Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

ẢNH HƯỞNG của KINH tế THỊ TRƯỜNG đối với QUỐC PHÒNG AN NINH VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.43 KB, 72 trang )

Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ẢNH HƯỞNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG AN NINH
VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn
Giảng viên Phan Văn Phúc

Sinh viên thực hiện
Phan Thị Ngọc Hân
Lớp: SP.GDCD Khóa 34
MSSV: 6088027

NĂM 2012
Trang 1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………...…..4


2. Lịch sử nghiên cứu…………………………………………………………..5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………….…...5
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...5
5. Bố cục luận văn………………………………………………………..…….6

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ QUỐC
PHÒNG AN NINH VIỆT NAM………………………………………………….13
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường và những
thành tựu đạt được khi phát triển kinh tế thị trường ở nước ta……………….15
1.1.1. Kinh tế thị trường, tính tất yếu khách quan của việc phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta………………………………………………………15
1.1.2. Quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta……….16
1.1.3. Những thành tựu nổi bật trong việc phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta từ 1986 đến nay………………………………………………………......18
1.2. Quốc phòng an ninh – vai trò và nét đặc thù của quốc phòng an ninh
Việt Nam trong giai đoạn mới……………………………………………………15
1.2.1. Quốc phòng an ninh, vai trò của quốc phòng an ninh……………16
1.2.2. Nét đặc thù của quốc phòng an ninh Việt Nam…………………...18
1.2.3. Những thách thức đặt ra cho quốc phòng an ninh Việt Nam trong
giai đoạn mới……………………………………………………………………....23
1.3. Mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng an ninh………………………23
1.3.1. Phát triển kinh tế xã hội là nền tảng xây dựng quốc phòng an ninh
vững mạnh bảo vệ Tổ quốc……………………………………………………….25
1.3.2. Quốc phòng an ninh vững mạnh là điều kiện để kinh tế xã hội phát
triển bền vững……………………………………………………………………..28
Trang 2


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

Chương 2: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG AN NINH VIỆT NAM HIỆN NAY………………..28
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc kết hợp phát triển
kinh tế thị trường và tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh………………..30
2.2. Những tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với quốc phòng an
ninh…………………………………………………………………………………30
2.2.1. Kinh tế thị trường phát triển là điều kiện để ta xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh………………………………....34
2.2.2. Kinh tế thị trường phát triển là điều kiện để ta xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh…………………37
2.2.3. Kinh tế thị trường phát triển là điều kiện để xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân hùng mạnh…………………………………………………….....41
2.3. Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với quốc phòng an
ninh nước ta hiện nay…………………………………………………………..…41
2.3.1. Ảnh hưởng của đầu tư khi phát triển kinh tế thị trường đối với
quốc phòng an ninh quốc gia………………..……………………………………41
2.3.2. Tác động của tệ nạn xã hội trong việc củng cố xây dựng quốc phòng
an ninh quốc gia……………………………………………………………..…....44
Chương 3 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VÀ TĂNG CƯỜNG TIỀM LỰC QUỐC PHÒNG AN NINH
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM……………………………………………………...50
3.1. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm kết hợp kinh tế - xã hội với quốc
phòng an ninh……………………………………………………………………..50
3.2. Tăng cường vai trò của pháp luật trong quản lý kinh tế xã hội……….54
3.3. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và ứng dụng thành tựu khoa học công
nghệ trong phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực quốc phòng an

ninh…………………………………………………………………………………56
3.4. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng………………………….58

Trang 3


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

3.5. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng –
an ninh trong phát triển các vùng lãnh thổ……………………………………...61
3.6.Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế
trong giai đoạn mới………………………………………………………………..61
PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………………..64
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………...67

Trang 4


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu về kinh tế - xã hội ở nước ta sau hơn 25 năm đổi mới vừa
qua cho thấy sự đúng đắn và sáng tạo của những chủ trương, đường lối, chính sách
mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Kể từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới đã đưa nước ta thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân
được cải thiện; mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được giữ vững và
tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đảng ta cũng đã xác định phát triển kinh tế thị trường, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam phải đảm bảo kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an
ninh : “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng
an ninh , coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”.
Nhờ những thành tựu đạt được trong thời kì phát triển kinh tế thị trường vừa
qua, chúng ta có điều kiện vật chất để tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh quốc
gia, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có lực lượng vũ
trang, có điều kiện để xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,…
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta cũng làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội
như tình trạng thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội gia tăng, tác động xấu
đến môi trường…Nhứng mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
tuy đã được hạn chế ở mức tối đa nhưng nó vẫn tác động rất mạnh mẽ đến quốc
phòng an ninh Quốc gia.
Trang 5


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

Để làm rõ những vấn đề nêu trên cũng như góp phần phát triển kinh tế, quốc

phòng an ninh nước nhà em xin chọn đề tài ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với
quốc phòng an ninh Việt Nam hiện nay làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài này là sự ảnh hưởng của kinh tế
thị trường đối với quốc phòng an ninh ở Việt Nam. Tuy nhiên đây là vấn đề tương
đối rộng, nên em chỉ dừng lại trong phạm vi tìm hiểu về thực trạng phát triển của
kinh tế thị trường và ảnh hưởng của sự phát triển đó với công tác quốc phòng an
ninh hiện nay. Từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc
phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh trong phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ thực trạng phát triển của kinh tế thị
trường và ảnh hưởng của nó đối với quốc phòng an ninh nước ta. Đồng thời tìm ra
những giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực quốc
phòng an ninh trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ:


Làm rõ ảnh hưởng của của kinh tế thị trường đối với quốc phòng an

ninh nước ta hiện nay.


Tìm ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế và tăng

cường tiềm lực quốc phòng an ninh trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp luận: Dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về kinh tế thị trường, quốc phòng an ninh làm nền tảng và là kim chỉ nam
cho sự nghiệp xây dựng kinh tế thị trường và củng cố quốc phòng an ninh trong giai
đoạn mới, giai đoạn đổi mới đất nước nói chung và các quan điểm của Đảng về vấn
đề này.
Trang 6


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để thực hiện đề tài này tác giả kết hợp
nhiều phương pháp: Phương pháp lịch sử, logíc, phương pháp phân tích tổng hợp,
thu thập và xử lý tài liệu để nghiên cứu đề tài từ đó giúp tác giả tránh được hiện
tượng giáo điều và máy móc trong quá trình nghiên cứu.
5. Bố cục luận văn.
Đề tài này được trình bày theo 3 phần: - Phần mở đầu
- Phần nội dung:
Chương I: Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường đối với quốc phòng an
ninh quốc gia.
Chương II: Thực trạng ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với quốc
phòng an ninh nước ta hiện nay.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh
tế và tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Phần kết luận: tổng kết lại vấn đề.

Trang 7



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc
Chương 1

MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VÀ QUỐC PHÒNG AN NINH VIỆT NAM
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường và những
thành tựu đạt được khi phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
1.1.1. Kinh tế thị trường, tính tất yếu khách quan của việc phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong đó toàn bộ quá trình
sản xuất và tái sản xuất được gắn chặt với thị trường. Trong kinh tế thị trường, việc
tái sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều xuất phát từ nhu cầu
thị trường, do thị trường quyết định. Tiêu dùng cái gì cũng do thị trường quyết định.
Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển sang vận hành theo cơ chế mới từ Đại
hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986. Đại hội khẳng
định đường lối đổi mới kinh tế của Việt Nam phải: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa
có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên Chủ nghĩa xã hội”, coi chính sách kinh tế
nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối kinh tế ấy được tiếp tục khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ đã khẳng định: “ Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước.”
Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam (4 – 2001) đã chỉ rõ: “ Thực
hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội

chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng cộng sản Việt Nam
khẳng định nhiệm vụ chủ yếu của nền kinh tế là “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[10,tr.321], ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới
mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo
Trang 8


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng,
hiệu quả của nền kinh tế.
Thực tiễn chứng tỏ rằng sự lựa chọn ấy là đúng đắn, xét trên cả tầm chiến
lược lâu dài, lẫn từ cấp độ tính cấp bách và gay gắt của tình hình Việt Nam tại thời
điểm đó, dưới áp lực gay gắt của thực tiễn trong nước và ngoài nước.
Sau chiến tranh, nước ta bị tàn phá rất nặng nề, Đảng ta lại tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội rập khuôn theo mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô mà quên
đi điều kiện kinh tế - xã hội của nước nhà, xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp. Chính nền kinh tế này đã đẩy nước ta vào tình trạng hết sức
khó khăn, khủng hoảng trầm trọng và kéo dài: sản xuất phát triển chậm, kém hiệu
quả và bấp bênh, tình trạng thiếu hụt, khan hiếm hàng hóa (kể cả lương thực, dẫn
đến nạn đói khủng khiếp vào mùa xuân Ất Dậu năm 1945, làm hơn 2 triệu người
chết từ Quảng Trị ra miền Bắc); lạm phát cao (774,7% năm 1987), đời sống nhân
dân rất khó khăn… Do đó, đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế cũ, lạc hậu và phát triển
kinh tế đã trở thành đòi hỏi bức thiết và tất yếu, xuất phát từ thực tiễn, từ chính lợi
ích bảo vệ con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ quốc tế, bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỉ XX, nhiều sức ép bất lợi đối với
sự phát triển kinh tế của Việt Nam cũng đã xuất hiện và gia tăng ngày càng mạnh.

Chính phủ Mỹ thi hành chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam từ cuối thập
niên 70 nhằm đặt nền kinh tế Việt Nam vào thế cô lập, suy yếu và dẫn tới sụp đổ.
Viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa - nguồn lực phát triển hết sức quan trọng đối
với Việt Nam cũng bị suy giảm khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ sáu
khóa IV (8 – 1979), với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”, có thể coi là sự “đột
phá đầu tiên” trong việc thay đổi chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý
nghĩa là khắc phục những khuyết điểm sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào
chắn để cho lực lượng sản xuất nước ta phát triển. Việc chuyển nền kinh tế nước ta
từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường là
Trang 9


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với nguyên lý phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin và
hoàn cảnh thực tiễn nước ta.
Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường đối với những nước có trình độ phát triển
cao như Liên Xô (trước đây) là tất yếu, thì đối với nước ta, một nước nông nghiệp có
trình độ phát triển kém về mọi mặt thì kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường đối với
nước ta lại là cần thiết. Nó đáp ứng yêu cầu bức xúc của thực tiễn cho phép giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có của đất nước vào sản xuất mà trước đây trong
thời kì thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp nhiều tiềm năng của đất
nước không được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Ở nước ta, trong thời kì quá độ còn tồn tại nhiều hình thức sỡ hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất, gắn liền với nó là nhiều thành phần kinh tế, là tất yếu khách

quan, nó do đặc điểm kinh tế của thời kì quá độ qui định. Nguyên nhân cơ bản của
sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sỡ hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xét đến cùng là do quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nước
ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất
còn ở trình độ thấp, lại phân bố không đều giữa các nghành, các vùng trong phạm vi
cả nước. Nền sản xuất xã hội bao gồm rất nhiều trình độ công nghệ khác nhau: thủ
công, cơ khí, nửa cơ khí. Quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất chưa cao, chưa
đồng đều, do đó cũng đòi hỏi phải có nhiều hình thức sỡ hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất, gắn liền với nó là nhiều thành phần kinh tế, là tất yếu khách quan.
Trong thời kì thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
chúng ta nôn nóng muốn nhanh chóng xóa bỏ sỡ hữu tư nhân, chỉ thừa nhận sỡ hữu
toàn dân và sỡ hữu tập thể, thực chất là đã xóa bỏ đi cơ sở và điều kiện cần thiết cho
sự tồn tại của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Sỡ dĩ như vậy là do ta chưa nhận
thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò của sỡ hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong thời
kì quá độ, việc nhận thức và vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin,
đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất còn bị hạn chế.

Trang 10


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

Sau đại hội VI của Đảng, nền kinh tế nhiều thành phần cũng như nhiều hình
thức sỡ hữu khác nhau trong thời kì quá độ ở nước ta được Đảng ta khẳng định về
mặt lý luận và được phép tồn tại trên thực tế. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là
cơ sở để phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường này do

sự tác động của các quy luật kinh tế (như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,quy
luật cung cầu) và sự quản lý, điều tiết của nhà nước, có tác động phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật nhằm không ngừng nâng cao
đời sống nhân dân.
Như vậy, việc chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường là tất yếu
khách quan, phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và đáp ứng yêu cầu
thực tiễn đặt ra của đất nước.
1.1.2. Quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta
Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta rất phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm đơn giản
và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình thành và phát
triển kinh tế thị trường. Căn cứ vào trình độ phát triển, mức độ chín muồi của các
quan hệ hàng hóa – tiền tệ cũng như sự hình thành, phát triển của các loại thị trường,
có thể phân chia quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta thành các giai
đoạn sau:
 Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Đứng trước thực trạng nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn trong quá trình
phát triển. Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ sáu (khóa IV) của Đảng đã
họp vào tháng 9 – 1979. Đây là hội nghị quan trọng, tại hội nghị này Đảng ta đã
quyết định nhiều vấn đề mang tính bước ngoặt trong việc chuyển đổi cơ chế kinh tế
nhằm khắc phục tình trạng trì trệ, yếu kém của nền kinh tế. Hội nghị đã quyết định
xóa bỏ tình trạng cấm chợ, ngăn sông để hàng hóa lưu thông thuận lợi giữa các địa
phương, bảo đảm tháo gỡ những vướn mắc trong lưu thông, phân phối, hội nghị
cũng chủ trương bung ra trong sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là
nhanh chóng khắc phục tính hiện vật trong quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ
Trang 11


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

hàng hóa – tiền tệ trên thị trường. Trong thời kì thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp, quan hệ hàng hóa tiền tệ dường như bị thủ tiêu trên thực tế, vật tư,
nguyên liệu lưu chuyển trong nội bộ khu vực kinh tế quốc doanh được thực hiện chủ
yếu thông qua chế độ cấp phát, giao nộp, hàng hóa bán thấp hơn giá trị rất nhiều,
đồng tiền có sức mua khác nhau và mất vai trò vật ngang giá. Việc khắc phục tính
hiện vật trong quan hệ trao đổi sẽ tạo ra những điều kiện để kinh tế hàng hóa vận
hành theo đúng những quy luật vận động nội tại vốn có của nó, đảm bảo cho các
quan hệ thị trường phát triển. Để có kinh tế hàng hóa, đòi hỏi phải có những đơn vị
sản xuất hàng hóa, vì vậy ở giai đoạn này bắt đầu hình thành và củng cố những đơn
vị sản xuất hàng hóa. Những tư tưởng kinh tế quan trọng của Hội nghị Trung ương
lần thứ sáu (khóa IV) có liên quan tới các giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa là:


Thừa nhận kinh tế tư nhân và thị trường tự do là một bộ phận của nền

kinh tế quốc dân và thị trường xã hội.


Bảo đảm quyền tự chủ về tài chính cho các cơ sở kinh tế của Nhà nước

để những cơ sở này được chủ động phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa.


Nhấn mạnh quan tâm hơn tới lợi ích cá nhân của người lao động và các

đơn vị sản xuất ở cơ sở.



Bãi bỏ chế độ giao nộp nông sản đối với nông dân, chuyển sang chế độ

thu mua nông sản theo hợp đồng hai chiều.
Đối với các chính sách kinh tế được thực hiện trong thời gian này, đặc biệt là
chính sách về giá cả, đã góp phần quan trọng trong việc thiết lập các mối quan hệ
hàng hóa – tiền tệ trên thị trường. Đây là khâu quan trọng tạo tiền đề cho đổi mới
kinh tế trong các lĩnh vự như tài chính, tiền tệ, tiền lương, quản lý thị trường… Việc
tự do hóa giá cả đã làm cho sản xuất thích ứng, nhạy cảm với nhu cầu thị trường và
đem lại sức sống mới cho sản xuất.
 Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa IV) cùng với nhiều chủ trương,
chính sách kinh tế được ban hành, nền kinh tế nước ta đã có những biến chuyển lớn,
tuy nhiên trong thực tế tình trạng sa sút , yếu kém vẫn còn tác động rất lớn đến đời
sống xã hội. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã thừa nhận cả về
Trang 12


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

mặt lý luận và trên thực tế nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Quan điểm này lại được tiếp tục khẳng định rõ hơn ở
Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là phát triển và mở rộng quan hệ hàng
hóa – tiền tệ, tạo điều kiện, tiền đề cho kinh tế hàng hóa phát triển. Hội nghị lần thứ
sáu ban Chấp hành Trung Ương đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi nhanh vào cuộc

sống. Chính sách ấy góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi
dậy được nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch
vụ, tạo thêm việc làm và sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển
nền kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường. Việc thừa nhận
kinh tế nhiều thành phần tất yếu cũng thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân và
nhiều hình thức sỡ hữu khác nhau đã tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa phát triển
mạnh hơn.
Để đảm bảo thực hiện những yêu cầu nói trên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế đã được thực hiện cả về cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng
kinh tế và cơ cấu hướng ngoại.
 Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường.
Những quan điểm và chính sách đổi mới về kinh tế - xã hội do Đại hội VI của
Đảng đề ra được cụ thể hóa và phát triển trong quá trình thực hiện, đặc biệt là những
giải pháp tích cực từ năm 1988 đã đưa tới những thành tựu bước đầu rất quan trọng:
hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; xóa bỏ về cơ bản cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp, bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước; giảm tốc độ lạm phát; đáp ứng tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm và hàng
tiêu dùng; tăng nhanh xuất khẩu và có bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại.
Đây là giai đoạn tiền tệ hóa các quan hệ kinh tế tạo lập cơ sở kinh tế cho các
quy luật kinh tế của thị trường phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế
trong nước và hòa nhập với kinh tế thế giới.

Trang 13


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

Phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Hoàn

thiện và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, về
sức lao động và điều kiện vật chất khác cho sản xuất. Thiết lập cơ cấu thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Lựa chọn chính sách khoa học và công nghệ vì mục tiêu
phát triển. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là công nghệ điện tử,
công nghệ sinh học và và gia công nguyên liệu… Hướng công nghệ này sẽ khắc
phục được sự khan hiếm các nguồn lực và đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu,
trong đó lao động trí óc trở thành đặc trưng nổi bật.
Để tiếp tục phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Đại
hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cập và nhấn mạnh tới việc cần
thiết tạo lập sự đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường bao gồm phát triển thị
trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường khoa
học – công nghệ thị trường bất động sản…
Sự hình thành, phát triển đồng bộ và tiến tới hoàn thiện các loại thị trường
trên đây đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật đông đảo và tài
năng, tận tụy với sự nghiệp xây dựng đất nước.
1.1.3. Những thành tựu nổi bật trong việc phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta từ 1986 đến nay
Từ năm 1986 đến nay, nước ta đã trải qua hàng loạt các cuộc khủng hoảng
kinh tế- tài chính - xã hội, nó đã gây ra không ít khó khăn thách thức nhất định cho
quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta. Vượt qua những khó khăn và thách thức đó, Đảng, Nhà nước, toàn
quân, toàn dân ra sức thực hiện các nghị quyết, chính sách thích hợp để phục hồi và
xây dựng nền kinh tế thị trường. Đến nay cơ bản đã đạt được những thành tựu quan
trọng:
Nền kinh tế đã vượt qua thời kì suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và
phát triển tương đối toàn diện. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân trong
các năm: từ năm 1991 – 1995: bình quân tăng 8,2% (kế hoạch là 5,5% - 6,5%); từ
năm 1996 – 2000 tăng bình quân 7%; 2001 – 2005 tăng bình quân 7,51%, GDP năm
2005 theo giá hiện hành đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người trên 10 triệu
Trang 14



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

đồng, tương đương khoảng 640 USD; năm năm 2006 – 2010 tăng bình quân 7,26%,
tổng sản phẩm trong nước năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD gấp 3,26 lần
so với năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Kinh tế vĩ mô tương đối
ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại
hóa, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hoàn thiện.
Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới,
một số sản phẩm đã có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khối lượng hàng hóa
bán lẻ trên thị trường xã hội tăng gấp đôi so với trước đây, việc mua bán thuận tiện
hơn, khách hàng được coi trọng hơn so với thời kỳ bao cấp, do vậy đã tạo được sự
phấn khởi và đồng tình của nhân dân.
Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập
trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có
năng suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công
nghiệp,… đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xóa đói, giảm
nghèo. So với trước đây, đời sống vật chất của phần lớn nhân dân ta được cải thiện
rõ rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm
xuống, mặc dù mức sống của nhân dân ta so với nhiều nước trong khu vực nhìn
chung còn thấp. Tính chung trong cả nước, mỗi năm chúng ta đã tạo ra 1,2 – 1,3
triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% xuống còn 11%. Công tác kế hoạch
hóa gia đình có nhiều tiến bộ, tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,31% xuống còn 1,53%.
Tuổi thọ bình quân của người dân tăng từ 65 tuổi lên 75,2 tuổi năm 2011.
Đã có thêm nhiều nhà ở và đường giao thông được cải tạo, xây dựng, nâng
cấp, và xây dựng mới nhiều hạng mục cơ sở hạ tầng ở cả nông thôn và thành thị.
Công tác phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, ngăn chăn dịch bệnh có nhiều

tiến bộ. Thể dục, thể thao có bước phát triển hơn so với trước, mặc dù còn phải phấn
đấu nhiều để tiến kịp các nước trong khu vực.
Trình độ dân trí và mức độ hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên.
Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin đại chúng
và mạng lưới điện đã về tới phần lớn các vùng nông thôn. Qui mô giáo dục và đào
tạo tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của
Trang 15


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

nhân dân. Phong trào học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý, ngoại
ngữ,…phát triển nhanh.
Các hoạt động “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc các
lão thành cách mạng, người có công với nước, các hoạt động nhân đạo – từ thiện, ....
được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Việc phòng chống tệ nạn xã hội như trộm cướp,
cờ bạc, mại dâm, tham nhũng, ma túy, … đã có những cố gắng bước đầu.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tính năng động, sáng
tạo của nhân dân đã được khơi dậy và được phát huy. Tính ỷ lại trông chờ Nhà nước,
dựa dẫm tập thể được khắc phục đáng kể. Nền kinh tế đất nước từng bước thích nghi
với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn và rất quan trọng đạt được sau hơn 25
năm đổi mới đã làm cho lòng tin của nhân dân ta đối với Đảng, đối với Nhà nước
được nâng lên. Đây chính là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh.
1.2. Quốc phòng an ninh – vai trò và nét đặc thù của quốc phòng an ninh
Việt Nam trong giai đoạn mới

1.2.1. Quốc phòng an ninh, vai trò của quốc phòng an ninh
Quốc phòng theo nghĩa rộng là công cuộc giữ nước của một quốc gia bao
gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa, khoa học… của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, bằng sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, với sự mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang là
nòng cốt.
Vì vậy, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng yếu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân là tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện,
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường để:


Bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa.


Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.



Bảo vệ nhân dân và lợi ích quốc gia dân tộc.
Trang 16


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

Tạo sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn


hoá, xã hội, khoa học, công nghệ để giữ vững hoà bình, ổn định, đẩy lùi, ngăn chặn
nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức
và quy mô.


Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.



Bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.



Bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá, xã

hội; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hoà bình, tạo điều kiện phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công tác quốc phòng là một lĩnh vực rộng lớn, đa dạng, phức tạp, có liên
quan đến mọi cấp, mọi ngành, mọi tầng lớp xã hội; là lĩnh vực có quan hệ đến sự
mạnh hay yếu, sinh tồn, an ninh, phát triển và sống còn của một quốc gia. Vì vậy,
xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là điều vô
cùng cần thiết.
1.2.2. Nét đặc thù của quốc phòng an ninh Việt Nam
Ở nước ta, xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, nhất là từ khi có Đảng,
Đảng ta luôn xác định và nhất quán quan điểm: Nền quốc phòng của ta là nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân, của dân, do dân và vì dân, trong đó Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Nền Quốc phòng toàn dân: Là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, của
dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự

cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của nhà nước, do nhân dân làm
chủ, nhằm giữ vững hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành
động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
“Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước được xây
dựng trên nền tảng nhân lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường.”

Trang 17


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

An ninh nhân dân: Là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực
lượng an ninh nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp
nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành động xâm
phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cùng với toàn dân bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ
chính đáng. Đặc trưng thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc
phòng an ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa với các nước khác. Chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân
vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân có sức mạnh tổng hợp do nhiều

yếu tố tạo thành. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, an ninh nước ta tạo thành
bởi rất nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, khoa học, quân sự, an
ninh… cả ở trong nước, ngoài nước, của dân tộc và thời đại, trong đó những yếu tố
bên trong của dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng hợp của
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề và là biện pháp để nhân
dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện và từng
bước hiện đại. Việc tạo ra sức mạnh quốc phòng, an ninh không chỉ ở sức mạnh
quân sự, an ninh mà phải huy động được sức mạnh của toàn dân về mọi mặt chính
trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, khoa học. Phải kết hợp hữu cơ giữa quốc
phòng, an ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa quốc
phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại.
Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là nền quốc phòng lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam
Trang 18


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

(tháng 6 – 1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho mọi hành động” [7,tr.127], do đó sự
vững vàng về mặt lý luận chính trị của lực lượng cán bộ là điều vô cùng quan trọng
trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là nền quốc phòng – an ninh
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI khẳng định: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân

và sự nghiệp quốc phòng an ninh”[11,tr.45–46]. Xây dựng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước, trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có số lượng dự bị động viên hùng hậu, dân
quân tự vệ rộng khắp.
Nền quốc phòng an ninh Việt Nam cho phép tập hợp rộng rãi sức mạnh của
toàn dân trong công cuộc chống giặc giữ nước cũng như xây dựng đất nước trong
thời kì đổi mới. Đó là những nét đặc trưng rất riêng của quốc phòng an ninh Việt
Nam, tạo điều kiện về mọi mặt cho kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển.
1.2.3. Những thách thức đặt ra cho quốc phòng an ninh Việt Nam trong
giai đoạn mới
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực có những biến đổi to lớn và sâu sắc, với
nhiều mối quan hệ đan xen, đa dạng và phức tạp. Trong đó, các nước với chế độ xã
hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đối với nước ta, trong xu thế hoà bình, hợp
tác và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ (nhất là khi nước ta là thành
viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm
2010), các mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, trên thế giới và
các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ cũng mở rộng hơn về quy mô, phát triển
cao hơn về cấp độ, phong phú, đa dạng hơn về hình thức, quyền hạn và nghĩa vụ
quốc tế của Việt Nam cũng tăng lên, nặng nề hơn. Cùng với đó, những thách thức về
an ninh đối với nước ta cũng đa dạng, phức tạp và nguy hiểm hơn.
Trang 19


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm

vào thoái trào nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn kiên định
mục tiêu, lý tưởng, tiến hành đổi mới, cải cách, giành được những thành tựu mới,
quan trọng, tiếp tục trụ vững và phát triển. Tuy nhiên các nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản vẫn gặp nhiều khó khăn gay gắt, các thế lực thù
địch tiếp tục chống phá, tìm mọi cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Trong đó, chiến lược
“diễn biến hòa bình” được coi là biện pháp hữu hiệu hàng đầu. Đặc biệt, sau khi
Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã cho rằng: Liên Xô sụp đổ “là hồi chuông báo tử dành cho
phong trào cộng sản quốc tế”, là “cú trời giáng đánh vào các chính phủ cộng sản
khác” và “cộng sản đã hết thời” ở Việt Nam. Thế nhưng, đất nước ta đã không sụp
đổ theo mà ngược lại đã tiến hành đổi mới thành công, vững bước tiến lên trong một
thế giới đầy biến động phức tạp và khó lường. Điều đó đã làm thất vọng các thế lực
thù địch với chủ nghĩa xã hội và đất nước, dân tộc ta. Việt Nam có vị trí hết sức quan
trọng về địa – chính trị, địa – kinh tế, địa – quân sự. Do vị trí đó, sự tiếp tục tồn tại
và phát triển của một nước xã hội chủ nghĩa và một Đảng Cộng sản cầm quyền ở
Đông Nam Á làm cho các lực lượng chống cộng, thù địch tìm mọi cách để chống
phá hòng làm sụp đổ chế độ xã hội nghủ nghĩa nước ta, chống phá làm tan rã Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Để thực hiện âm mưu trên, các thế lực thù địch đã và đang chống phá Việt
Nam toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại,
… Đặc biệt, các thế lực thù địch xác định lĩnh vực quốc phòng an ninh và lực lượng
vũ trang là một trong những mục tiêu trọng yếu, phải tập trung làm suy yếu và phá
hoại. Tham vọng ngông cuồng của họ là xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực quốc phòng an ninh và
đối với lực lượng vũ trang. “Phi chính trị hóa” lực lưỡng vũ trang là mục tiêu lâu dài,
xuyên suốt mà các thế lực thù địch tập trung phá hoại bằng nhiều thủ đoạn hết sức đa
dạng, bí mật và thâm độc nhằm làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục tiêu, lý tưởng
cách mạng, mất phương hướng, không làm tròn vai trò lực lượng nòng cốt trong đấu
tranh, đặc biệt trong trong những “thời điểm nóng” và bất ngờ. Kẻ thù luôn tìm cách
xuyên tạc và bôi nhọ bản chất, truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang nhân dân,
Trang 20



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

gây li gián lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, chia rẽ sự đoàn kết gắn bó
máu thịt giữa quân đội với nhân dân, gieo rắt tư tưởng hoài nghi trong nhân dân.
Để phá hoại an ninh quốc gia, các thế lực thù địch đã đồng thời sử dụng một
nhóm kẻ phản động người Việt Nam ở nước ngoài móc nối với các tổ chức phản
động trong nước, hỗ trợ, kích động các đối tượng cực đoan, phản động đội lốt tôn
giáo, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta để truyền bá mê tín dị
đoan và tư tưởng phản động chống chủ nghĩa xã hội, chống phá chính quyền, đe dọa
an ninh, tổ chức bạo loạn lật đổ.
Tiến hành phá hoại kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong các mục tiêu phá
hoại, chúng rất chú trọng phá hoại các mục tiêu tài chính, tín dụng, ngân hàng như:
in tiền giả, tuồn hàng lậu với khối lượng lớn, phá giá tiền tệ, từ đó kích động chiến
tranh chống tham nhũng đòi ruộng đất, đòi cải thiện đời sống… hòng gây đột biến về
kinh tế - xã hội, mất an ninh kinh tế và an ninh chính trị.
Sự truyền bá văn hóa, lối sống Mỹ và phương Tây: xâm nhập “video đen”,
xuất bản lưu hành sách báo, bản nhạc xấu, gieo rắt văn hóa tư sản độc hại khuyến
khích lối sống tư bản xa hoa đồi trụy, … kích động đòi lối sống vượt quá yêu cầu
của khả năng kinh tế. Lấy việc khống chế từ bên trong và khống chế điều chỉnh từ
bên ngoài vào, để tạo ra áp lực đối với nền kinh tế nước ta và thông qua kinh tế để
buộc ta phải chấp nhận các điều kiện chính trị để đi đến cuối cùng là xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Dùng kinh tế để mua chuộc, lôi kéo, làm tha hóa cán bộ tạo tâm lý xã hội
chạy theo đồng tiền, theo lợi nhuận, làm giảm sút ý thức chính trị và đạo đức phẩm
chất, lối sống lành mạnh văn minh. Từ đó tiêu cực phát sinh lan tràn, tham nhũng hối
lộ, buôn lậu, phạm pháp ngày càng gia tăng. Gây xói mòn uy tín ảnh hưởng Đảng,

mơ hồ mất cảnh giác, tạo điều kiện thâm nhập hoạt động chống phá, lật đổ chế độ ta.
Vấn đề dân tộc hiện nay đang là mục tiêu mà kẻ thù hết sức chú trọng lợi
dụng. Khai thác những vấn đề mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây
ra để chia rẽ khối doàn kết các dân tộc, tạo dựng ra những mâu thuẫn mới đối kháng
nhau, dấy lên trò lưu tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đòi quyền tự quyết theo kiểu dân tộc
chủ nghĩa, tự trị li khai. Tận dụng những cơ hội, những khía cạnh phức tạp trong giải
Trang 21


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

quyết một số vấn đề chưa hợp lý trong các chính sách kinh tế, xã hội của Đảng và
Nhà nước ta để kích động làm bùng nổ các cuộc đòi “dân chủ”, đòi tôn trọng
“quyền” của các dân tộc, gây rối loạn tình hình trong nước. Chú trọng vào các dân
tộc ít người, dân tộc thiểu số, lợi dụng sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh
tế - xã hội giữa các dân tộc ít người với các dân tộc khác, giữa vùng đô thị, vùng núi
với đồng bằng, khai thác tính kì thị, hẹp hòi tập tục và sự mê tín trong nhân dân. Đặc
biệt chúng coi trọng yếu tố tâm lý và sự dồn nén những khó khăn đời sống vật
chất… làm trỗi dậy trong dân chúng sự bất bình với chế độ, nhằm hướng vào những
mục tiêu mà chúng đã đặt ra.
Âm mưu và thủ đọa “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc rất nham
hiểm. Song thủ đoạn này đạt kết quả đến mức độ nào hoàn toàn không phải do bọn
chúng và các thế lực bên ngoài nhất định. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết
tâm xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh vững mạnh để vượt qua những khó khăn
và thách thức mà thời đại đã đặt ra cho chứng ta, quyết tâm đánh bại những âm mưu
chống phá của chủ nghĩa đế quốc và lực lượng phản động.
Bên cạnh đó, sự tranh chấp chủ quyền biển đảo, khai thác tài nguyên ở Biển
Đông, đặc biệt là ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa giữa Việt Nam với một

số nước láng giềng sẽ diễn biến ngày càng phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề an
ninh nước nhà. Trong thời gian qua, vấn đề nổi cộm lên là việc Trung Quốc đã đưa
ra bản đồ đường đứt khúc gồm 11 đoạn mà ta gọi là đường “lưỡi bò” vẽ bao gộp các
quần đảo Đông Sa, Hoàng Sa, Trường Sa và bãi ngầm Trung Sa, có điểm giới hạn
phía Nam là vĩ tuyến 40. Tuy nhiên sau đó đường 11 đoạn đã được điều chỉnh thành
9 đoạn, bỏ 2 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ, không rõ nguyên nhân. Trung Quốc đã rất
khôn ngoan trong việc lợi dụng những “lỗ hổng” của công pháp quốc tế nói chung,
trong đó có Công ước luật biển năm 1982. Công ước luật biển quy định quyền của
các quốc gia ven biển như Việt Nam được quyền thăm dò khai thác các tài nguyên
sinh vật và không sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế (kéo dài 200 hải lý tính từ
đường cơ sở), cũng như việc khai thác các tài nguyên không sinh vật cùng tài
nguyên sinh vật định cư tại vùng đất nằm phía dưới của vùng đặc quyền kinh tế đó.

Trang 22


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

Tuy nhiên, tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa dưới đó, các tàu dân sự của
các quốc gia khác lại được Công ước cho phép “quyền đi qua không gây hại”.
Chính vì vậy, từ năm 2009, Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu ngư chính để
“thi hành lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông”, thực chất là để phá hoại các tàu cá
của các nước trong đó có Việt Nam và Philippines. Khi bị Việt Nam phản đối mạnh,
Trung Quốc đã đổi “chiêu”, không sử dụng các tàu hải giám nữa mà cho các tàu cá
cải trang có các tàu ngư chính đi kèm tấn công tàu Việt Nam. Nếu Việt Nam lại phản
đối, Trung Quốc sẽ bảo rằng đó là các tàu dân sự (nên có quyền đi qua không gây
hại trên vùng đặc quyền kinh tế của nước khác) và hải quân Trung Quốc không đứng
đằng sau các sự kiện đó. Thế nhưng, nếu các tàu Việt Nam không kiềm chế được

cơn nóng giận, nổ súng vào “tàu dân sự” đó của Trung Quốc, chắc chắn hải quân
Trung Quốc sẽ xuất hiện ngay.
Tàu cá Trung Quốc cũng vào tận các đảo Nam Yết, Sinh Tồn, An Bang
(thuộc huyện đảo Trường Sa, Khánh Hòa) để khai thác trộm thủy hải sản. Khi phát
hiện, lực lượng chức năng Việt Nam đã yêu cầu họ ra khỏi khu vực. Chỉ từ ngày
30/4/2011 đến ngày 3/5/2011, tại tọa độ 10-15 độ vĩ bắc, 111 độ 40’-113 độ 30’ kinh
đông (cách TP Tuy Hòa, Phú Yên khoảng 150 hải lý) thuộc vùng biển chủ quyền của
Việt Nam, có đến 200 tàu cá Trung Quốc ngang nhiên hành nghề câu mực tại đây.
Khi gặp tàu cá Trung Quốc xâm phạm ngư trường, ngư dân mình yêu cầu họ rời khỏi
ngư trường, họ không những nằm lì mà còn dùng hung khí đe dọa. Trong trường hợp
số lượng tàu cá của Trung Quốc ít hơn thì họ gọi tiếp viện chỉ sau 15 - 20 phút, hàng
chục tàu cá Trung Quốc có mặt, quây quanh nên tàu cá ngư dân mình chỉ còn biết bỏ
đi nơi khác. Gần đây nhất là việc tàu khảo sát địa chấn Bình Minh 02 và Viking II bị
tàu Trung Quốc tấn công cắt cáp, tàu Trung Quốc yêu cầu tàu Bình Minh 02 và
Viking II phải rời khỏi khu vực khảo sát vì đã “xâm phạm chủ quyền lãnh hải Trung
Quốc thực hiện công việc khảo sát trái phép”, mặc dù tàu Bình Minh 02 và Viking
II đang thu nổ thuộc phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa Việt Nam, hoàn toàn thuộc
chủ quyền của Việt Nam theo Công ước về luật biển quốc tế năm 1982.
Những hành động của Trung Quốc trong thời gian vừa qua đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tình hình an ninh nước ta, khi người dân bức xúc về vấn đề này,
Trang 23


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

một số phần tử phản động sẽ kích động nhân dân tiến hành biểu tình gây mất trật tự
an toàn xã hội, rối loạn an ninh trong nước gây sức ép lên Đảng và Nhà nước tiến
hành chiến tranh, từu đó lợi dụng chiến tranh đè bẹp Việt Nam. Vì vậy, vấn đề tăng

cường quốc phòng - an ninh quốc gia trong thời đại ngày nay là hết sức cần thiết.
1.3. Mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng an ninh
1.3.1. Phát triển kinh tế xã hội là nền tảng xây dựng quốc phòng an ninh
vững mạnh bảo vệ Tổ quốc
Trong suốt quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, chúng ta chưa xây dựng được nền công nghiệp quốc phòng, chưa tự sản xuất
được vũ khí cung cấp cho chiến trường, cho chiến đấu, mà phần lớn phải nhờ vào
viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, phần còn lại là do ta thu
được trong các trận chiến.
Nhận định về giặc Pháp, Hồ Chí Minh toàn tập tập 6 có đề cập câu nói của
Bác, Bác Hồ nói: “Bọn giặc Pháp có một lịch sử quân sự nổi tiếng từ hơn 150 năm
nay, kể từ Napôlêông. Ngoài cái truyền thống đó, chúng còn có hải quân, lục quân,
có nhiều máy bay và và các khí giới tối tân [18,tr.623]. Còn ta, “Đến năm nay, lịch
sử quân đội ta mới có hơn 10 năm, ta không có hải quân. Ta chỉ có “hải quân” qua
sông Đà. Chúng ta không có không quân. Bắn được chiếc máy bay nào thì cháy
chiếc ấy. Ta chỉ có lục quân”[18,tr.623]. Bởi nhân dân ta phần lớn chủ yếu là nông
dân, sinh sống bằng nông nghiệp, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu. Cuộc kháng chiến chống Đế quốc, thực dân xâm lược của nhân dân ta là cuộc
kháng chiến khó khăn gian khổ, yếu thế hơn về mọi mặt khi kẻ thù là một nước tiến
bộ hiện đại về khoa học kĩ thuật, vũ khí chủ yếu là vũ khí công nghệ cao như máy
bay, xe tăng, thiết giáp hay các chất độc hóa học… Còn ta, nhân dân ta từ khi dựng
nước đến nay luôn sống “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, lao động sản xuất chủ
yếu là nông nghiệp với dụng cụ sản xuất thô sơ. Vì thế khi Bác Hồ phát động phong
trào đấu tranh “toàn dân, toàn diện” mỗi một người dân là một chiến sĩ thì những
công cụ sản xuất sinh hoạt hằng ngày đã trở thành vũ khí chống giặc. “Ngọn tầm
vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay” hay những tổ ong, những trái bần rất đơn sơ
được nhân dân ta sử dụng để giết giặc. Tất cả chỉ vì một lí do, nước ta là một nước
Trang 24



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Giảng Viên Phan Văn Phúc

nông nghiệp lạc hậu, kinh tế, công nghiệp kém phát triển chủ yếu là công nghiệp
quốc phòng nên hầu như toàn bộ vũ khí, khí tài quân sự, quân trang, quân dụng dùng
cho chiến tranh Việt Nam đều do bên ngoài viện trợ, trong đó có Liên Xô, Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Theo số liệu thống kê được từ năm 1960 – 1975, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa đã viện trợ 3.608.863 súng bộ binh, 458 phi cơ, 2.210 xe tăng - thiết giáp,
23 tên lửa SA 75M, 16.116 xe cơ giới các loại, 6.271 pháo các loại và nhiều trang bị
khác. Phần còn lại là do ta thu được của giặc qua các trận đánh. Và cho đến nay tuy
vẫn chưa có số liệu chính thức công bố số tiền mặt viện trợ cho miền Bắc từ phía nhà
nước Việt Nam, nhưng theo Nguyễn Nhật Hồng - Trưởng bộ phận B29: "Toàn bộ
tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ đều tập trung về
một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu trăm bảy mươi tám
triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn)(678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai
sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ
chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi
và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến
trường sau giải phóng...".
Do đó, ngày nay trong điều kiện mới Đảng ta rất chú trọng đến việc phát triển
nền công nghiệp, xây dựng kinh tế, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng đảm bảo
phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định “Sự ổn định và
phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của
quốc phòng - an ninh” [11,tr.82]. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng
định, kinh tế - xã hội phát triển, tăng trưởng kinh tế không chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật, nguồn lực kinh tế cho tăng cường tiềm lực quốc phòng, mà còn tạo cơ sở
chính trị - xã hội thuận lợi cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân đối với

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Sức mạnh quốc phòng của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh tổng hợp của cả
nước, của toàn dân, trong đó sức mạnh của yếu tố chính trị - tinh thần và của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là nền tảng. Vì vậy, chúng ta phải nêu cao vai trò trách
Trang 25


×