Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nghiên cứu cụ thể trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.47 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO THỊ HỒNG MINH

PHÁP LUẬT VỀ GIAO ĐẤT DỊCH VỤ CHO
HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP – NGHIÊN CỨU
CỤ THỂ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN QUANG HUY

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin trong Luận văn là trung thực, có tiếp thu và sử dụng những ý
tưởng khoa học của các tác giả có bài viết liên quan. Nội dung Luận văn là do
bản thân phân tích từ những quy định hiện hành của pháp luật đất đai và các quy
định của thành phố Hà Nội về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp. Những phần trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng.

Tác giả



Đào Thị Hồng Minh


LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, em đã hoàn thành Luận
văn Thạc sỹ Luật học.
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Pháp luật
kinh tế, tổ bộ môn Luật Đất đai Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình
giảng dạy cho em trong thời gian là học viên lớp Cao học Luật Khóa 20 tại
Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đặc biệt, Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trần Quang Huy, Phó
Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội đã dành nhiều thời gian và tâm
huyết hướng dẫn nghiên cứu và tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình thực
hiện Luận văn này.
Bên cạnh đó, Luận văn hoàn thành không thể không kể đến sự ủng hộ,
giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia
đình đã luôn sát cánh bên Em trong thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn.
Học viên

Đào Thị Hồng Minh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASXH


: An sinh xã hội

CHN

: Công Nghiệp hóa

HĐH

: Hiện đại hóa

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIAO
ĐẤT DỊCH VỤ CHO HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIAO ĐẤT
DỊCH VỤ CHO HỘ GIA ĐÌNH CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT NÔNG NGHIỆP ................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giao đất dịch vụ cho hộ gia
đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ............................. 8
1.1.1. Các khái niệm ................................................................................ 8
1.1.2. Cơ sở của việc giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ............................................................ 14

1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật giao đất dịch vụ cho hộ gia đình,
cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp .................................... 23
1.2.1. Khái niệm pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ................................................... 23
1.2.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật về giao đất dịch vụ
cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ........... 25
1.2.3. Cơ cấu điều chỉnh pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình,
cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ...................................... 26
Kết luận chương 1 ................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO ĐẤT DỊCH VỤ
CHO HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN HÀ
NỘI.............................................................................................................. 29


2.1 Thực trạng pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp .................................................. 29
2.1.1. Đối tượng áp dụng, phạm vi điều chỉnh ....................................... 29
2.1.2. Nguyên tắc, điều kiện giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, nhân khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ......................................................... 30
2.1.3. Nội dung pháp luật về giao đất dịch vụ .......................................... 33
2.1.4. Trình tự, thủ tục giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp ................................................................ 38
2.1.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. ...................................... 40
2.2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về giao đất dịch vụ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. .............. 42
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và những đặc thù của Hà Nội
trong quá trình thực hiện pháp luật về giao đất dịch vụ......................... 42
2.2.2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về giao đất dịch vụ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. ............... 43
2.2.3. Những bất cập, hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những bât
cập, hạn chế........................................................................................... 48
Kết luận chương II .................................................................................. 56
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP
LUẬT VỀ GIAO ĐẤT DỊCH VỤ CHO HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN THỰC TẾ ......... 57
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giao đất dịch vụ khi Nhà nước THU HồI ĐấT nông nghiệp
của hộ gia đình, cá nhân địa bàn thành phố Hà Nội. ............................ 57
3.2. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân ........................................................................................... 63


3.2.1. Nhóm giải pháp về tiếp tục hoàn thành việc giao đất dịch vụ cho hộ
gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp........................ 63
3.2.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân......................... 64
3.2.3. Nhóm giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp ..................................................................................... 66
Kết luận chương 3 ................................................................................... 69
KẾT LUẬN ................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 72


1


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương nhất quán của Đảng và
Nhà nước nhằm phát triển nền kinh tế, phấn đấu đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp. Để làm được điều này, tất yếu phải phân bổ lại các nguồn
lực phát triển kinh tế, trong đó trước hết là nguồn nhân lực, đất đai và lao
động. Điều đó dẫn đến hệ quả là phải thu hồi và chuyển một bộ phận đất đai
sang phục vụ cho xây dựng khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu dân cư
tập trung, cũng như cho việc xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng và các công
trình công cộng. Để tránh những hệ quả tiêu cực của quá trình thu hồi đất,
giảm thiểu tối đa những xáo trộn, ảnh hưởng đến cuộc sống của những hộ gia
đình, cá nhân có đất bị thu hồi, Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách bồi
thường, hỗ trợ, đặc biệt là chính sách giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá
nhân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước, với
vị trí và vai trò quan trọng như vậy đã mở ra cho Hà Nội những vận hội mới
để phát triển đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức. Để hoàn thành trọng
trách là là đầu tầu phát triển của cả nước, Hà Nội phải có tư duy đột phá, phát
triển nhanh và bền vững. Để thay đổi bộ mặt thủ đô, Hà Nội đã xây dựng các
khu đô thị, khu công nghiệp đi đôi với chuyển đổi cơ cấu lao động của dân cư
trên địa bàn, khơi dậy và khai thác các tiềm năng, thế mạnh đi đôi với phát
triển nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, thu hồi đất nông
nghiệp của người nông dân đề phát triển địa phương nhưng phải tạo kế sinh
nhai cho người nông dân, nông dân không còn ruộng nhưng không bị bần
cùng hóa. Hà Nội (Hà Tây cũ) đã nhanh chóng nắm bắt chính sách mới của
Chính phủ và ban hành Quyết định 1098/2007/QĐ-UBND ngày 28 tháng 6
năm 2007 về việc quy định giao đất có thu tiền sử dụng đất làm mặt bằng sản


2


xuất kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp hoặc đất ở cho hộ gia đình, cá nhân
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án đầu tư trên địa
bàn tỉnh Hà Tây. Tuy nhiên, chính sách của Chính phủ thì vô cùng hợp lý,
quan tâm đến đời sống người nông dân nhưng qua quá trình tổ chức triển khai
trên thực tế trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc mà thể
hiện rõ nhất là vấn đề chuyển đổi mô hình từ sản xuất nông nghiệp thuần túy
sang mô hình sản xuất kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp, cải thiện đời sống
nhân dân vẫn chưa phát huy hiệu quả trên thực tế. Đất nông nghiệp là "miếng
cơm, manh áo" là tư liệu sản xuất của người nông dân, thu hồi đất nông
nghiệp cũng tức là thu hồi "nguồn sống" của họ. Khi thu hồi đất nông nghiệp
bao giờ người nông dân cũng là người phải chịu thiệt thòi, bởi tiến độ giao đất
dịch vụ diễn ra quá chậm trễ, kéo dài hàng 5 đến 7 năm, trong khoảng thời
gian "chết" đó người nông dân không có ruộng để sản xuất, không có thu
nhập để chi trả, ổn định cuộc sống, dẫn đến tình trạng "chuyển nhượng non"
đất dịch vụ để trang trải cuộc sống. Theo đánh giá của đại diện Ngân hàng thế
giới (World Bank) tại Việt Nam thì: "nông dân là những người nghèo nhất,
nhưng cùng với quá trình hiện đại hóa đất nước, họ đã bị kéo vào vòng xoáy
của sự nghèo đói". Đây là nguyên nhân cốt lõi khiến người nông dân luôn
phản đối, khiếu kiện khắp nơi khi bị thu hồi đất, nhiều trường hợp chống trả
quyết liệt để bảo vệ đất nông nghiệp.
Giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp là chính sách an sinh của Chính phủ nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cải thiện đời sống của người nông dân, Hà Nội (đặc biệt là Hà Tây cũ) là địa
phương sớm nắm bắt và triển khai quy định về giao đất kinh doanh dịch vụ tại
địa phương mình. Đây là chính sách thể hiện sự quan tâm của Chính phủ, của
chính quyền địa phương đối với người nông dân mất đất và nếu phát huy được
tư tưởng đó trên thực tế thì tiến trình đô thị hóa sẽ đồng bộ, sẽ thay đổi đáng kể
bộ mặt của nông thôn. Chính vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về



3

giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp - Nghiên cứu cụ thể trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm đề tài cho
luận văn thạc sỹ của mình. Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá các quy định
pháp luật hiện hành của Thành phố Hà Nội (Hà Tây cũ) về giao đất dịch vụ
cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và hiệu quả
thực thi trên thực tế, luận văn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần
hoàn thiện các quy định pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân
khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người nông dân có đất bị thu hồi.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất nói chung đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu
dưới nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến một số công trình, bài viết
tiêu biểu như: "Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi nước"
- Luận văn Thạc sĩ luật học, Nguyễn Vinh Diện năm 2006; "Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành tại thành phố
Hà Nội" - Luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn Duy Thạch năm 2007; "Chính
sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất" của tác giả Trần Quang Huy đăng trên
tạp chí Luật học số 10 năm 2010; Tác giả Nguyễn Quang Tuyến với bài viết
"Công khai, minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất", Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 3/2012; TS Phan Trung Hiền
với bài viết "Pháp luật về thu hồi đất khi thực hiện kế hoạch và chế định
trưng dụng đất trong pháp luật Việt Nam" và "Quyền khiếu kiện khi Nhà nước
thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" đăng trên Tạp chí
Luật học số 3 và số 7 năm 2011; Tác giả Nguyễn Thị Nga với bài "Pháp luật
về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những
vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng" đăng trên Tạp chí Luật học số 11



4

năm 2010 và "Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất", đăng trên Tạp chí Luật học số 5 năm 2011...
Về vấn đề thu hồi đất nông nghiệp, cũng có nhiều công trình nghiên
cứu có thể kể đến như "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp - thực trạng và giải pháp hoàn thiện", Đỗ Phương Thủy Khóa luận tốt nghiệp 2011; "pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An",
Hoàng Thị Thu Trang - Luận văn thạc sĩ luật học 2012; “Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp - Thực trạng và hướng hoàn thiện” - Luận văn thạc sĩ luật học, Trần Thị
Phương Liên 2013...
Nhìn chung, các công trình, bài viết nêu trên đều nghiên cứu về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung nhưng ở mức độ và phạm vi khác nhau.
Có công trình, bài báo nghiên cứu đi sâu phân tích, bình luận một số khía cạnh
pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như: các phương thức bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất, về trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư, về cơ chế giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo hoặc cưỡng chế
hành chính về lĩnh vực này. Ngoài ra, cũng có công trình nghiên cứu về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thông qua việc đánh giá thực
trạng áp dụng pháp luật tại địa bàn cụ thể mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu riêng biệt về Pháp luật giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp, xét ở cả khía cạnh lí luận và thực tiễn và ở tầm một công
trình luận văn thạc sỹ.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội của cả nước nói
chung và đặc biệt là Hà Nội đang có những thay đổi liên tục và nhanh chóng
đòi hỏi phải đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai nói chung và hoàn
thiện, thực thi nghiêm túc chính sách và pháp luật giao đất dịch vụ trên địa

bàn Hà Nội nói riêng cho phù hợp thì các kết quả mà giới khoa học pháp lý


5

nước ta đã đạt được vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và hoàn
thiện. Bởi vậy, việc nghiên cứu thành công đề tài "Pháp luật về giao đất
dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Nghiên cứu cụ thể trên địa bàn thành phố Hà Nội" là một công việc có ý
nghĩa lý luận và mang tính thời sự cao.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được các mục đích sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm, bản
chất của giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ hai, đi sâu nghiên cứu, phân tích, bình luận các quy định của pháp
luật hiện hành về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp;
Thứ ba, tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện
hành về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp trên đại bàn thành phố Hà Nội mà trọng tâm là tại các quận,
huyện thuộc Hà Tây cũ trong thời gian qua để có những nhận định và đánh
giá khách quan về những kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại, bất cập của
vấn đề này;
Thứ tư, thông qua việc nghiên cứu, đề tài đưa ra những định hướng
hoàn thiện và giải pháp hoàn thiện pháp luật pháp luật về giao đất dịch vụ cho
hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này trên thực tế;
Thứ năm, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp thêm nguồn
tài liệu cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học cũng như trong quá
trình hoàn thiện các quy định pháp luật về giao đất dịch vụ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn


6

- Một số vấn đề lý luận về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân;
- Nội dung các quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước về bồi
thường, hỗ trợ, về giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của
hộ gia đình cá, cá nhân;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá
nhân khi Nhà nước thu hồi đấtnông nghiệp trên địa bàn Hà Nội (trọng tâm là
các quận huyện thuộc Hà Tây cũ) thời gian qua, những kết quả đã đạt được và
những bất cập, hạn chế còn tồn tại.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật của thành phố
Hà Nội (trọng tâm là các quy định áp dụng cho các quận, huyện thuộc tỉnh Hà
Tây trước đây) về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình cá nhân khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp, bao gồm: nguyên tắc giao đất dịch vụ, điều kiện giao đất
dịch vụ, trình tự, thủ tục giao đất dịch vụ và cơ chế giải quyết các khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực này mà không nghiên cứu chung về pháp luật bồi
thương, hỗ trợ, khi Nhà nước thu hồi các loại đất khác, đối với các chủ thể
khác không phải là hộ gia đình, cá nhân, cũng như vấn đề tái định cư và các
hỗ trợ khác không phải trong phạm vi thu hồi đất nông nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
địa hóa đất nước và xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như;

phương pháp thu thập thông tin; phương pháp tổng hợp; phương pháp phân
tích, đánh giá; phương pháp hệ thống; phương pháp lịch sử cụ thể; phương


7

pháp thống kê, phương pháp so sánh... để đảm bảo cho những lập luận đưa ra
có tính logic, chặt chẽ và thuyết phục.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ và toàn diện các chế
định có liên quan đến giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ở cả phương diện lí luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích, đánh giá một cách khách
quan những ưu điểm đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại và
nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó để đề xuất các giải pháp sửa đổi,
hoàn thiện trong thời gian tới.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài các phần lời nói đầu và kết luận, luận văn được cơ cấu thành ba
chương với các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giao đất dịch vụ cho hộ
gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về giao đất
dịch vụ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá
nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giao đất dịch vụ cho hộ gia đình,
cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên thực tế.



8

CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIAO ĐẤT DỊCH
VỤ CHO HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIAO ĐẤT DỊCH VỤ CHO HỘ
GIA ĐÌNH CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giao đất dịch vụ cho hộ
gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp
Tại Việt Nam, đất nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu đất
đai của cả nước và đóng vai trò quan trọng trong đời sống cũng như sự phát
triển kinh tế của đất nước. Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam,
đất nông nghiệp thường được hiểu là đất trông lúa, trồng cây hoa màu như:
ngô, khoai, sắn và những loại cây được coi là lương thực. Tuy nhiên trên thực
tế việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, đa dạng, không chỉ đơn
thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc,
nuôi trồng thủy sản hay để trồng các cây lâu năm…
Trước đây, theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (Điều 42), đất đai
của Việt Nam được chia làm sáu loại, bao gồm: đất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử
dụng. Trong đó, “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng
vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc
nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”.
Đến Luật Đất đai năm 2003 chia đất đai tại Việt Nam thành ba nhóm, bao
gồm: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp, nhóm đất chưa sử dụng.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 13 Luật Đất đai 2003, nhóm đất nông nghiệp bao
gồm các loại đất: Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng



9

vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; Đất trồng cây lâu năm; Đất rừng sản
xuất; đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối,
đất nông nghiệp khác theo quy định của chính phủ.
Như vậy, có thể hiểu “nhóm đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất có
đặc tính sử dụng giống nhau, với tư cách là tư liệu sản xuất phục vụ chủ yếu
cho mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, khoanh nuôi tu bổ bảo vệ rừng, nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp”.
So với Luật Đất đai năm 1993, khái niệm đất nông nghiệp quy định
trong Luật Đất đai năm 2003 có phạm vi rộng hơn, bao gồm nhiều loại đất để
khai thác và sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp. Sự phân loại này có sự đan
xen giữa loại đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp (trước đây), đất nuôi trồng thủy
sản và làm muối là một sự phù hợp. Một mặt, chúng đảm bảo sự tập trung
thống nhất trong quản lý đất đai của Nhà nước, giúp cho các cơ quan quản lý
đất đai của địa phương dễ dàng, thuận lợi hơn trong việc theo dõi , kiểm tra,
giám sát quá trình khai thác, sử dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân. Mặt
khác, xét từ thực tế sử dụng đất từ xưa đến nay, trong mỗi hộ gia đình, cá
nhân thường không sử dụng thuần túy một loại đất riêng rẽ mà đan xen khai
thác và sử dụng kết hợp của nhiều loại đất đai khác nhau như đất: trồng lúa,
trồng màu, trồng cây ăn quả, đất nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp với trồng
rừng sản xuất, đất làm muối…Việc kết hợp sử dụng nhiều loại đất như vậy là
một nhu cầu tất yếu khách quan của mỗi hộ muốn nâng cao năng lực sản xuất,
tận dụng quỹ đất để khai thác có hiệu quả đât đai, có điều kiện để mở rộng sản
xuất và ứng dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư vốn thuận lợi, dễ dàng. Đây cũng
là sự phù hợp với chủ trương mà Đảng và Nhà nước ta đang khuyến khích sản
xuất nông nghiệp theo mô hình nông trang trại, kết hợp nông - lâm - ngư diêm đối với hộ nông dân. Vì vậy, phân loại đất nông nghiệp theo pháp luật
hiện hành là một sự hợp lý, vừa thuận lợi cho việc quản lý, vừa phù hợp với



10

thực tế sử dụng đất của các hộ nông dân, vừa khuyến khích để phát triển nông
nghiệp theo xu hướng của nền sản xuất hàng hóa.
1.1.1.2. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp
Ngược lại với giao đất, cho thuê đất là những hình thức pháp lý làm
hình thành một quan hệ pháp luật đất đai thì thu hồi đất là một biện pháp làm
chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai thông qua quyết định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “thu hồi đất là việc
Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại
đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của
Luật này”. Cách định nghĩa này không theo hướng liệt kê mục đích của việc
thu hồi đất mà định nghĩa cho thấy, bằng quyền lực chính trị, kinh tế và pháp
lý, cùng với vai trò của đại diện chủ sở hữu của mình, Nhà nước có quyền thu hồi đất.
Như vậy, từ những khái niệm và định nghĩa trên có thể hiểu khái niệm
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân là việc Nhà nước ra quyết
định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia
đình, cá nhân theo quy định của Luật này vì mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.
Ở đây cần phân biệt khái niệm “thu hồi đất” với khái niệm “trưng dụng
đất” ở những điểm sau đây: Thứ nhất, thu hồi đất tiến hành theo quy hoạch
xây dựng có trình tự, lập, trình, thẩm định, xét duyệt quy hoạch và thực hiện
quy hoạch; còn trưng dụng đất là khẩn thiết, đột xuất, không theo kế hoạch,
quy hoạch nào cả. Thứ hai, thu hồi đất là do dự cần thiết còn trưng dụng đất là
do sự cấp thiết, khẩn thiết như chiến tranh, thiên tai. Thứ ba, trình tự, thủ tục
ra quyết định thu hồi đất có những bước, những thời gian cụ thể, còn trưng
dụng đất cần tiến hành nhanh gọn có thể thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời

nói mà có giấy xác nhận và có hiệu lực ngay thời điểm nói hoặc kí ban hành.


11

Thứ tư, trưng dụng đất là có thời hạn, còn thu hồi đất là vĩnh viễn. Thứ năm,
hình thức bồi thường của trưng dụng đất chủ yếu là bồi thường bằng đất có
cùng mục đích sử dụng tương ứng hoặc có thể bồi thường bằng tiền.
1.1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của đất dịch vụ và khái niệm giao đất dịch
vụ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
a. Khái niệm đất dịch vụ
Trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp phục vụ dự án, nông dân bị mất đất
canh tác và ảnh hưởng đến nghề nghiệp truyền thống. Bên cạnh việc bồi thường
thiệt hại cho người bị thu hồi đất nông nghiệp, nhà nước còn thực hiện việc hỗ trợ
bằng nhiều phương thức khác nhau, trong đó có việc giao đất dịch vụ cho hộ gia
đình, cá nhân để tổ chức sản xuất kinh doanh tạo lập cuộc sống bình thường.
Khoản 4 và Khoản 5 Điều 4 Nghị định 17/2006/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ
sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị
định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ
phần có quy định như sau:
"4. Sửa đổi Điều 29 như sau:
“Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên
30% diện tích đất nông nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất
nông nghiệp tương ứng thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc
làm theo quy định sau đây:
1. Được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng
sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp; mức đất được giao do Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu hồi của
từng hộ gia đình, cá nhân để quy định; giá đất được giao bằng giá đất nông
nghiệp tương ứng cộng với chi phí đầu tư hạ tầng trên đất nhưng không cao

hơn giá đất tại thời điểm thu hồi đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy
định và công bố;


12

5. Bổ sung khoản 3 vào Điều 36 như sau:
"3. Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở phải tái định cư thì việc bố trí
tái định cư phải gắn với tạo việc làm hoặc chuyển đổi nghề nghiệp theo quy
định sau đây:
a) Nếu là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà không
được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng với đất nông
nghiệp đã bị thu hồi thì việc bố trí tái định cư được gắn với giao đất làm mặt
bằng sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp như quy định tại khoản 1 Điều 29 của
Nghị định này (Nghị định 197/2004)”.
Như vậy có thể hiểu: "Đất dịch vụ là đất có thu tiền sử dụng đất tại vị
trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp
mà Nhà nước giao cho Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp mà không được Nhà
nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng; mức đất được giao do
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu
hồi của từng hộ gia đình, cá nhân để quy định...Mỗi hộ dân được giao đất
dịch vụ với diện tích bằng 10% đất nông nghiệp bị thu hồi tuỳ qui định cụ
thể của mỗi địa phương."
b. Đặc điểm đất dịch vụ
Giao đất dịch vụ là một chính sách an sinh xã hội mà Nhà nước dành
cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, vì vậy, đất
dịch vụ có những đặc điểm sau:
- Vị trí khu đất đất dịch nằm sát cạnh hoặc bên trong thuộc khu đô thị,
do vậy rất thuận lợi để các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp có

thể dễ dàng buôn bán kinh doanh và làm các dịch vụ cho khu đô thị để tạo thu
nhập ổn định cuộc sống.
- Cơ sở hạ tầng của khu đất dịch vụ có tính đồng bộ, đường rộng ô tô đi
lại thuận tiện và được làm trước hoặc đồng thời với xây dựng khu đô thị.


13

- Đất được cấp để sử dụng ổn định lâu dài, được phép xây nhà cao tầng
để ở hoặc sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, không phải nộp tiền sử dụng
đất khi được phép chuyển mục đích sử dụng đất sang làm đất ở, được bồi
thường về đất theo giá đất ở khi Nhà nước thu hồi đất.
- Sau khi các hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp bốc thăm
vị trí đất dịch vụ của mình thì sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
với điều kiện phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
- Phân đất dịch vụ là một chủ trương rất đúng đắn, hợp lòng dân.
c. Mục đích, yêu cầu của việc giao đất dịch vụ.
-Việc giao đất dịch vụ nhằm từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động
nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo hài hoà lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, địa
phương và người sử dụng đất.
- Giao đất dịch vụ nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của người dân
trong việc tự giải quyết công ăn việc làm, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề,
nâng cao thu nhập, đảm bảo ổn định đời sống nhân dân trước mắt cũng như
lâu dài.
- Giao đất dịch vụ nhằm tạo môi trường dịch vụ tại chỗ, đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt, tiêu dùng cho các khu công nghiệp, khu du lịch và khu đô thị mới.
- Giao đất dịch vụ nhằm tạo niềm tin cho nhân dân với chủ trương
đường lối của Đảng và Nhà nước, khuyến khích và nâng cao ý thức tự giác
của người dân trong việc giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi phục
vụ mục đích phát triển kinh tế xã hội địa phương.

- Việc giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân làm dịch vụ cần đảm bảo
ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường đoàn kết trong
nông thôn, phát triển đồng đều các thành phần kinh tế trên địa bàn phù hợp
với chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.


14

- Việc giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân làm dịch vụ cần thực hiện
thận trọng, phù hợp với khả năng quỹ đất, vốn đầu tư ở từng địa phương, đảm
bảo ổn định phát triển kinh tế nông thôn trên địa bàn tỉnh.
- Quá trình thực hiện phải đảm bảo công bằng, dân chủ, công khai,
đúng đối tượng, phù hợp với chủ trương, chính sách, pháp luật và các quy
định của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn của cấp có thẩm quyền.
- Các hộ đủ điều kiện giao đất dịch vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính
đối với nhà nước, sử dụng đất đúng mục đích, đúng quy hoạch được phê duyệt.
d. Hiệu quả của việc quy hoạch đất dịch vụ
- Xây dựng khu đất dịch vụ mới sẽ có những tác động tới kinh tế xã
hội, tự nhiên và cảnh quan đô thị cho khu vực bị thu hồi đất nói riêng và
Thành phố Hà Nội nói chung.
- Tạo lập một khu đất dịch vụ có hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ hoàn
chỉnh với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật được tính toán và lựa chọn theo các tiêu
chuẩn và quy phạm Nhà nước, đảm bảo hạ tầng theo tiêu chuẩn đô thị.
- Từng bước tham gia quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương và
cải thiện được khí hậu cũng như nâng cao đời sống cho dân cư trong khu vực.
- Tạo tâm lý an tâm cho nông dân khi bị thu hồi đất phục vụ các dự án
phát triển kinh tế của vùng.
1.1.2. Cơ sở của việc giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
1.1.2.1. Cơ sở lý luận của việc giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Thứ nhất, việc giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của hộ gia đình cá nhân có thể được hiểu là hộ gia đình cá nhân được bồi
thường bằng đất kinh doanh dịch vụ, vậy xét về mặt pháp lý, chính sách giao
đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được đặt ra dựa trên cơ sở


15

quyền sở hữu tài sản hợp pháp của nông dân được Hiến pháp và pháp luật bảo
hộ. Ngay từ Hiến pháp 1946 (Điều 12) đã quy định “Quyền sở hữu về tài sản
của công dân được Nhà nước Việt Nam đảm bảo”. Quy định này tiếp tục
được kế thừa tại Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013.
Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định “Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền
sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn
cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi
thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”.
Như vậy, có thể thấy quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân
và tổ chức đã được ghi nhận xuyên suốt trong các bản Hiến pháp nước ta
cũng như đa số các nước trên thế giới. Bởi vậy, khi Nhà nước thu hồi đất để
sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng và
phát triển kinh tế thì quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản hợp pháp gắn liền
với đất bị thu hồi do người sử dụng đất tạo ra đều được xác định là tài sản hợp
pháp của cá nhân và phải được bồi thường.
Thứ hai, xuất phát từ bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước
“của dân, do dân và vì dân”, trải qua bao cuộc kháng chiến trường kỳ và gian
khổ, Nhà nước ta do nhân dân lao động lập nên, đại diện cho ý chí, nguyện

vọng và lợi ích của nhân dân. Đặt trong ý nghĩa đó và xuất phát từ chức năng
xã hội của mình, Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện, hỗ trợ cho người dân
bị mất đất để họ ổn định đời sống, lao động và sản xuất.
Thứ ba, xét về chế độ sở hữu đất đai, tại Việt Nam “đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Điều này đã được quán triệt
trong các văn kiện của Đảng và được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp
luật. Đó là nền tảng lý luận quan trọng cho việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.


16

Thứ tư, xét về mối quan hệ nhân-quả, thiệt hại về lợi ích của người sử
dụng đất là hậu quả trực tiếp từ hành vi Nhà nước thu hồi đất gây ra. Chính vì
vậy, khi Nhà nước thu hồi đất mà làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường và
hỗ trợ cho họ công bằng và đúng pháp luật.
Thứ năm, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ vai trò cơ bản của hệ
thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta đặc biệt là chính sách an sinh xã hội
đối với nông dân là sự cụ thể hóa đường lối của Đảng về quyền con người
trong xã hội. Đó là công cụ góp phần thực hiện công bằng và ổn định xã hội,
và đó cũng là một điều kiện đủ để phát triển xã hội một cách bền vững. Công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh những kết quả to lớn
cũng đặt ra nhiều vấn đề liên quan tới an sinh xã hội. Đảng, Nhà nước ta chủ
trương xây dựng chiến lược phát triển an sinh xã hội đối với nông dân, giúp
họ có điều kiện sản xuất, sinh hoạt và hưởng thụ tốt hơn những thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước Mục tiêu của chính sách này là hướng tới
tất cả các thành viên trong gia đình bị thu hồi đất, bảo đảm an toàn cho các
thành viên của họ khi gặp rủi ro góp phần thực hiện công bằng xã hội và phát
triển bền vững. Ðó cũng là những quy định cụ thể của Nhà nước để bồi

thường, hỗ trợ cho những người có đất bị thu hồi ở từng thời điểm, nhằm bảo
đảm cho người bị thu hồi đất có điều kiện tiếp tục duy trì cuộc sống ổn định.
Cùng đó, đào tạo nghề và giải quyết việc làm là chính sách cơ bản và quan
trọng nhất trong hệ thống chính sách an sinh xã hội (ASXH) với người nông
dân bị thu hồi đất. Thực hiện tốt chính sách này sẽ tạo ra hiệu quả kép và giúp
cho họ có thể tham gia được các chính sách ASXH khác, như bảo hiểm xã hội và
bảo hiểm y tế tự nguyện...
Thứ sáu, Nông nghiệp nông dân, nông thôn hay còn gọi là "tam nông"
(theo cách nói tắt, phổ biến hiện nay) là vấn đề được Đảng Cộng sản Việt
Nam rất quan tâm và coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước. Bởi lẽ,


17

điểm xuất phát của Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo, chiếm đa số trong xã
hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, sự đột phá về chính sách của Đảng cũng được
khởi đầu thực hiện ở lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006), Đảng ta nhấn mạnh: "Hiện nay
và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm
chiến lược đặc biệt quan trọng” [3]. Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X (tháng 8/2008), Đảng đã ra Nghị quyết chuyên về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó khẳng định: "Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh,
quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường
sinh thái của đất nước" [2]. Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như
quá trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong
những năm qua đều khẳng định vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông dân,

nông thôn, đồng thời khẳng định nhận thức đúng đắn của Đảng ta về tầm
chiến lược của vấn đề “tam nông”.
Vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn thể hiện ở chỗ: trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức sản
xuất thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; chủ
động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn;
chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện quy
hoạch xây dựng nông thôn mới; xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá - xã
hội, môi trường ở nông thôn; đảm bảo an ninh trật tự xã hội ở nông thôn, xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở. Để phát huy vai trò của nông dân hiện nay,
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: "Nâng cao trình độ giác ngộ của giai
cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi
nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hỗ trợ,


18

khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của
dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xóa đói, giảm
nghèo, làm giàu hợp pháp" [4]. Quan điểm đó của Đảng, thực sự là những
giải pháp quan trọng để khơi dậy và phát huy vai trò chủ thể của người nông
dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới ở nước ta.
1.1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc giao đất dịch vụ khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
a. Sự cần thiết khách quan của việc thu hồi đất
Với hơn 70% dân số làm nghề nông, đất nông nghiệp là loại đất chiếm
tỷ trọng lớn và có vai trò hết sức quan trọng ở Việt Nam. Do đó, việc thu hồi
đất nông nghiệp sẽ gây ra những tác động lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội

cũng như môi trường mà nếu như không giải quyết tốt vấn đề bồi thường vầ
đất, giao đất để người nông dân có thể kinh doanh dịch vụ có thể dẫn đến
những hệ quả nghiêm trọng như:
Về phương diện chính trị, nếu không giải quyết hài hòa lợi ích giữa
Nhà nước, doanh nghiệp và người dân có đất bị thu hồi sẽ dẫn đến tình trạng
người dân bất bình, khiếu kiện đông người, gây nên sự bất ổn định xã hội,
giảm lòng tin của người dân vào cơ quan Nhà nước, từ đó làm giảm uy tín của
cán bộ với dân. Bên cạnh đó nếu như lợi ích của nhà đầu tư được Nhà nước
bảo đảm và hưởng lợi nhiều hơn so với lợi ích chính đáng của người bị thu
hồi đất sẽ tạo ra sự mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi giữa người dân và doanh
nghiệp. Trong nhiều trường hợp, người dân không thiện chí, thậm chí thể hiện
sự bất hợp tác với doanh nghiệp và Nhà nước khi thực hiện việc thu hồi đất và giải
phóng mặt bằng.
Về phương diện kinh tế, nếu không bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình, cá
nhân bị thu hồi đất nông nghiệp thì sẽ đẩy người nông dân vào cảnh trắng tay khi


×