Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

DÂN CHỦ hóa cơ sở với VIỆC PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.17 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ðẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ðề tài:

DÂN CHỦ HÓA CƠ SỞ VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN
TỐ CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giáo viên hướng dẫn:
Th.s. Nguyễn Thanh Sơn

Sinh viên thực hiện:
ðoàn Thị Pha Linh
Lớp SP GDCD
MSSV: 6055366
MSL: ML0568A1

ðẠI HỌC CẦN THƠ
03 - 2009

Trang 1


MỤC LỤC
MỞ ðẦU
1. Lý do chọn ñề tài……………………………………………………4
2. Mục ñích và nhiệm vụ nghiên cứu của ñề tài…………….……….5
3. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu ñề tài……………..……………5


4. Phương pháp nghiên cứu………………………………….……….5
5. Kết cấu luận văn…………………………………………...…….….5
NỘI DUNG
Chương 1.VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA DÂN CHỦ HÓA CƠ SỞ VỚI
VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA……………….6
1.1 Phát huy nhân tố con người một yêu cầu cấp bách hiện nay…...…6
1.1.1 Khái niệm con người…………………………………………….6
1.1.2 Khái niệm nhân tố con người…………………………………...7
1.2. Phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là ñộng lực của
nhân tố con người…………………………………………………..…9
1.3. Dân chủ hoá cơ sở - một ñộng lực cơ bản trong việc phát huy nhân tố
con người trong thời kỳ ñổi mới ……………………….…….……. 20
1.3.1 Khái niệm dân chủ……………………………………………..21
1.3.2 Dân chủ ở cơ sở là sự sáng tạo của ðảng ta…………………..26

1.3.3 Vai trò quan trọng của dân chủ hóa cơ sở với việc phát huy nhân tố
con người trong thời kì ñổi mới……………………………………….31
1.4. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kì ñổi
mới………………………………………..………………………….. 33
1.4.1 ðổi mới với dân chủ hóa xã hội…………………………………34
1.4.2 Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với phát huy quyền làm chủ của
nhân dân……………………………………..…………………..........37
Chương 2. THỰC TRẠNG DÂN CHỦ HÓA CƠ SỞ VỚI VIỆC PHÁT HUY
NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY………………..…..42
2.1. Quan ñiểm của Hồ Chí Minh về dân chủ và sự lãnh ñạo của ðảng
ñể phát huy dân chủ ………………………………..……………….42

Trang 2



2.2. Khâu ñột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ
mới……...………………………………………………………….….45
2.2.1. Thành tựu …………………………………….…………………47
2.2.2. Hạn chế……………………………………….…………………67
2.3. Những phương hướng………………………………………………71
TỔNG KẾT…………………………………………….……………..80
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………82

Trang 3


MỞ ðẦU
1. Lý do chọn ñề tài
“Con người là vốn quý nhất”. Ngày nay, vấn ñề phát huy năng lực sáng tạo
của con người là vấn ñề trung tâm của thời ñại. Việc tìm ra những yếu tố kích thích
con người hoạt ñộng sáng tạo ñể phục vụ con người ngày một tốt hơn, ñặc biệt là
trong công cuộc ñổi mới ở nước ta hiện nay.
Trong các nhân tố tác ñộng ñến việc kích thích hoạt ñộng sáng tạo của con
người thì dân chủ hóa cơ sở là một trong những ñộng lực cơ bản. Bởi lẽ chủ nghĩa
xã hội là một xã hội vì con người, dân chủ hóa cũng không có mục ñích nào khác là
vì con người, vì nhân dân, vì một xã hội thực sự dân chủ cho nhân dân.
Vì vậy dân chủ hóa mọi lĩnh vực, từng cơ sở của ñời sống xã hội ñã và ñang
là một nội dung rất quan trọng và cấp thiết của công cuộc ñổi mới, công cuộc công
nghiệp hóa, hiện ñại hóa của ñất nước ta hiện nay. Vấn ñề ñó ñã trở nên chín muồi
và cấp thiết có ý nghĩa lí luận và thực tiễn. Nhận thức sâu sắc hơn nữa tính khoa
học, những nội dung, những giải pháp thực tế nhằm ñảm bảo cho quá trình dân chủ
hóa cơ sở ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ nhằm tạo nên bầu không khí cởi mở, lành
mạnh, kích thích tính năng ñộng sáng tạo của hết thảy mọi tầng lớp xã hội, lôi cuốn
họ vào công cuộc phát triển kinh tế tiếp tục ñưa ñất nước theo ñịnh hướng xã hội
chủ nghĩa.

Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ góp phần củng cố,
kiện toàn tổ chức ðảng chính quyền các ñoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là
giải pháp ñể hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ nạn quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy nhà nước mà nó còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần chúng lao
ñộng, phát huy cao ñộ mọi tiềm năng trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, ðảng và nhà nước ta ñã ban hành nhiều chính sách
ñổi mới về kinh tế xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, và trong thực tiễn
ñã thấy ñược những mặt tích cực và hạn chế của việc thực hiện dân chủ hóa cơ sở

Trang 4


với việc phát huy nhân tố con người. Vì vậy tôi quyết ñịnh chọn ñề tài “Dân chủ
hóa cơ sở với việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay” làm ñề tài luận
văn tốt nghiệp nhằm có những ñề xuất, giải pháp phù hợp ñể thực hiện tốt vấn ñề
dân chủ hóa cơ sở với việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay.
2. Mục ñích và nhiệm vụ nghiên cứu của ñề tài
Mục ñích: Tìm hiểu về tình hình dân chủ hóa cơ sở với việc phát huy nhân tố
con người ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ:
Thứ nhất: Vai trò quan trọng của dân chủ hóa cơ sở với việc phát huy nhân
tố con người.
Thứ hai: Thực trạng dân chủ hóa cơ sở với việc phát huy nhân tố con người.
3. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu ñề tài
ðề tài nghiên cứu tình hình dân chủ hóa cơ sở với việc phát huy nhân tố con
ngưới ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu về dân chủ hóa cơ sở với việc phát
huy nhân tố con người từ 1998 ñến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong bài luận văn này tôi sử dụng một số phương pháp như: phương pháp
so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp
logic lịch sử.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở ñầu và kết luận, luận văn gồm 2 chương 7 tiết

Trang 5


NỘI DUNG
Chương 1
VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA DÂN CHỦ HÓA CƠ SỞ
VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
Ở NƯỚC TA.
1.1

Phát huy nhân tố con người một yêu cầu cấp bách hiện nay.
1.1.1 Khái niệm con người.

Trước khi có học thuyết Mác ra ñời, những cố gắng của tư duy triết học
nhằm tìm hiểu bản chất con người ñều không ñem lại câu trả lời thích ñáng, rút
cuộc là chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người.
Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của triết học trước, nhất là
triết học Hêghen và triết học Phơ Bách, Mác và Ăng Ghen ñã làm sáng tỏ vấn ñề
bản chất con người. Ph Ăng Ghen chỉ rõ: “Người ta chỉ ñi ñược từ con người trừu
tượng của Phơ Bách ñến những con người hiện thực, sống ñộng nếu người ta xét
những người ñó trong các hành ñộng của họ… sự sùng bái con người trừu tượng,
cái hạt nhân ñó của tôn giáo mới của Phơ Bách tất cả phải ñược thay thế bằng khoa
học nghiên cứu những con người hiện thực trong sự phát triển hiện thực của nó” [8,
tr. 62].

Như vậy ñể khắc phục sự nghiên cứu con người một cách trừu tượng, C. Mác
và Ăng Ghen ñã thay thế chúng bằng quan ñiểm khoa học, xem xét con người hiện
thực trong sự phát triển lịch sử cụ thể của nó. Học thuyết về con người của hai ông
chỉ nói ñến những con người trong chừng mực, họ có những hiện thân của những
phạm trù kinh tế, là những ñại biểu cho những phạm trù kinh tế, là những ñại biểu
cho những quan hệ giai cấp và những lợi ích của giai cấp nhất ñịnh. Nhưng không
phải vì thế mà khái niệm con người của chủ nghĩa Mác chỉ gắng liền với quan hệ
chính trị - xã hội và kinh tế mà bao gồm trong ñó toàn bộ sự phong phú của tất cả
các mặt của con người, từ khởi nguồn “tổ chức thể chất” ñời sống vật chất ñến ñời
sống tinh thần. Con người không do ai sáng tạo ra mà là sản phẩm cao nhất trong
quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Khác với tất cả các nhà triết học trước

Trang 6


ñây loay hoay tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ các cá nhân riêng lẻ,
nghĩa là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. C.Mác và
Ph.Ăng Ghen lần ñầu tiên ñã khám phá ra cái chìa khóa thực sự của vấn ñề, tạo ra
một bước ngoặt cách mạng trong việc nhận thức bản chất con người, xem xét nó
trong các mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội và con người. ðấy là một thể thống
nhất, hoàn chỉnh hợp thành thế giới hiện thực mà trong ñó con người vừa là ñiểm
xuất phát, vừa là khâu trung gian của những mối quan hệ ấy. ðiều ñó thể hiện trong
luận ñiểm tổng quát ñược C.Mác trình bày ở luận cương về Phoi-ơ-bách: “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” [8,
tr.257].
Như vậy theo C.Mác bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện
thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử xã hội, không phải là cái vốn có trong cơ
thể riêng lẻ mà là tổng hòa của toàn bộ các quan hệ xã hội. Xem xét bản chất con
người không chỉ xem xét quan hệ xã hội hiện có trong ñó con người ñang sống mà

còn là những quan hệ xã hội trước kia, những quan hệ cổ truyền của quá khứ còn in
ñậm trong con người ñương thời, những di sản của thế hệ trước nó mà con người kế
thừa trong lịch sử của mình. Tức là xem xã hội bản chất con người không ñược tách
rời hiện tại và quá khứ. ðồng thời ngoài việc nhận biết thế giới, con người còn có
khả năng cải tạo thế giới bằng họat ñộng thực tiễn có ý thức của mình. Chỉ trong
họat ñộng thực tiễn, con người mới khẳng ñịnh mình với tư cách là một cá nhân,
mới tạo nên bản chất xã hội của mình.
Luận ñiểm trên của C.Mác ñến nay vẫn còn nguyên giá trị, là cơ sở khoa học
cho những nghiên cứu về con người, chiến lược con người, phát huy nhân tố con
người hiện nay.
1.1.2 Khái niệm nhân tố con người.
Khái niệm nhân tố con người ñã ñược nhiều tác giả ñề cập với những góc ñộ
khác nhau, cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả ñề cập dưới góc ñộ quản lý, có tác
giả ñề cập dưới góc ñộ phân tích tâm lý – xã hội. Trong tài liệu triết học – xã hội về

Trang 7


nhân tố con người cũng nổi lên nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tựu chung lại có hai
cách tiếp cận chính.
Thứ nhất: Coi nhân tố con người như là họat ñộng của những con người
riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng như
tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết ñịnh.
Thứ hai: Coi nhân tố con người như là “một tổng hòa các phẩm chất thuộc
tính, ñặc tính, năng lực ña dạng của con người” [11, tr.70]
Nhận thức ñúng ñắn về khái niệm nhân tố con người chính là sự phát triển
sáng tạo quan ñiểm Mác – Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý
thức, là chủ thể của lịch sử. Nói chung khi xác ñịnh nội dung nhân tố con người,
phần lớn các tác giả ở mức ñộ khác nhau ñều nhấn mạnh mặt họat ñộng của con
người. Khái niệm nhân tố con người bao gồm hai mức ñộ tiêu chí: Một, ñó là con

người với tổng hòa những khả năng, năng khiếu, thể lực, trí lực, tình cảm, lý tưởng
ñạo ñức. Hai, là sự thể hiện và “tái sản xuất mở rộng” những phẩm chất ñó thông
qua họat ñộng có ñịnh hướng và cải tạo. Trong ñó tiêu thức thứ hai là cơ sở, là bản
chất. Cần chú ý là khái niệm nhân tố con người gắn bó với khái niệm con người,
nhưng không ñồng nhất với khái niệm ñó. Về mặt nội dung khái niệm con người
rộng hơn, phong phú hơn khái niệm nhân tố con người. Nhân tố con người là họat
ñộng thực tiễn sản xuất của con người, là lực lượng của ñời sống xã hội; với tính
cách là ñặc trưng bản chất của con người làm nổi bật chức năng hoạt ñộng, sản xuất
của con người như lực lượng ñịnh hướng và ñộng lực của quá trình phát triển xã
hội. Như vậy không thể có một ñịnh nghĩa về nhân tố con người ngoài con người,
cũng không thể có nội dung duy nhất cho cả hai khái niệm ñó.
Khái niệm nhân tố con người gắn bó chặt chẽ với khái niệm nhân tố chủ
quan phạm trù quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ñặt trưng cho hoạt
ñộng tích cực có ý thức của quần chúng nhân dân của giai cấp, ñảng phái, nhóm xã
hội và của từng cá nhân nhằm biến ñổi và cải tạo hiện thực xã hội. Khái niệm nhân
tố chủ quan và nhân tố con người là những nhân tố cùng cấp ñộ. Nhân tố chủ quan
trong sự tương tác chặt chẽ với các ñiều kiện khách quan, biểu hiện các ñộng lực
của lịch sử, cơ chế tác ñộng của con người vào ñiều kiện khách quan. Nhân tố con

Trang 8


người nằm ở trung tâm của xã hội, của ñời sống xã hội, của họat ñộng lịch sử. Nhờ
có nó, xã hội với tư cách là một tổ chức vật chất có cấu trúc – hệ thống phức tạp
nhất trở nên sống ñộng. Nó phân biệt với nhân tố khác như nhân tố kinh tế, nhân tố
kỹ thuật v.v… Nhân tố con người có tính xã hội lịch sử, nó là tiềm năng, năng lực
nguồn lực của sự phát triển, nó ñối diện với nguyên tố khác và cấu thành nội dung
hiện thực của ñời sống xã hội. Do vậy cần quan tâm ñến những dấu hiệu cấu thành
sự phát triển của con người như tâm – sinh lý, lợi ích. Nhân tố con người còn ñược
biểu hiện ở sức mạnh cá nhân và cộng ñồng, sức mạnh truyền thống (truyền thống

lịch sử văn hóa dân tộc) ảnh hưởng tới sự hình thành và trưởng thành của con người
xã hội. ðứng ở góc ñộ quản lý xã hội mà xem xét thì chính dân chủ hóa có tác dụng
cải biến tốt hơn hoàn cảnh và hiện trạng của con người trong hiện tại và thúc ñẩy sự
phát triển của con người ñáp ứng nhu cầu ñặt ra trong tương lai của nó.
Như vậy: Nói tới nhân tố con người chính là nói tới con người với tính cách
là một thực thể hoạt ñộng, là chủ thể cải tạo thế giới xung quanh và cải tạo các quan
hệ xã hội. Ở ñây cần chú ý hai vấn ñề sau:
Thứ nhất: xét nhân tố con người trong tính hiệu cụ thể của nó, trong những
ñiều kiện kinh tế - xã hội xác ñịnh. ðiều ñó có nghĩa là xem xét con người với tư
cách là cá nhân, cơ thể sinh ñộng. Mặt khác còn khảo sát nhân tố con người ở
những tập thể cộng ñồng.
Thứ hai: xét nhân tố con người với tư cách là lao ñộng giải phóng và là chủ
thể của quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Xét nhân tố con người
không chỉ ñơn thuần từ góc ñộ kinh tế mà con tính ñến các yếu tố tâm lý, ñạo ñức,
văn hóa những ñịnh hướng giá trị của cá nhân.
1.2. Phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là ñộng lực của
công cuộc ñổi mới.
Con người dưới chủ nghĩa xã hội vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của quá
trình lịch sử, vừa là mục tiêu vừa là ñộng lực của sự tiến bộ xã hội. Do ñó việc nhận
thức một cách toàn diện những nội dung của quan niệm nhân tố con người có liên
quan trực tiếp ñến việc xác ñịnh một tổng hợp những ñiều kiện, biện pháp thực tiễn
mà quá trình quản lý kinh tế và xã hội phải thực hiện nhằm phát huy vai trò nhân tố

Trang 9


con người. ðó là sự phát hiện làm bộc lộ, hình thành và sử dụng những tiềm năng
sáng tạo của người lao ñộng.
Nhận thức ñược quan niệm trên phải coi con người thực sự là ñộng lực mạnh
mẽ ñối với sự phát triển và quyết ñịnh thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

xã hội. Muốn kích thích con người họat ñộng tích cực sáng tạo, phải có những tác
nhân nằm trong hệ ñộng lực phát triển con người bao gồm kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Nó tạo ra tác ñộng cùng chiều và tác ñộng ñến mỗi con người ñể làm
bộc lộ và phát triển những tiềm năng ở họ. Trước hết là ñảm bảo lợi ích kinh tế
chính ñáng của người lao ñộng trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
ñịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Ở ñây ñòi hỏi phải có ñường lối kinh tế ñúng ñắn,
trong ñó thừa nhận tính ña dạng mà thống nhất của các hình thức sở hữu, thực hiện
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất, giải
quyết hợp lý mối quan hệ lợi ích cá nhân và xã hội, lấy việc thực hiện lợi ích cá
nhân của người lao ñộng là ñộng lực trực tiếp ñể thực hiện lợi ích xã hội.
Con người sống ngoài lợi ích kinh tế, còn cần lợi ích chính trị, văn hóa, tinh
thần. Nền kinh tế xã hội cũng phát triển thì lợi ích chính trị, văn hóa, tinh thần của
con người càng trở nên quan trọng. Chính trong lĩnh vực này, chủ nghĩa xã hội có
ñiều kiện thể hiện ñược tính ưu việt của mình. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ñảm
bảo thực hiện quyền lực của nhân dân lao ñộng có quyền lợi và trách nhiệm tham
gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước và xã hội với ý thức và năng lực
của người làm chủ. ðó là những cơ sở, là con ñường dẫn ñến sự phát huy vai trò
của nhân tố con người ñối với sự tiến bộ xã hội nói chung.
Với mục tiêu chủ nghĩa xã hội là vì con người, coi con người là giá trị cao
nhất, con người phải ñược chăm lo ñời sống vật chất lẫn ñời sống tinh thần. ðể thực
hiện mục tiêu chiến lược mà ðại hội VIII ðảng ta ñề ra, cần khai thác và sử dụng
nhiều nguồn lực khác nhau “trong ñó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai
trò quyết ñịnh ñặc biệt ñối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất
còn hạn hẹp”[21, Văn kiện Trung ương II, khóa VIII]. Nguồn lực ñó chính là vai trò
quyết ñịnh của quần chúng nhân dân lao ñộng, là lực lượng sản xuất cơ bản trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quần chúnh nhân dân lao ñộng chính là người

Trang 10



sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần, là người chủ của xã hội. Tất cả những họat
ñộng bộ máy lãnh ñạo, quản lý ñều nhằm thực hiện quyền làm chủ của quần chúng
nhân. ðây là một cuộc chuyển biến cách mạng to lớn, mở ra một thời ñại mới của
sự tiến bộ lịch sử, thời ñại làm chủ xã hội của quần chúng nhân dân, trong ñó sự
phát triển tự do của mỗi cá nhân là ñiều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người.
Cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ của thế giới ngày nay với
trình ñộ cao và bước tiến vĩ ñại của nó ñã ñặt loài người vào sự phát triển bước
ngoặt. Trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự xuất hiện ngày càng
nhiều, với tốc ñộ nhanh những phát minh mới về khoa học, kỹ thuật, việc rút ngắn
rõ rệt khoảng cách thời gian giữa nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng vào sản xuất ñã
thúc ñẩy mạnh mẽ mức tăng năng suất lao ñộng xã hội, sức tăng trưởng của nền
kinh tế. Những tiến bộ kỹ thuật và sự hoàn thiện các công trình công nghệ vừa giải
phóng sức lực con người vừa nâng cao khối lượng và chất lượng sản phẩm hàng
hóa.
Với truyền thống cần cù thông minh và sáng tạo, lại bắt gặp cơ may của sự
phát triển, con người Việt Nam càng có khả năng nhập cuộc, tiếp thu trình ñộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ hiện ñại của thế giới công nghiệp hóa, hiện ñại hóa ñất
nước. ðó là cuộc chiến ñấu “ai thắng ai” trong ñua tranh trên thị trường thế giới và
khu vực, phụ thuộc một phần quan trọng vào việc ñầu tư, chuẩn bị nguồn vốn con
người nhiều hay ít. Vì vậy cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất, tài chính ñể phát
huy các nguồn lực ñó, ñiều quan trọng nhất hiện nay cần chăm lo phát triển nguồn
lực con người tạo ra những “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần là ñộng lực xây dựng xã hội mới ñồng thời là mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội” [15, Văn kiện ñại hội VIII]. Do ñó xét ñến cùng nhân tố con
người là cái quyết ñịnh mọi tiến bộ và quá trình phát triển của lịch sử.
Như vậy, ñổi mới mở cửa, thuận lợi, khó khăn, thời cơ, nguy cơ ñan xen
nhau. Vấn ñề nhân tố con người vừa là xuất phát vừa là trung tâm vừa là mục tiêu
của chính sách kinh tế xã hội, của sự nghiệp ñổi mới do ðảng ta khởi xướng. ðể
phát huy nhân tố con người hiện nay, chúng ta cần lưu ý mấy vấn ñề sau:


Trang 11


Một là: ðẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
ñịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Trong ñiều kiện nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tự
cung tự cấp bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, phát triển sản xuất hàng hóa là
yêu cầu tất yếu của sự phát triển xã hội. Chính tính hợp quy luật ñó ñã tạo ra ñịa bàn
phát huy tính chủ ñộng sáng tạo của con người. Song tính biện chứng của quá trình
phát triển sản xuất hàng hóa cũng chỉ ra mặt trái của nó, ñầu cơ, buôn lậu, nâng giá,
ép giá, làm hàng giả… Chúng ta không coi nhẹ, phải cảnh giác, pháp luật chính
sách phải ñiều tiết có ñịnh hướng ñể hạn chế những hiện tượng tiêu cực tự phát.
Lịch sử nhân loại chứng minh rằng, từ khi hình thành giai cấp ñến nay, không một
bước nào chỉ có một thành phần kinh tế duy nhất mà khai thác hết tiềm năng của ñất
nước mình. Sở hữu ở ñây không chỉ có ý nghĩa trong quan hệ giai cấp mà còn có ý
nghĩa trong quan hệ ñộng lực. Việc hình thành sở hữu nào ñó do tính chất, trình ñộ
của lực lượng sản xuất quyết ñịnh. Sở hữu không có chủ thể chịu trách nhiệm thì vô
nghĩa. Cho nên trong sở hữu bao hàm tính cá nhân, tính chung của con người. Giải
quyết vấn ñề sở hữu mà mất tính cá nhân thì sở hữu trở thành vô chủ. Chính cơ cấu
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vừa là yêu cầu tất yếu của sự phát triển lực lượng
sản xuất, vừa tạo ra quan hệ sở hữu có chủ thể chịu trách nhiệm, có ñộng lực nội tại
cho cá nhân hoạt ñộng sáng tạo. Thực tế cho thấy kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể tiểu
chủ ngày nay nó ñang là ñộng lực nhất ñịnh cho sự phát triển xã hội. Trong mô hình
cũ chúng ta ñã tạo ra một nền kinh tế chỉ có một thành phần duy nhất, không có sản
xuất hàng hóa. Có thể nói ñây là một nền kinh tế mang nội dung chính trị hơn kinh
tế. Từ ñó hình thành một cơ chế không có ñộng lực nội tại cho họat ñộng của người
lao ñộng, vừa nuôi dưỡng tính thụ ñộng ỷ lại về phía người lao ñộng với tư cách là
ñối tượng quản lý, vừa khích lệ tính quan liêu, ñặc quyền, ñặc lợi của những người
trong bộ máy quản lý, gây bất công lớn. Tình trạng không ai muốn làm viêc, thang
bậc giá trị bị ñảo lộn. Có thể nói khủng hoảng kinh tế xã hội ở nước ta thời gian qua

thực chất là khủng hoảng ñộng lực họat ñộng của con người. Một trong những
nguyên nhân chủ yếu là giải quyết quan hệ lợi ích một cách chủ quan. Lợi ích cá
nhân người lao ñộng là ñộng lực trực tiếp của quá trình sản xuất vật chất và tinh
thần bị coi nhẹ. Lợi ích xã hội ñược quan niệm nhiều khi rất trừu tượng mơ hồ, biến

Trang 12


lợi ích chung thành lợi ích của thứ cộng ñồng hư ảo như Mác ñã nói trong xã hội cũ.
Vì thế xây dựng một cơ chế quản lý mà rối loạn về quan hệ lợi ích tất nhiên rối loạn
các quan hệ xã hội.
Sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước là môi
trường bắt buộc mỗi người phải suy nghĩ, tính toán chủ ñộng sáng tạo, tự chị trách
nhiệm với kết quả lao ñộng sản xuất kinh doanh. Tính ña dạng mà thống nhất của
các hình thức sở hữu, chính sách kinh tế nhiều thành phần ñã từng bước giải phóng
mọi năng lực sản xuất của xã hội. Việc dân chủ hóa kinh tế ñã gắn bó người sản
xuất với tư liệu sản xuất, khiến họ trở thành những người lao ñộng tích cực, sáng
tạo quyết ñịnh năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ. Xu
hướng chung phổ biến có tính quy luật cạnh tranh là mỗi sự gian dối tầm thường sẽ
dần bộc lộ và cuối cùng thắng lợi chủ yếu sẽ là công nghệ quản lý mới – xã hội tồn
tại phát triển ñâu phải bằng lừa dối, ñầu cơ mà phải bằng trình ñộ sáng tạo của con
người. Có thể nói, thế giới ngày nay ai tạo ra công nghệ mới, quản lý mới trên cơ sở
phát huy tối ña năng lực sáng tạo của con người thì người ñó thắng. Sáng tạo không
chỉ là hành ñộng của lý trí, lương tri mà còn là ñiều kiện kinh tế.
Hai là: Nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục.
Nước ta ñi lên chủ nghĩa xã hội từ ñiểm xuất phát thấp, ñến nay vẫn ở trong
số các quốc gia nghèo, thu nhập bình quân tính theo ñầu người vào loại thấp của thế
giới. Nền kinh tế của hơn 20 năm ñổi mới tuy có bước phát triển quan trọng, thoát
“ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng”, vẫn chưa ra khỏi tình
trạng lạc hậu, kém phát triển. Trình ñộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ còn thấp so

với các nước trong khu vực. Trong bối cảnh ñó chúng ta chủ trương mở cửa ñể hòa
nhập vói thế giới ñang bước vào nền văn minh tin học. ðể vượt qua thử thách của
thời ñại, tránh ñược nguy cơ tụt hậu, ñủ sức hội nhập với các nước phát triển trong
một tương lai không xa, vấn ñề quyết ñịnh là chiến lược con người và phải ñặt con
người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế xã hội. ðồng chí Tổng bí thư ðỗ
Mười nói: Mọi chiến lược, kế hoạch, chính sách của ðảng và Nhà nước ñều phải
ñặt con người vào vị trí trung tâm vì con người và so con người, thống nhất với tăng
trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Do vậy phải “thực sự coi giáo dục

Trang 13


và ñào tạo là quốc sách hàng ñầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục và ñào tạo cùng với
khoa học và công nghệ là nhân tố quyết ñịnh tăng trưởng kinh tế và phát triển xã
hội, ñầu tư cho giáo dục là ñầu tư cho phát triển. Thực hiện chích sách ưu tiên, ưu
ñãi ñối với giáo dục – ñào tạo ñặc biệt là chính sách ñầu tư và chính sách tiền lương.
Có các giải pháp mạnh mẽ ñể phát triển giáo dục” [17, Văn kiện TW II, Khóa VIII].
Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con
người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng ñộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có
ñạo ñức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp
hóa, hiện ñại hóa, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt Nam; có ý thức cộng ñồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, là chủ tri thức
khoa học và công nghệ hiện ñại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có
tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe là những người thừa
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác
Hồ.
Nhà nước cần ñầu tư cho giáo dục, ñồng thời phải xã hội hóa các nguồn ñầu
tư, ñáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân, nhất là của thanh thiếu niên. Cần mở ra
nhiều hình thức ñào tạo, tạo ñiều kiện cho mọi người có nhu cầu ñều ñược ñi học.

ðồng thời coi việc người nghèo phải ñược ñi học là vấn ñề có tính nguyên tắc. Thực
hiện giáo dục liên tục, hình thành những tác ñộng tích cực cùng chiều ñối với con
người, chuyển trọng tâm sang phương pháp giáo dục sáng tạo, rèn trí thông minh và
năng lực thực hành thay cho thụ ñộng tiếp thu trí thức, ghi nhớ và sao chép giáo
ñiều của mô hình giáo dục ñã qua. Như vậy giáo dục ñang trở thành vấn ñề bức xúc
của nước ta hiện nay. Cần phải làm cho con người nhất là thế hệ trẻ với một hành
trang ñồng bộ về thể lực – trí tuệ nhân cách – kinh nghiệm, phương pháp và bản
lĩnh bước vào thế kỷ XXI.
Ba là: Tạo ra sự ổn ñịnh chính trị ñồng thời với việc mở rộng dân chủ, xây
dựng một xã hội dựa trên các nguyên tắc dân chủ, công bằng là ñiều kiện ñể phát
triển con người. Muốn vậy phải ñổi mới hệ thống chính trị, bởi lẽ hệ thống chính trị
thực sự có vai trò to lớn trong quá trình ñưa cách mạng tiến lên. Song do hoạt ñộng

Trang 14


quá lâu trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ñã làm cho quần chúng lao ñộng
trở nên những khách thể bị ñộng, thụ ñộng chứ không phải là những con người chủ
ñộng sáng tạo xã hội như Lênin ñã nói. Nhiều hình thức cụ thể trong kiến trúc
thượng tầng không phù hợp ñã loại quyền lực của dân ra khỏi quyền lực chính trị và
kinh tế, tạo ñiều kiện cho những hiện thực tiêu cực xuất hiện và ngày càng trầm
trọng. Xét về mặt nào ñó, chế ñộ xã hội chủ nghĩa bị ñe dọa chủ yếu không phải
ngoài vào mà từ trong ra. Tiêu cực xã hội không chỉ xuất phát từ phía kẻ thù của
chủ nghĩa mà chủ yếu từ con người của nhà nước tạo ra. Bài học của sự sụp ñổ ở
Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa ở ðông Âu trong những năm qua cho
thấy, các thế lực thù ñịch trong và ngoài nước lơi dụng sự thoái quá biến chất của
các cán bộ ñảng viên, sự quan liêu của bộ máy nhà nước ñể tách dân với ðảng. Ở
ñây ðảng ñã mất ñi cơ sở giai cấp xã hội của mình, mất ñi vai trò ñại biểu lợi ích
giai cấp công nhân và nhân dân lao ñộng. ðảng mất dân là mất tất cả, cho nên quan
hệ lợi ích, quan hệ dân làm chủ gắn bó với nhau tạo thành quan hệ sống còn với chế

ñộ.
ðổi mới hệ thống chính trị theo hướng dân chủ hóa, thực hiện dân chủ hóa
trong sự thống nhất với tập trung dân chủ thực sự là nguyên tắc quản lý nhà nước, là
ñiều kiện cần thiết ñể nhân dân lao ñộng thực hiện quyền lực của mình với tư cách
là chủ thể hoạt ñộng tích cực của xã hội. Cần phải ñổi mới nâng cao năng lực lãnh
ñạo của ðảng tôn trọng tính ñộc lập tự chủ và tự quản của các tổ chức quần chúng
trong khuôn khổ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mọi người sống và
làm việc theo pháp luật. Dân chủ hóa chính trị ñể tăng cường dân chủ trực tiếp của
nhân dân lao ñộng và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, nhờ ñó thúc ñẩy quá
trình xã hội hóa dân chủ và pháp chế hóa chính sách xã hội nhằm thực hiện nhu cầu
xã hội và quyền lợi, nghĩa vụ cơ bản của công dân trên thực tế. “Mục tiêu ñổi mới
hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ñầy ñủ
quyền làm chủ của nhân dân lao ñộng” [15, Văn kiện ðại hội VIII. ðCSVN]. Bảo
vệ vững chắc hệ thống chính trị khỏi sự tấn công thù ñịch từ bên ngoài và sự biến
dạng bên trong là ñiều kiện tiên quyết ñể mỗi cá nhân, mỗi thành viên trong xã hội
phát triển tài năng sáng tạo, vì lợi ích của mình, của tập thể, của ñất nước.

Trang 15


Bốn là: Làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, trong ñó chính sách kinh tế
xã hội là công cụ thực hiện yêu cầu ñó. Sự phát triển sản xuất, khoa học kỹ thuật
văn học nghệ thuật, sự phân phối phúc lợi vật chất, tinh thần một cách hợp lý công
bằng, phải nhằm vào sự phát triển của con người. Lành mạnh hóa các quan hệ xã
hội là một quá trình lâu dài liên quan ñến sự nghiệp ñổi mới toàn diện các mặt của
ñời sống xã hội. Mỗi bước tiến của sự nghiệp ñổi mới theo ñịnh hướng xã hội chủ
nghĩa phải là bước tiến tương ứng về lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Muốn vậy
phải xây dựng các quan hệ xã hội có khả năng khắc phục ñược sự tha hóa của con
người trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và tinh thần.
ðổi mới kinh tế ñem lại sự phát triển năng ñộng với tốc ñộ tăng trưởng

nhanh và có hiệu quả của nền kinh tế. Nhờ ñó mức sống của dân cư ñược cải thiện
và xã hội có tích lũy, có ñầu tư cho tái sản xuất mở rộng ñể phát triển. Song sự phát
triển kinh tế chỉ thực sự vững chắc và lành mạnh nếu nó ñược gắn với phát triển xã
hội. Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội là nền tảng ñể phát
huy nhân tố con người và xây dựng con người mới. Tăng trưởng kinh tế phải ñi ñôi
với công bằng xã hội. Phải thường xuyên phát hiện những vấn ñề kinh tế - xã hội
liên quan ñến con người ñể giải quyết tốt hơn bằng chính sách kinh tế xã hội. Cụ thể
là các vấn ñề liên quan ñến quan hệ gia ñình, tập thể, giai cấp, dân tộc; tạo ra môi
trường xã hội lành mạnh tích cực ñể kích thích con người phát triển. Các chính sách
về việc làm, phân phối thu nhập, nhà ở, giáo dục, y tế, thông tin…là những chính
sách liên quan trực tiếp tới cuộc sống hàng ngày của nỗi người. Phải ñặc biệt chú
trọng thực hiện công bằng xã hội, tạo ra ñộng lực cho sự phát triển cá nhân và xã
hội. Song công bằng ở ñây không phải là sự cào bằng, là bình quân, nguyên tắc của
sự công bằng xã hội – xã hội chủ nghĩa là: làm theo năng lực hưởng theo lao ñộng.
Nhưng sự tồn tại khách quan nhiều thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay còn cho
phép phân phối theo “vốn” ñóng góp nữa. Chính sách xã hội cần hướng tới sự tiến
bộ xã hội, vì lợi ích hiện tại và lâu dài của nhân dân lao ñộng. Như vậy lành mạnh
hóa các quan hệ trong “phân phối” không phải chỉ thực hiện nguyên tắc “phân phối
theo lao ñộng” mà còn thực hiện ñồng thời nguyên tắc “ai có vốn thì có lời”, là sự
thừa nhận những ñiều kiện có trước sản xuất. Tiêu chuẩn cao nhất ñể ño lường sự

Trang 16


công bằng xã hội, trong mỗi giai ñoạn lịch sử là sự hợp lý của nó, phù hợp với trình
ñộ phát triển hiện có của nền kinh tế và yêu cầu phát triển xã hội. Nói một cách cụ
thể, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể coi là công bằng nếu chính sách xã hội thể hiện một
cách nhất quán tôn trọng con người, quan tâm tới những ñiều kiện giúp con người
làm việc và sống ngày một tốt hơn. Mặt khác công bằng xã hội phải chú trọng ưu
tiên giải quyết các chính sách ñối với thương binh, gia ñình liệt sĩ, người tàn tật, già

yếu cô ñơn không nơi nương tựa, những người có công với nước, những bà mẹ Việt
Nam anh hùng…Phát huy nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ ñền ơn
ñáp nghĩa và xóa ñói giảm nghèo ñồng thời cần có chính sách tạo ñiều kiện giảm
dần sự mất cân ñối giữa thành phố và các vùng. Phải ñấu tranh kiên quyết chống
tham nhũng, ñầu cơ và những dạng hoạt ñộng phi pháp ñang nảy sinh do tác ñộng
mặt trái của cơ chế thị trường.
ðể thực hiện công bằng xã hội trước hết là sự giải quyết ñúng ñắn các quan
hệ lợi ích giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư. Cần phải áp dụng
ñồng bộ các biện pháp, xây dựng các ñịnh mức lao ñộng làm cơ sở cho sự quản lý
con người và công việc, cho việc trả lương và thưởng phát vật chất, áp dụng các
biện pháp hỗ trợ sản xuất kinh doanh vì lợi ích xã hội. Có chính sách cứu trợ xã hội
ñối với những vùng ñặc biệt khó khăn và thiên tai, chính sách bảo trợ xã hội ñối với
các ñối tượng ưu tiên và khuyến khích phát triển các tiềm năng, các tài năng. ðảm
bảo phúc lợi xã hội ñược thực hiện vì mục ñích nhân tạo ñối với các tầng lớp xã hội.
ðiều tiết thu nhập ñể khắc phục sự phân hóa giàu – nghèo ñang diễn ra gay gắt
trong xã hội. Ngoài ra còn phải có chính sách khuyến khích mọi lao ñộng xã hội cá
ích, khuyến khích làm giàu chính ñáng bằng lao ñộng, có ñãi ngộ thỏa ñáng ñối với
những người có ñóng góp hữu ích vào sự phát triển xã hội.
Năm là: mở rộng giao lưu quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện ñại ñang diễn ra
mạnh mẽ không chỉ tạo ra những bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất mà còn làm
biến ñổi các quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc ảnh hưởng ñến từng gia ñình, từng
con ñường, làm biến ñổi cơ cấu văn minh nhân loại. Ngày nay, không một quốc gia
dân tộc nào phát triển mà không có giao lưu, ñiều ñó ñã trở thành vấn ñề quy ñịnh,

Trang 17


nâng cao trình ñộ sáng tạo của con người, trở thành năng lực trực tiếp. Rất tiếc là
một thời gian dài chúng ta hầu như ñã tự ñóng cửa lại trước những biến chuyển của

thế giới và bằng lòng với những nhận ñịnh chủ quan về xu hướng của thời ñại và
triển vọng của ñất nước. ðem ñối nghịch một cách không ñiều hòa chế ñộ xã hội ta
với các nước tư bản chủ nghĩa mà không thấy tính sáng tạo văn minh của nhân loại
ñang hình thành và phát triển trong ñó. Khi thấy chủ nghĩa tư bản tạo phúc lợi xã
hội, chúng ta quy kết một cách vội vã mà không nghiên cứu tỷ mỷ. ðó là nguyên
nhân giải thích vì sao ta không tiếp tục kế thừa ñược tri thức văn minh nhân loại.
Truyền thống văn hóa, tốt ñẹp của dân tộc không tiếp thu những nhân tố mới ñã trở
nên bất lực, trước những thử thách mới của thời ñại và của ñất nước. Vì vậy ñể tạo
ñiều kiện cho người Việt Nam sáng tạo tránh những sai lầm quanh co, ñể ñưa ñất
nước ñi lên tiến kịp trên con ñường tiến hóa của nhân loại ñòi hỏi phải kết hợp việc
tổng kết kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm loài người. Tìm phương thức, hình
thức xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ tìm ở nội bộ mình, dân tộc mình mà còn
tìm ngay trong chủ nghĩa tư bản. Thành tựu 20 năm ñổi mới ñã chứng minh ñiều ñó.
ðảm bảo thống nhất tính giai cấp và tính nhân loại, tính dân tộc và tính quốc tế, tiếp
thu có phê phán, chọn lọc những giá trị phong phú của loài người, sẽ trở thành một
ñộng lực mạnh mẽ ñể hình thành từng bước một chủ thể mới của lịch sử. Con người
Việt Nam vừa mang bản chất giai cấp công nhân vừa ñại biểu cho sự phát triển của
dân tộc và nhân loại.
Xem xét quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa
nói chung và ở Việt Nam nói riêng, trong những năm qua, một thực tế hiển nhiên
không thể phủ nhận ñược là: chủ nghĩa xã hội ñã từng ñạt ñược những thành tựu to
lớn. Nó ñã từng giải phóng hàng tỷ người lao ñộng khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột
và nô dịch bởi chế ñộ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bởi những ñối kháng
giai cấp trong các xã hội có áp bức bóc lột. Chủ nghĩa xã hội cũng ñã cải thiện một
cách căn bản ñời sống vật chất, tinh thần, cho nhân dân lao ñộng, ñem lại cho họ ñịa
vị làm chủ xã hội, ñể xây dựng một xã hội thật sự tự do, bình ñẳng và hạnh phúc.
Những thành tựu vĩ ñại ñó chứng tỏ rằng: chủ nghĩa xã hội ñã không chỉ tuyên bố
mà còn triển khai trên mọi bình diện của hoạt ñộng thực tiễn ñể thực hiện mục ñích

Trang 18



tối cao của sự phát triển xã hội là vì con người, con người lao ñộng. Song bên cạnh
những thành tựu ñã ñạt ñược, chủ nghĩa xã hội hiện thực cũng ñã mắc phải những
sai lầm trên con ñường hiện thực hóa mục tiêu giải phóng con người cả trong quan
niệm và trong các giải pháp thực tiễn.
Về mặt quan niệm, chúng ta ñã từng nghĩ rằng ñã tiếp cận ñược quan niệm
duy vật biện chứng Mác xít về sự phát triển xã hội, nhưng trong thực tế ñã có lúc
chúng ta vượt qua giới hạn của chủ nghĩa duy vật cũ. Trong quá trình nhận thức và
cải tạo xã hội, chúng ta ñã có lúc rơi vào khuynh hướng duy tâm chủ quan, duy ý
chí.
Về mặt giải pháp thực tiễn, chúng ta duy trì quá lâu cơ chế quan liêu bao cấp
và ñi liền với nó là chủ nghĩa bình quân trong phân phối ñã làm suy giảm những
ñộng lực phát triển, là cho con người vừa trở nên thụ ñộng, ỷ lại vừa bị mai một tính
sáng tạo, chủ ñộng, lại vừa nảy sinh tâm lý ñòi hỏi lợi ích, hưởng thụ tách rời khỏi
trách nhiệm và nghĩa vụ. Cá tính, bản sắc riêng của từng cá nhân không có ñiều kiện
ñể phát triển. Nó bị hòa tan vào cái xã hội, cái tập thể bị tuyệt ñối hóa một cách trừu
tượng. Việc cải thiện ñời sống vật chất của con người chưa ñược chú ý tới mức cần
thiết, thậm chí còn tình trạng những ñòi hỏi chính ñáng về mặt vật chất của con
người cũng bị phê phán một cách ñộc ñoán do ñồng nhất một cách ñơn giản những
ñòi hỏi những nhu cầu của cá nhân với chủ nghĩa cá nhân. Trong công tác giáo dục
con người, nhất là giáo dục thế hệ trẻ chúng ta chưa chú trọng ñầy ñủ những hình
thức và biện pháp nhằm gắn liền giáo dục nhận thức với rèn luyện các hành vi ñạo
ñức trong thực tiễn ñể củng cố các giá trị nhân bản, sự hướng thiện và lẽ công bằng.
Hơn nữa tình trạng quan liêu hóa của bộ máy nhà nước ñã làm cho một số quyền tự
do, dân chủ của công dân bị vi phạm, nhiều tiêu cực xã hội nảy sinh gây ảnh hưởng
bất lợi tới sự phát triển xã hội. Bản chất khoa học và nhân ñạo của chủ nghĩa Mác –
Lênin, chủ nghĩa xã hội ñòi hỏi muốn thực hiện sự phát triển xã hội, phải dựa trên
cơ sở ñảm bảo sự phát triển của từng cá nhân, làm cho nó phát triển thuận chiều với
sự phát triển xã hội. Mặc khác muốn cho con người thực sự là mục tiêu và ñộng lực

của sự phát triển trong chủ nghĩa xã hội phải chú trọng giải quyết hài hòa các nhu
cầu và lợi ích thiết thực của nó bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội.

Trang 19


ðổi mới ngày nay chính là từng bước khắc phục những sai lầm trên. Sự
nghiệp ñó do ðảng ta khởi xướng ñã xác ñịnh ñược mục tiêu, ñộng lực của nó là
chính con người: “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững” [15, Văn kiện ðại hội VIII]. Bởi vì không có sự ñổi
mới xã hội nào nếu không có sự ñổi mới từ con người. Thực tiễn chứng minh,
không phải bộ máy, cũng không phải khâu nào khác trong hệ thống chính trị với
tầm quan trọng của nó, mà chính là con người với phẩm chất và năng lực nhất ñịnh
quyết ñịnh sức mạnh của ñổi mới. ðành rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh,
nhưng hoàn cảnh cũng không phải là bất biến, hoàn cảnh ñược biến ñổi bởi chính
con người. Chỉ có ñiều, sự phù hợp giữa sự thay ñổi của hoàn cảnh và hoạt ñộng
của con người ñều diễn ra trong quá trình thống nhất là thực tiễn cách mạng mà
thôi. Vì thế ñổi mới không thể thành công nếu chúng ta không tạo ra ñược môi
trường xã hội thuận lợi khơi dậy hoạt ñộng sáng tạo của con người. Mặc khác ñổi
mới cũng không ñem lại kết quả gì, nếu chúng ta quay lưng lại với những vấn ñề rất
cơ bản của con người.
1.3. Dân chủ hoá cơ sở - một ñộng lực cơ bản trong việc phát huy nhân
tố con người.
1.3.1 Khái niệm dân chủ
Dân chủ theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp là chính quyền của nhân dân hay
quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là phạm trù chính trị ñể chỉ quyền làm chủ
của nhân dân và là sản phẩm tự quyết của họ, phản ánh sự tồn tại của con người với
tất cả tài năng ý chí và lợi ích của họ. Lịch sử xác nhận chế ñộ dân chủ trong thời
ñại chiếm hữu nô lệ ñược xem như là kết quả của cuộc ñấu quyết liệt giữa một bên
là lực lượng dân chủ, chống lại bên kia là lực lượng phản dân chủ của phái quý tộc

nô lệ. Tuy nhiên trong xã hội này thân phận số ñông những người nô lệ chẳng có
một giá trị nào, họ không ñược coi là người, chỉ là những “công cụ biết nói” trong
tay những chủ nô mà thôi.
Tiếp ñến loài người ñã phải trải qua những ñêm dài trung cổ. Trong thời kỳ
này, quyền là chủ xã hội của con người gần như bị thủ tiêu trước sức mạnh của thần
quyền và thế quyền của một nhóm thậm chí của một cá nhân (nhà Vua). Chế ñộ

Trang 20


chuyên chế phong kiến ñã trói buộc và giam hãm con người trong những giáo lý và
sự kiềm chế của giáo hội và nhà thờ. ðây là một hình thức thống trị xã hội hết sức
nặng nề, một chế ñộ “khinh miệt con người, là con người bị làm mất nhân tính” [10,
tr.49]
Cuộc ñấu tranh nhằm phá vỡ sự thống trị của chế ñộ chuyên chế ñã hình
thành một xã hội dân chủ, tiến bộ ñược khởi ñầu bằng những cuộc vận ñộng tư
tưởng, văn hóa sôi ñộng, rộng lớn trong thời kỳ phục hưng ở châu Âu (thế kỷ XIV XVI) mà nội dung cốt yếu của nó là khẳng ñịnh vị trí của con người với tư cách là
chủ thể xã hội. “Tôi là con người, vì vậy không có gì xa lạ với tôi”. Phương ngôn ñó
nêu lên trong thời kỳ phục hưng coi như một tuyên ngôn về quyền và vị trí con
người trong ñời sống xã hội. Chính giai cấp tư sản, trong thời kỳ ñang lên của nó,
ñã giương cao ngọn cờ “tự do, bình ñẳng, bác ái” ñể tập hợp các lực lượng xung
quanh mình, là cuộc cách mạng chính trị lật ñổ chế ñộ chuyên chế phong kiến xác
lập chế ñộ dân chủ tư sản. Cách mạng sản Pháp 1789 làm một cuộc cách mạng tư
sản ñiển hình, khẳng ñịnh sự thắng lợi của chủ nghĩa tự do tư sản ñối với chế ñộ
chuyên chế phong kiến.
Cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản trong cuộc ñấu tranh chống chế ñộ
chuyên chế phong kiến ñã hình thành một lực lượng xã hội mới – giai cấp vô sản
công nghiệp. Nếu như trước ñây, trong cuộc ñấu tranh chống chế ñộ chuyên chế
phong kiến, giai cấp vô sản là một lực lượng bên cạnh giai cấp tư sản thì giờ ñây, sự
trưởng thành về mặt chính trị của họ sẽ giúp họ dần dần nhận thức ra một sự thật

ñằng sau những lời hoa mỹ “tự do, bình ñẳng, bác ái” của giai cấp tư sản. Giai cấp
tư sản chống chế ñộ phong kiến trước hết vì lợi ích của chủ nghĩa cá nhân tư sản,
còn giai cấp vô sản chống chế ñộ chuyên chế phong kiến nhằm ñạt tới một sự bình
ñẳng, tự do cho tất cả nhân loại cần lao. Ph.Ăngghen viết: “từ lúc giai cấp tư sản
chưa ra khỏi cái tổ kén tầng lớp thị dân thời phong kiến của nó, từ một ñẳng cấp
thời trung cổ chuyển hóa thành một giai cấp cận ñại, thì nó luôn luôn và không sao
tránh khỏi ñó là giai cấp vô sản ñi kèm theo như bóng với hình. Những yêu cầu tư
sản về bình ñẳng cũng thế, ñều có kèm theo những yêu cầu vô sản về bình ñẳng từ

Trang 21


lúc yêu cầu tư sản ñòi hủy bỏ chính ngay những giai cấp xuất hiện liền bên cạnh”
[23, tr177-178]
C.Mác là người ñầu tiên có quan niệm về mặt chế ñộ xã hội xứng ñáng với
con người – chế ñộ dân chủ. Ông vạch ra sự ñối lập như nước với lửa giữa chế ñộ
dân chủ và chế ñộ chuyên chế, khẳng ñịnh dân chủ là một xu hướng phát triển
khách quan của tiến trình lịch sử. Trong thời ñại hiện ñại việc giải phóng loài người
khỏi sự áp bức nô dịch có mối quan hệ trực tiếp ñối với cuộc ñấu tranh của giai cấp
vô sản. Trong tuyên ngôn của ðảng cộng sản. C.Mác và Ph.Ăngghen ñã khẳng ñịnh
sự tất yếu cần thiết của việc giai cấp vô sản phải giành lấy dân chủ trong giai ñoạn
thứ nhất của cách mạng. Khái niệm dân chủ ở ñây ñược các ông quan niệm như là
một quyền lực xã hội, một chính quyền nhà nước, một chế ñộ chính trị, mà nhờ ñó
giai cấp vô sản mới có thể sử dụng dân chủ như là một phương tiện ñể tiến hành sự
nghiệp cải biến cách mạng, cải biến xã hội theo hướng nhân ñạo cộng sản chủ
nghĩa. Chỉ có giành ñược dân chủ, giành ñược chính quyền, giai cấp vô sản mới có
ñiều kiện ñể tiến hành sự nghiệp cách mạng triệt ñể - xóa bỏ giai cấp tư sản xây
dựng một xã hội “trong ñó sự phát triển tự do của mỗi người là ñiều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”.
V.I.Lênin là người ñã kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời

ñại quốc tế chủ nghĩa. Lênin ñã vận dụng, phát triển một cách có kết quả và sinh
ñộng những tư tưởng của chủ nghĩa Mác về dân chủ vào thực tiễn của cách mạng
Nga, và mang lại những bài học quý giá cho việc xây dựng một nền dân chủ mới –
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn.
Theo Lênin: dân chủ là một phạm trù lịch sử, có tính giai cấp, dân chủ là một
hình thức nhà nước (trong ý nghĩa ñó, dân chủ và chuyên chính là hai mặt của bất
cứ một thể chế nhà nước nào) và dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao nhất
trong lịch sử.
Từ việc phân tích so sánh sự khác nhau giữa dân chủ tư sản và dâ chủ vô sản,
Lênin ñưa ra nhiều tiêu chí khác nhau thuộc về nội dung của khái niệm dân chủ.
Một trong những tiêu chí cơ bản nói lên mức ñộ cao hay thấp, nhiều hay ích
của các nền dân chủ, khác nhau là sự tham gia của quần chúng nhân dân lao ñộng

Trang 22


vào công việc quản lý nhà nước, vào các hoạt ñộng chung của ñời sống xã hội.
Chính trên ý nghĩa ñó, Lênin cho rằng: “phát triển dân chủ một cách ñầy ñủ nghĩa
là…làm cho toàn thể quần chúng nhân dân lao ñộng tham gia thật sự bình ñẳng và
rộng rãi vào mọi công việc của nhà nước”,[25, tập4 tr 84]. Vì vậy những cơ sở,
những ñiều kiện ñảm bảo cho nhân dân lao ñộng thông qua những hình thức nào ñó
ñể khẳng ñịnh vai trò ý chí của mình trong tương quan so sánh hợp thành nội dung
của khái niệm dân chủ.
Dân chủ là xác nhận sự tồn tại của các giai cấp có lợi ích khác nhau trong xã
hội, là xác nhận sự tồn tại của nhà nước. Khi giai cấp mất ñi, nhà nước mất ñi thì
vấn ñề ñấu tranh xã hội ñể giành, giữ quyền tự do, bình ñẳng không cần phải ñặt ra
nữa. ðó là lúc con người hoàn toàn tự do, làm chủ xã hội, làm chủ cuộc sống mình.
Chính trên ý nghĩa ñó, ñiều mà Lênin ñã nói: “thường thường người ta ñồng nhất
khái niệm “tự do” và “dân chủ” và thường dùng thay thế cho nhau rất thường hay
lập luận ñúng như vậy. Thực ra dân chủ loại trừ tự do. Biện chứng (quá trình) của

sự phát triển là: từ chuyên chế ñến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản ñến dân chủ vô
sản, từ dân chủ vô sản ñến không còn dân chủ nữa [23, tr 205-206].
Một chế ñộ ñược coi là dân chủ phải thực hành nguyên tắc: tất cả mọi người,
công dân ñều ñược bình ñẳng trước pháp luật, tất nhiên khi ñề cập ñến vấn ñề này,
với quan ñiểm chính trị triệt ñể, Lênin luôn luôn lưu ý tới sự khác nhau của các ñiều
kiện kinh tế, chính trị mà mỗi chế ñộ xã hội tạo nên ñể thực hành nguyên tắc ñó một
cách thực tế. Trong ñiều kiện còn tồn tại hình thức dân chủ ñại diện, thì trong hệ
thống các quyền tự do của công dân, Lênin ñặc biệt chú ý ñến quyền của người dân
ñược tham gia vào việc lựa chọn các viên chức, thông qua bầu cử phổ thông ñầu
phiếu.
Nhìn chung các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học ñều có quan
ñiểm: dân chủ xét về bản chất ngữ nghĩa của nó là quyền lực thuộc về nhân dân.
Tuy vậy không phải mọi vấn ñề về nội dung khái niệm dân chủ ñã ñược giải
quyết. Ngày nay khi tiếp cận, nghiên cứu và giải quyết vấn ñề này ñã tồn tại không
ít cách nghĩ, cách hiểu, cách làm khác nhau và ñương nhiên như thế cũng mang lại
những kết quả khác nhau, tựu chung lại có hai loại ý kiến sau:

Trang 23


Loại thứ nhất cho rằng: dân chủ không chỉ là một phạm trù chính trị, nó còn
mang một nội dung bao quát hơn thể hiện tính nhân văn; là một giá trị tồn tại cùng
với sự tồn tại của con người (cả trước và sau khi giai cấp xuất hiện và giai cấp mất
ñi).
Loại thứ hai: dân chủ là một phạm trù chính trị. Với tư cách là một phạm trù
chính trị, dân chủ ñược xem như là một hình thức chế ñộ chính trị dựa trên cơ sở
công nhận những nguyên tắc về quyền lực thuộc về nhân dân.
Loại ý kiến thứ nhất có những ñiểm chưa thật chính xác và hợp lý. Bởi với ý
nghĩa ban ñầu của nó, vấn ñề dân chủ chỉ ñặt ra trong xã hội có giai cấp mà thôi.
Dân chủ theo quan ñiểm Mác xít – Lênin nít là một phạm trù chính trị. Ở ñâu và khi

nào còn tồn tại vấn ñề dân chủ thì nó vẫn mang tính giai cấp. Trong xã hội còn giai
cấp ñối kháng, không bao giờ có một thứ “dân chủ thuần túy”, một thứ dân chủ
mang tính nhân loại chung chung.
Nói dân chủ mang tính giai cấp thì không hề mâu thuẫn hoặc trái với giá trị
nhân văn của dân chủ. Giá trị nhân văn của dân chủ ñược thể hiện ở chỗ: Một mặt
nó như là hình thức thực hiện quyền lực của nhà nước tiến bộ hơn trong lịch sử,
(dân chủ tư sản nó mang bản chất giai cấp tư sản nhưng nó vẫn tiến bộ hơn xã hội
không có dân chủ). Mặt khác, cái tiến bộ ñã ñạt ñược trong các nền dân chủ thì xét
ñến cùng là thành quả của cuộc ñấu tranh của ñông ñảo quần chúng nhân dân.
Ý kiến thứ hai thỏa ñáng hơn, nó phản ánh ñược bản chất của dân chủ, ý
nghĩa chính trị của dân chủ không giới hạn trong việc xem xết ñối tượng chủ yếu là
nhà nước (với tính chất là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị xã hội)
trong quan hệ với bộ phận khác mà phải hiểu tính chất chính trị của dân chủ theo
nghĩa bao quát của lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, trong cả hệ thống chính trị - xã
hội. Theo nghĩa này dân chủ là nguyên tắc tổ chức là phương thức tồn tại, hoạt ñộng
của các yếu tố tạo thành hệ thống chính trị. Ngoài ra có thể hiểu dân chủ trước hết là
chế ñộ chính trị (theo nghĩa rộng lớn của nó) mà từ hạt nhân chính trị này ảnh
hưởng tới tất cả các mặt của ñời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, tinh thần…chế ñộ
chính trị ấy là chủ quyền thuộc về nhân dân.

Trang 24


Thời kỳ quá ñộ lên chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước hết
ñược xem như là hình thức chính trị kiểu mới, trong ñó giai cấp vô sản và những
người lao ñộng ñược giải phóng ñang từng bước trở thành người chủ của xã hội.
Trên ý nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản là thống nhất về
nội dung, bản chất và mục ñích.
Với tính cách là một hình thức nhà nước, một hệ thống chính trị, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa sẽ chuyển thành hệ thống tự quản trong xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Những hình thức và phương pháp của quyền lực nhân dân và những nguyên tắc tự
do cá nhân hình thành trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ dần dần mất ñi tính
chất chính trị của nó cùng với “sự tiêu vong” của nhà nước xã hội chủ nghĩa ñể trở
thành những thói quen tự nhiên trong xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang tính chất mới khác
hẳn về chất so với các nền dân chủ ñã có trong lịch sử. Tính chất và nội dung xã hội
chủ nghĩa của nó ñược phản ánh chính xác ở thành quả của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Sự xuất hiện chính quyền của giai cấp vô sản và việc tạo lập chế ñộ công
hữu về tư liệu sản xuất và những tiền ñề chính trị và kinh tế quan trọng nhất cho
việc hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ở ñây cần chú ý mấy vấn ñề sau:
Thứ nhất: không phải sự ra ñời của chế ñộ sở hữu xã hội chủ nghĩa và nhà
nước vô sản là ñã có thể có dân chủ xã hội chủ nghĩa như một kết quả tự nhiên. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa ra ñời và phát triển một cách tích cực, chủ ñộng, từng bước
ñảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao ñộng và kiên quyết ñấu tranh chống chủ
nghĩa quan liêu. Thực chất là cuộc ñấu tranh nhằm loại trừ mọi biểu hiện xa lạ với
tinh thần và nguyên tắc dân chủ trong quả lý xã hội và nhà nước. Thời gian qua,
chúng ta ñã quản lý xã hội nhiều hình thức ñã in ñậm màu sắc chủ quan và xem
thường phản ứng của dư luận xã hội, những hình thức không phù hợp này ñã loại
quyền lực của dân chủ ra khỏi quyền lực chính trị và kinh tế. Vì thế ñể xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ñòi hỏi phải không ngừng ñấu tranh nhằm thực hiện
quyền lực thực tế của nhân dân khẳng ñịnh giá trị của pháp luật là công cụ quản lý
kinh tế, xã hội, là cơ sở ñể thực hiện và bảo vệ các quyền của công dân.

Trang 25


×