhằm
ngăn chặn ngay lập tức hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp
nước ngoài. Việc bảo hộ ngành sản xuất trong nước không chỉ phục vụ mục đích
trước mắt là tự vệ trước những hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà còn phục vụ


18

yêu cầu lâu dài là tạo điều kiện cho việc xây dựng những ngành kinh tế mũi nhọn
của Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật chống bán phá giá giúp bảo vệ tự do thương mại, duy trì
trật tự của thị trường chung. Xét trên bình diện rộng lớn, bảo vệ sự ổn định cho
ngành sản xuất nội địa của mỗi quốc gia sẽ góp phần duy trì trật tự thương mại quốc
tế công bằng. Tuy nhiên, các công cụ chống bán phá giá phải được sử dụng một
cách đúng đắn, tránh tình trạng lạm dụng nhằm ngăn cản tự do hóa thương mại.
Đối với Việt Nam, một quốc gia có nền kinh tế còn chưa thực sự phát triển,
việc bảo hộ các ngành sản xuất trong nước trước sức ép cạnh tranh của các doanh
nghiệp nước ngoài là một việc rất quan trọng. Chính vì vậy, trong bối cảnh hội nhập

kinh tế hiện nay, việc triển khai Pháp luật chống bán phá giá có ý nghĩa cực kì quan
trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Khi hàng rào huế quan dần dần
được cắt giảm theo lộ trình mở cửa thị trường, luồng hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn. Mặt khác, nhiều tập đoàn đa quốc gia với sức
mạnh tài chính của mình có thể thực hiện hành vi thương mại không công bằng nhằm
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, công cụ chống bán phá giá khi được tận
dụng một cách hợp lý, phù hợp với các quy định của hiệp định mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia sẽ giúp hạn chế được thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng
kể mà luồng hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất trong
nước. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành sản xuất có xuất phát điểm thấp
[27].
1.2.5. Pháp luật chống bán phá giá của một số quốc gia và tổ chức trên
thế giới
1.2.5.1. Pháp luật chống bán phá giá của WTO
Vấn đề chống bán phá giá lần đầu tiên Hiệp hội các quốc gia (League of
Nations) nghiên cứu ngay từ năm 1922. Đến năm 1947, với sự ra đời của tổ chức
GATT (General Agreement of Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về thuế quan và
thương mại), các biện pháp chống bán giá chính thức được đặt dưới sự chi phối của


19

pháp luật quốc tế. Lúc ấy, vấn đề này chưa được chú ý nhiều mà chỉ về sau, khi
thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh trở nên ráo riết hơn, và các
nước thành viên của GATT cũng ngày càng đông đảo hơn, thì chống bán phá giá
mới trở thành một mối quan tâm thật sự. Năm 1967, một số quy định về chống bán
phá giá tại GATT được chuẩn hoá trong Hiệp định về thi hành điều VI của GATT
(Agreement on the Implementation of Article VI), thường được gọi tắt là Hiệp định
chống bán phá giá (ADA). Hiệp định này không chỉ quy định về chống phá giá, mà
còn qui định các biện pháp chống tài trợ đối với hàng nhập khẩu đã được tài trợ tại

nơi sản xuất. Thời gian sau đó, Hiệp định về chống bán giá được bổ sung thêm
nhiều nội dung quan trọng.
Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định
chống bán phá giá có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của
WTO. Vì vậy, các quốc gia thành viên có thể không ban hành Luật chống bán phá
giá riêng của quốc gia mà áp dụng trực tiếp các quy định của Hiệp định chống bán
phá giá của WTO. Tuy nhiên, các quốc gia thành viên WTO thường vẫn ban hành
luật chống bán phá giá riêng của quốc gia mình trên cơ sở kế thừa các quy định
chung của ADA và bổ sung những điều khoản chi tiết để phù hợp với thực tiễn của
mỗi quốc gia.
Các quy định trong Hiệp định chống bán phá giá ADA được coi là cơ sở
pháp lý giúp các nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của các ngành sản xuất trong
nước khi xảy ra hiện tượng bán phá giá. Năm 1995, WTO đã thành lập Uỷ ban về
chống bán phá giá (Committee on Anti-dumping Practices) để giám sát việc điều tra
và áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước thành viên. Sau khi phát hiện ra
hàng hoá bị bán phá giá có khả năng ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, các ngành
đó đề nghị những cơ quan hữu trách thực hiện việc điều tra và đưa ra kết luận về
việc có thực hiện hay không thuế chống bán phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước
[6].


20

Hiệp định chống bán phá giá của WTO gồm 3 phần, chia thành 18 điều và
tập trung quy định 4 nhóm vấn đề chính gồm: (i) Các quy định về nội dung, bao
gồm các điều khoản quy định về cách thức, tiêu chí xác định hành vi bán phá giá,
thiệt hại, mối liên hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại; (ii) Các quy định
về thủ tục, bao gồm các điều khoản về điều tra, áp đặt thuế chống bán phá giá như
thời hạn điều tra, nội dung đơn kiện, quyền tố tụng của các bên liên quan... (iii) Các
quy định về thẩm quyền của Ủy ban về chống bán phá giá, chức năng, hoạt động

của Ủy ban trong quá trình điều tra vụ việc chống bán phá giá; và (iv) Các quy định
về thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến biện pháp chống
bán phá giá, bao gồm các quy tắc áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh
trong vụ việc bán phá giá.
1.2.5.2. Pháp luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu (EU)
Luật chống bán phá giá của EU ra đời năm 1968 và đã được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần nhằm đưa ra những quy định mới đối với việc thực hiện điều VI của Hiệp
định chung về Thuế quan và Mậu dịch 1994 vào luật của EU hiện nay. Pháp luật chống
bán phá giá của EU có sự phân biệt về các điều khoản áp dụng đối với các nước bị coi
là chưa có nền kinh tế thị trường hoặc nước đang trong quá trình chuyển đổi.
Luật sửa đổi năm 1996 đã quy định về việc áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá chỉ khi nào thỏa mãn 4 điều kiện sau: Mặt hàng đó đang bị bán phá
giá; ngành công nghiệp sản xuất mặt hàng đó đang phải chịu thiệt hại (các tổn
thương vật chất) hoặc đang bị đe dọa; có mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập
khẩu đó và thiệt hại của ngành công nghiệp của EU; và việc áp đặt biện pháp
chống bán phá giá vì lợi ích cộng đồng. Các quy định hiện có của EU được thay
thế bởi Quy chế chống bán phá giá mới, có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, sau đó
được cập nhập bởi Quy chế 284/96 có hiệu lực từ ngày 6/3/1996. Quy chế đồng
thời cũng đưa ra giới hạn thời gian chặt chẽ cho việc hoàn thành điều tra và ra
quyết định nhằm đảm bảo rằng các đơn khiếu kiện được giải quyết nhanh chóng
và hiệu quả [28].


×