Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

ĐẢNG bộ TRÀ VINH vận DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH tôn GIÁO đối với ĐỒNG bào KHMER TRONG sự NGHIỆP đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.8 KB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

ĐẢNG BỘ TRÀ VINH VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO KHMER TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân.
Mã ngành

: 52140204

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.s. GVC. Trần Kim Trung

Sơn Thị Thanh Loan
MSSV: 6055371

Cần Thơ, tháng 04 năm 2009

Trang 1



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Dân tộc, tôn giáo là một vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, với chiến dịch “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch họ đang tìm cách khống chế, xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội.
Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để công kích, tuyên truyền, xuyên tạc lịch
sử vùng đất Nam bộ Việt Nam, để đòi li khai, tự trị gây chia rẻ khối đại
đoàn kết dân tộc. Các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, họ tìm
cách tán phát tài liệu, băng đĩa ghi âm, ghi hình, kích động các phần tử quá
khích trong dân, đồng bào có đạo, và các đối tượng đội lốt chức sắc tôn giáo
tăng cường hoạt động truyền đạo trái phép, dùng vật chất lôi kéo tín đồ,
hoặc lợi dụng những sơ hở, yếu kém của chính quyền địa phương trong
quản lí Nhà nước để vu khống Đảng, Nhà nước ta vi phạm nhân quyền dân
tộc, tôn giáo.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24- NQ/TW/1990 của
Bộ Chính trị “ Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Chỉ thị số 68 của
Ban bí thư ngày 18/04/1991: “Về Công tác nhà ở vùng đồng bào dân tộc
Khmer”; Chỉ thị 37- CT/TW/1998; Nghị Quyết 25 NQ/TW ngày 12/03/2003
( Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá IX về
công tác tôn giáo); Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/PLUBTVQH khóa 11 ngày 18/06/2004, các văn kiện của các Đại hội Đảng
CSVN thời kỳ đổi mới….Để thực hiện chính sách tôn giáo có hiệu quả đối
với đồng bào dân tộc thiểu số cả nước nói chung và Tỉnh Trà Vinh nói riêng,
thì Tỉnh Đảng bộ Trà Vinh đã cụ thể hoá nội dung nghị quyết thành những
chủ trương, chính sách, pháp luật xây dựng thành chương trình hành động
cụ thể, bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Song vẫn còn thiếu sót,
đó là nhận thức về quan điểm, nguyên tắc, chủ trương đổi mới của Đảng và
Nhà nước trong một số cán bộ làm công tác tôn giáo vẫn còn yếu, chưa đủ
Trang 2



khả năng để giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo; công tác vận
động đồng bào tín đồ Phật giáo còn chưa thống nhất, chưa phát huy sức
mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ tỉnh, huyện đến xã, đồng thời
chất lượng các tổ chức cơ sở đoàn thể còn nhiều yếu kém.
Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách tôn
giáo đối với đồng bào Khmer theo tín đồ Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà
Vinh, và phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nó;
xây dựng niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, huy động được đông đảo đồng
bào có tín ngưỡng vào sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, qua đó thể hiện được ước nguyện “sống tốt đời đẹp
đạo” của đông đảo đồng bào theo tín ngưỡng tôn giáo và không theo tôn
giáo là vấn đề bức xúc hiện nay. Do đó, nghiên cứu công tác vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách tôn giáo của Tỉnh đảng bộ Trà Vinh đối với
đồng bào Khmer là vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp, tế nhị. Đồng thời, vì
tư liệu quá ít ỏi, thời gian tiếp cận thực tế có hạn, nhưng với mong muốn có
thể góp được chút ít hiểu biết của mình vào công tác quan trọng của địa
phương, nên em đã chọn đề tài “Đảng bộ Trà Vinh vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh thực hiện chính sách tôn giáo đối với vùng đồng bào dân tộc
Khmer trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” được xây dựng trên cơ sở đó,
nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo mang lại cũng như
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao công tác thực hiện chính sách tôn
giáo đối với đồng bào Khmer trong sự nghiệp đổi mới để thực hiện đúng với
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Nhằm hệ thống lại tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước ta về chính sách tôn giáo và nhằm đánh giá sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo của tỉnh đảng bộ Trà
Trang 3



Vinh trong những năm đổi mới vừa qua thực hiện như thế nào. Thông qua
đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thưc hiện chính sách
tôn giáo và nâng cao công tác vận động đồng bào Khmer thực hiện tốt chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, để phát huy mặt tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực, góp phần ổn định đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội đối với đồng bào Khmer trên địa bàn Tỉnh nhà.
- Nhiệm vụ:
Luận văn tìm hiểu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh; đường
lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Từ đó, tìm hiểu quá trình
vận dụng nội dung trên của Tỉnh Đảng bộ Trà Vinh trong việc thực hiện
chính sách tôn giáo trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Trà Vinh
là một tỉnh có nhiều dân tộc và nhiều tôn giáo nhưng luận văn chỉ đi sâu
nghiên cứu về chính sách tôn giáo của Đảng bộ Trà Vinh đối với đồng bào
Khmer trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng:
Luận văn nghiên cứu chính sách tôn giáo và sự vận dụng chính sách
tôn giáo của Đảng bộ Trà Vinh trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến 2008.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi là trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, và
chỉ tập trung nghiên cứu về việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng bộ
Trà Vinh đối với đồng bào Khmer theo hệ phái Phật giáo nam tông.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí luận:

Trang 4



Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và các quan điểm của Đảng, chính
sách của Nhà nước về công tác tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp chung là phương pháp lịch sử, phương
pháp logic, và kết hợp với một số phương pháp như: phương pháp tổng hợp,
phân tích, so sánh và thông qua đó tác giả đã sắp xếp theo một trình tự nhằm
đáp ứng theo yêu cầu của đề tài.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của Luận văn gồm có 2 chương và 7 tiết.

Trang 5


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIẺM CỦA ĐẢNG VỀ
TÔN GIÁO
1.1. Tư tưởng Hồ Chi Minh về tôn giáo và chính sách tôn giáo.
1.1. 1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và
chính sách tôn giáo.
- Cơ sở lí luận:
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho học, từ nhỏ Hồ Chí Minh
đã được làm quen với sách vở, với chữ Nho, Người đã đọc được những điều
về đoàn kết, đồng tâm, đồng chí trong các lời dạy của Khổng Tử, Mạnh Tử
như: “một cái áo làm bằng lông cừu sắc trắng, đâu phải do một con là đủ”,
“một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tính chất
cộng đồng chặt chẽ trong gia đình Việt Nam, truyền thống “ nhiễu điều phủ
lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” của dân tộc
Việt Nam, một đất nước với nền văn hóa Phương Đông còn là cái nôi cho tư

tưởng đại đoàn kết trong Hồ Chí Minh sinh ra và trưởng thành.[20,
tr.177,178].
Nước Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, trong đó có tôn
giáo thu hút được nhiều tín đồ như: Phật giáo, Ki tô giáo. Lịch sử đã chứng
minh: Với cộng đồng các dân tộc, các tôn giáo đó, lúc giữ vững khối đại
đoàn kết toàn dân thì hùng mạnh, lúc bị chia rẻ hoặc tự chia rẻ thì yếu ớt.
Đối với tôn giáo, hơn bao giờ hết cần có đoàn kết thực lòng và bền vững.
Vượt lên các nhà cách mạng phương Tây, Người nhận thức sâu sắc và toàn
diện về ý nghĩa quan trọng của khối đoàn kết toàn dân, trong đó vấn đề đoàn
kết đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ xuyên suốt của công tác tôn giáo. Sức
mạnh đoàn kết là nguyên nhân của mọi thành công.
Hồ Chí Minh là người nhận thức được một cách toàn diện và sâu sắc
ý nghĩa sống còn của khối đại đoàn kết toàn dân đối với sự tồn vong của dân
tộc. Tư tưởng đại đoàn kết của Người được hình thành từ những năm 20, và
Trang 6


tư tưởng đại đoàn kết không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng cũng bắt đầu từ
đấy. Đường lối đoàn kết tôn giáo do chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng có hai
mặt, đồng thời là hai nhiệm vụ thống nhất, là đoàn kết và đấu tranh, giữa
nghiêm khắc và mềm mỏng. Đoàn kết nhưng không coi nhẹ đấu tranh, đấu
tranh để củng cố đoàn kết. Đường lối đó hình thành suốt từ những năm 20
đến những ngày cuối cùng của Người.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn
chăm lo vun đắp cho truyền thống đại đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn
kết tôn giáo. Theo người mục tiêu của đoàn kết tôn giáo là: “Chúng ta phải
tạo ra được lực lượng tiến bộ trong các tôn giáo, đồng thời chống lại hoạt
động phản động lợi dụng tôn giáo, cô lập bọn phản động, làm thất bại mọi
hoạt động của bọn tay sai, đế quốc. Chúng ta phải làm cho Giáo hội Việt
Nam ngày càng tiến bộ hơn, có tinh thần dân tộc, yêu nước, yêu hòa bình và

đoàn kết dân tộc hơn”. Để thực hiện đoàn kết tôn giáo trong chiến lược đại
đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã chú trọng kết hợp sáng tạo các
phương pháp cơ bản sau:
Lấy lợi ích quốc gia dân tộc và quyền lợi căn bản của con người làm
mẫu số chung để thực hiện chiến lược đoàn kết. Đại đoàn kết dân tộc không
đơn giản chỉ là phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, mà cao
hơn, đó là một bộ phận hữu cơ, một sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến
lược cách mạng. Xét đến cùng, ở bất kỳ thời kỳ cách mạng nào, đoàn kết
giữa các lực lượng xã hội đều được hình thành trên cơ sở kết hợp lợi ích tối
cao của dân tộc với quyền lợi của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng
của con người. Người cho rằng, mỗi tôn giáo có ưu và nhược điểm của
chúng nhưng tất cả đều có nét tương đồng lớn nhất là khuyên con người
hướng thiện, khuyên con người tìm đến cái chân, thiện, mỹ- dù con đường
tu tập để đạt đến đích đó có thể rất khác nhau. Đạo đức tôn giáo có phần
ràng buộc con người bằng mối quan hệ tâm linh, việc thực hiện đạo đức tôn
giáo hầu như dựa trên sự thấm nhuần và tự giác của mỗi cá nhân. Do đó, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh những nét tương đồng đó, những “ mẫu số chung”

Trang 7


để hạn chế, khắc phục những khác biệt, giải quyết những mâu thuẫn khi xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Người nhấn mạnh những khía cạnh của đạo
đức tôn giáo như:
“ Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”.
Để thực hiện đoàn kết tôn giáo trong chiến lược đại đoàn kết toàn
dân, theo Hồ Chí Minh, một vấn đề mang tính nguyên tắc là phát huy những
yếu tố tương đồng, dùng cái tương đồng để khắc phục sự dị biệt, cố gắng

tìm ra mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự khác biệt, đặt tiến
trình đi lên lịch sử của đất nước trên căn bản quy tụ sức mạnh toàn dân tộc
thay vì sự loại trừ lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành cộng đồng ấy. Mẫu
số chung có ý nghĩa làm nền tảng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Theo Người, đoàn kết tôn giáo chỉ có thể thực hiện được khi biết trân
trọng phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc phục, giải
quyết những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn. Hồ Chí Minh tìm thấy sự tương
đồng, thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng lành mạnh vốn có trong tôn giáo.
Trong bài “Tự do tín ngưỡng”, với bút danh MH đăng trên báo Nhân Dân
ngày 27/12/1951, Hồ Chí Minh viết: “Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và
chúa Giêsu đều giống nhau: Thích Ca và Giêsu đều muốn mọi người có cơm
ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”. Đề cao tinh thần hy sinh
cao cả, tấm lòng vị tha, bác ái vì con người của Đức Thiên Chúa, Đức Phật,
Hồ Chí Minh kêu gọi giáo dân, Phật Tử phấn đấu noi theo, tích cực tham gia
đấu tranh, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Người nói: “Chúa Cơ đốc sinh
ra làm gương mọi giống phúc đức như: hy sinh vì nước, vì dân, làm gương
lao động, công bằng ruộng đất, tin thờ Chúa bằng tinh thần” và “chúng ta
kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng

Trang 8


đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là những việc
Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần phúc âm”. Đó là điều
không ai có thể phủ nhận được, là những điểm nổi bậc khi bàn đến khía
cạnh đạo đức của tôn giáo. Người đề cập đến vấn đề này: “Học thuyết
Khổng Tử có ưu điểm của nó là dạy sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
của Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ Nghĩa Tôn Dật Tiên

có ưu điểm của nó là chính sách của nó phù hợp với điều kiện của nước ta”.
Và từ đó Người nêu ra cái chung, cái rộng lớn nhất cả Chủ nghĩa Cộng sản
chính là mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu tất cả các tôn giáo, từ
đó người đưa ra nhận xét: “Các tôn giáo ở Việt Nam dù là nội sinh hay
ngoại sinh, đều chứa đựng trong giáo lý của mình những lời khuyên làm
điều thiện, tránh điều ác”..
Trong quá trình lãnh đạo, thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, Người
đã đặt quyền lợi giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy, vì đất nước không
được độc lập, tôn giáo nói chung, các tín đồ tôn giáo nói riêng cũng không
có tự do. Đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc là nguyện vọng thiết tha
của mọi người dân trong đó có các tín đồ.
Sự thống nhất và đoàn kết tôn giáo trên cơ sở mẫu số chung là quyền
lợi dân tộc và quyền lợi của con người, là phương pháp đoàn kết cơ bản,
nhằm tạo nên sự nhất trí cao độ của toàn dân, tạo nên một trận tuyến chung
của mọi tầng lớp nhân dân yêu nước, đoàn kết phấn đấu quên mình cho nền
độc lập thống nhất của dân tộc. Đây cũng là cơ sở vững chắc để bác bỏ mọi
mưu toan lợi dụng tôn giáo của kẻ thù, hòng chia rẽ tôn giáo và dân tộc, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Để đoàn
kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; đoàn kết đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau, theo Người, một phương pháp quan trọng

Trang 9


là phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không
tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần không thể thiếu đối với nhân dân,
là cái thiêng liêng của mỗi người không ai được xâm phạm hay làm tổn hại

đến điều đó.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân,
Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến luật pháp với tư cách là công cụ để
nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mình. Ngay sau khi
cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Cộng hòa non trẻ mới ra đời,
Hồ Chí Minh đã chủ trương quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân
phải được đảm bảo bằng pháp luật. Hiến pháp năm 1946 đã ghi rõ: “Mọi
công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”.
Khẳng định quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, Hồ Chí
Minh còn thể hiện rõ quan điểm về việc chống vi phạm tự do tín ngưỡng
dưới mọi hình thức. Cho nên, ngay sau khi Nhà nước kiểu mới ra đời, Hồ
Chí Minh đã ban hành mệnh lệnh cho cán bộ của Đảng và Nhà nước, cho
Chính quyền, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tín ngưỡng, phong tục tập
quán của đồng bào. Thực chất của tự do tín ngưỡng tôn giáo được Hồ Chí
Minh khẳng định: “là cốt đoàn kết tất cả các đồng bào để làm cho Tổ quốc
độc lập, chứ không phải để chia rẽ, phản đối tôn giáo”. Đối với đồng bào
các tôn giáo, Người chủ trương tuyên truyền vận động để họ hiểu rõ và tin
tưởng vào chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về tự do tín
ngưỡng, từ đó giáo dục quần chúng thực hiện đúng quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của mình.
Phân biệt giữa tổ chức và giáo dân chân chính với tổ chức và cá nhân
giả danh tôn giáo. Thực tế lịch sử dân tộc và trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Hồ Chí Minh đã nhận thức vấn đề tôn giáo là lĩnh vực luôn bị các thế
lực thực dân, đế quốc, bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng nhằm chia rẽ
tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng.

Trang 10


Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã

có quan niệm rõ ràng, phân biệt một cách dứt khoát tổ chức giáo hội Việt
Nam, đặc biệt là tổ chức Giáo hội Thiên Chúa giáo của những người có đạo
chân chính với “chủ nghĩa giáo hội” của một số giáo sĩ nhân danh Chúa, lợi
dụng giáo hội câu kết với bọn thực dân, đế quốc, gây tội ác xâm lược, thống
trị và bóc lột nhân dân Việt Nam. Quan điểm này được thể hiện trong Bản
án chế độ thực dân Pháp (Chương 10 “Chủ nghĩa giáo hội”).
Và hơn nữa khi Hồ Chí Minh tìm gặp chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn
kết tôn giáo. Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã
hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Nhưng
Chủ nghĩa Mác- Lênin cũng thừa nhận vai trò của tôn giáo trong đời sống xã
hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu dài, đồng
thời tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Như vậy, phương pháp đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh là sự vận dụng
sáng tạo phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử để xử lý, giải quyết các mối quan hệ tôn giáo, nhằm thực hiện
đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
-

Cơ sở thực tiễn:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết tôn giáo, không những được
hình thành trên cơ sở lí luận mà nó còn được tiếp thu qua cơ sở thực tiễn.
Đối với Hồ Chí Minh việc thông qua thực tiễn để xác lập tư tưởng, phương
pháp, đường lối, thì được xem như là điểm xuất phát, điểm đích của Người.
Tư tưởng đại đoàn kết được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh
nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế
giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những
thành công hay thất bại của các phong trào đều được Người nghiên cứu để
rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết cho việc hình thành tư tưởng khối đại

đoàn kết dân tộc – tôn giáo của mình. [8, tr. 31-33]. Người cho rằng: “ tôn

Trang 11


giáo, dân tộc là một bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết dân tộc, nếu
chúng ta làm tốt công tác dân tộc- tôn giáo thì khối đại đoàn kết mới được
giữ vững”.
Phong trào cách mạng Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ từ khi thực dân
Pháp xâm lược. Lịch sử hào hùng dân tộc đã chứng tỏ rằng bước vào thời
đại mới, chỉ có tinh thần yêu nước và có một lực lượng lãnh đạo cách mạng
đúng đắn, có lí luận dẫn đường phù hợp với quy luật phát triển của thời đại,
phải có khối đại đoàn kết toàn dân thì mới thắng lợi. Do đó, người đã nung
nấu ý chí quyết tâm đi tìm đường cứu nước. Trong thời gian bôn ba khắp
các châu lục, người đã khảo sát tình hình các nước tư bản, các nước thuộc
địa, nghiên cứu cuộc cách mạng tư sản và các nguyên nhân để giành thắng
lợi. Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các thuộc địa Người đã thấy rõ những
hạn chế là chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa đoàn kết, chưa có tổ chức
lãnh đạo và họ chưa biết cách tổ chức như thế nào.
Đến khi thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga cùng với Lênin, người
lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng đó, đã đưa Người đến bước ngoặt quyết
định trong việc tìm đường cứu nước. Từ chỗ chỉ biết đến cách mạng tháng
Mười một cách cảm tính. Người đã nghiên cứu một cách thấu đáo con
đường cách mạng Tháng Mười, và những bài học kinh nghiệm quý báu mà
cuộc cách mạng này đem lại cho phong trào cách mạng thế giới đặc biệt là
bài học huy động, tập hợp lực lượng quần chúng đông đảo công nông dân để
giành và giữ chính quyền cách mạng, để đánh tan sự can thiệp của 14 nước
đế quốc muốn bóp chết nhà Xô Viết non trẻ, để xây dựng chế độ XHCN, mở
ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh nghiên cứu cách
mạng tháng Mười không phải chỉ qua báo chí, sách vở, mà còn ngay trên đất

nước Lênin. Điều này giúp cho người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc cách
mạng đến nơi đến chốn, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng Việt Nam. Từ đó,
Người đã rút được nhiều kinh nghiệm quý báu để đưa cuộc cách mạng Việt
Nam thắng lợi hoàn toàn.

Trang 12


Từ lịch sử dân tộc và thực tiễn cách mạng, Hồ chí Minh đã rút ra một
bài học là: “ Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.[HCM về đại đoàn kết, tr 348].
Tư tưởng đoàn kết lương – giáo, hòa hợp dân tộc xuất phát từ nhiệm
vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam. Là một người phấn đấu suốt đời hy sinh
cho độc lập, tự do của tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh luôn
ấp ủ trong mình niềm ước mơ, khát vọng là làm sao cho đất nước được giải
phóng, đồng bào ai cũng có cơm ăn , áo mặc, ai cũng được học hành. Thực
hiện được khát vọng đó là một nhiệm vụ vô cùng lớn lao, gian khổ nặng nề,
là trách nhiệm của toàn dân chứ không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Giành
được độc lập dân tộc đã khó, giữ vững nền độc lập, xây dựng Chủ nghĩa xã
hội còn khó hơn.
Tư tưởng đoàn kết luôn bao trùm rộng lớn và có ý nghĩa quyết định
thành công trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, đặc biệt là thấy rõ
sự khác nhau giữa trước và sau năm 1945.
Thời kì trước Cách mạng Tháng Tám, dưới bút danh Nguyễn Ái
Quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều mẫu chuyện, luận văn và bài báo
chủ yếu vạch trần những thủ đoạn tàn bạo của Chủ nghĩa thực dân và những
người cầm đầu giáo hội ở Việt Nam cấu kết với Chủ nghĩa thực dân. Lúc
này vấn đề đoàn kết tôn giáo chưa được nhắc đến vì hoàn cảnh hoạt động bí
mật khiến cho những người Cộng sản trước và sau khi lập Đảng chưa có

điều kiện thực hiện tốt công tác mặt trận của mình. Những luận điểm của
Nguyễn Ái Quốc chủ yếu tập trung trong Chương “ Chủ nghĩa giáo dân”
trong tác phẩm nổi tiếng : Bản án chế độ thực dân Pháp.
Ngoài ra, ở trong nước bọn thực dân Pháp tuyên truyền trong đồng
bào Công giáo quan niệm Thiên Chúa giáo không đội trời chung với cộng
sản.. Đến lúc Cách mạng Tháng Tám thành công thì chúng lại tuyên truyền
rằng cộng sản là kẻ thù của Công giáo, mà Hồ Chí Minh là cộng sản, nên
Trang 13


người giáo hữu không thể đồng hành với Chính phủ Hồ Chí Minh. Tất nhiên
không ít người tin điều đó. Trong những người cách mạng yêu nước lại có
một số người thích vơ đũa cả nắm, chống đồng bào Công giáo gắn bó với
chủ nghĩa thực dân. Vì vậy, họ không đồng tình với chính sách đoàn kết với
đồng bào công giáo do Hồ Chí Minh đề ra, nhất là khi Hồ Chí Minh tỏ thái
độ khoan dung, hòa hợp với những đồng bào công giáo lầm đường lạc lối.
Từ sau cách mạng đến đầu kháng chiến là những năm tháng gian nan
nhất của cách mạng Việt Nam, tình hình có khác. Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ này là giác ngộ và đoàn kết
hàng triệu người theo đạo, đồng thời với việc lên án mặt tiêu cực của Giáo
hội và vạch trần bộ mặt của một bộ phận nhân danh công giáo chống lại Tổ
quốc. Chính trong giây phút nước sôi lửa bỏng này, nhiều cán bộ lại phạm
phải những sai lầm nghiêm trọng trong công tác Mặt trận, nhất là những
vùng Công giáo. Do đó đã xảy ra nhiều cuộc xung đột, đụng độ giữa chính
quyền cách mạng với những người theo Công giáo. Chính vì điều đó, Hồ
Chí Minh thấy rõ được vai trò của những người làm công tác tôn giáo, biết
được vai trò của các chức sắc tôn giáo, nhất là khi nhiều tín đồ của họ chưa
giác ngộ, mất lý trí Người đã ra lời kêu gọi:“ Lương giáo đoàn kết, diệt hết
kẻ thù”. Người phân biệt rõ ràng công giáo yêu nước và những kẻ mang
danh công giáo phản quốc, phản chúa. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động

cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với nhiều đồng bào tôn giáo, từ những
chức sắc cấp cao đến những người bình thường, kể cả các cháu thiếu nhi.
Hồ Chí Minh đã có nhiều năm hoạt động ở các nước tư bản, đế quốc thực
dân, cho nên Người thấu hiểu các thủ đoạn cai trị và tâm địa của Chủ nghĩa
thực dân. Những thủ đoạn chia rẽ, lừa bịp dân chúng “chia để trị” của Chủ
nghĩa đế quốc, trong đó thủ đoạn dùng tôn giáo để mê hoặc, để kích động
nhân dân vốn là ngón đòn quen thuộc. Chính vì thế, ngay khi nước nhà mới
giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến công tác đoàn kết
trong vùng đồng bào tôn giáo, bởi đây là yếu tố tác động đáng kể đến việc
xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng.

Trang 14


Bên cạnh đó, qua thực tiễn thì nhiều người Công giáo đã nhận thức
được tư tưởng bao dung hòa hợp và đường lối sáng suốt của Hồ Chí Minh
về đoàn kết tôn giáo. Linh mục Trần Tam Tỉnh trong một tác phẩm nghiên
cứu về lịch sử công giáo Việt Nam thời cận hiện đại, đã có nhiều trang ca
ngợi tư tưởng, tình cảm của chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Ông
viết: “Đối với giáo hội công giáo, cụ Hồ Chí Minh tỏ ra hết sức có tình, có
lý”. Một chính khách thực dân Pháp tại ở tại Hà Nội ông Xanhtơny cũng có
nhận xét: “Về phần tôi, tôi phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ để nhận thấy
các chương trình của cụ Hồ một dấu vết nào dù là rất nhỏ, của sự công kích,
đa nghi hoặc chế giễu đối với bất kì tôn giáo nào”.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo- tín ngưỡng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo- tín ngưỡng không chỉ là sự vận
dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về tôn giáo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam mà Người còn có những cống hiến mới, sáng tạo
mới đặc biệt quan trọng vào kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác- Lênin. Kết hợp
hài hòa giữa lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, với độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ trong nội dung tư tưởng của Người, theo Hồ Chí
Minh toàn bộ công tác tôn giáo phải hướng đến mục tiêu cơ bản và cấp thiết
là độc lập, tự do cho dân tộc. Nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về tôn
giáo có thể tóm gọn qua các nội dung sau:
Một là, đoàn kết lương- giáo, hòa hợp dân tộc.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết lương giáo là đoàn kết những
người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không có tín ngưỡng, tôn
giáo, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau là một bộ phận
của đại đoàn kết dân tộc nói chung. Ý nghĩa của đại đoàn kết được người chỉ
rõ, sử ta dạy cho bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một
thì nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết được thì bị
nước ngoài xâm lấn. Đoàn kết là xuất phát từ mục tiêu độc lập dân tộc và từ
Trang 15


lý tưởng cao cả giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội của người cộng sản,
lấy nguyên tắc đoàn kết tôn giáo làm trung tâm của chính sách tôn giáo.
Theo Người, để thực hiện được lý tưởng ấy cần phải huy động sức
mạnh của cả dân tộc, trong đó có các đồng bào theo tôn giáo. Muốn đòan
kết những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau với những người không
theo tín ngưỡng, tôn giáo phải đặt lợi ích dân tộc, lợi ích toàn dân lên trên
hết, đồng thời phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào có đạo. Muốn đoàn kết phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng của nhân dân. Khắc phục những mặc cảm, định kiến với nhau và
chống âm mưu chia rẻ lương, giáo của bọn phản động.
Đồng thời, theo Người muốn đoàn kết tôn giáo phải phân biệt được
nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo với việc lợi dụng tín
ngưỡng vì lợi ích cục bộ, vị kỷ; phân biệt đức tin chân chính của đồng bào
có đạo với việc phần tử phản động lợi dụng tôn giáo để chống phá sự đoàn

kết, từ đó có hình thức xử lí phù hợp. Muốn đoàn kết phải chú ý kế thừa giá
trị nhân bản của các tôn giáo, trân trọng những người sáng lập các tôn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói : “nếu như Phật Thích Ca, Chúa Giêsu, Các
Mác, Tôn Dật Tiên sống cùng thời thì chắc chắn các ông sẽ là bạn tốt của
nhau, vì các ông đều có mong muốn giải phóng cho con người”. Người luôn
quan tâm đến các giáo sĩ, giáo dân, độ lượng, vị tha đối với những người
lầm lỗi, phê phán bọn phản động. Quan điểm đoàn kết của người là quan
điểm bao trùm lên tất cả, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì lợi ích của nhân
dân. Muốn đoàn kết với đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo trước hết phải tôn
trọng đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng của họ.
Hai là, Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng của nhân
dân.
Hồ Chí Minh cho rằng: quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
là một trong những quyền tự do, tín ngưỡng của con người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn giáo dục mọi người và bản thân người luôn luôn gương mẫu tôn
Trang 16


trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào có đạo. Sự tôn trọng ấy không
chỉ thể hiện trên văn bản, lời nói mà còn cả trên hoạt động thực tiễn của
Bác. Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán những phần tử những kẻ
lợi dụng tôn giáo, những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, phê phán những việc
làm sai chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Xử lí đúng
đắn mối quan hệ tôn giáo với dân tộc là mấu chốt. Mọi chính sách pháp luật
về tôn giáo phải xoay quanh đoàn kết. Nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược
đoàn kết lương giáo, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, Hồ Chí
Minh chủ trương giải quyết hài hòa giữa lợi ích của bộ phận và toàn thể,
giữa cá nhân với xã hội. Một mặt, Người chủ trương tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng của nhân dân, để thể chế hóa quyền đó thông qua hệ thống pháp
luật của nhà nước, yêu cầu công dân và các cơ quan nhà nước phải tuân thủ

và mặt khác Chính phủ phải có trách nhiệm thường xuyên chăm lo đời sống
mọi mặt cho đồng bào có đạo, bởi suy cho cùng, mục đích của cách mạng là
làm cho dân khỏi đói, khỏi rét, khỏi áp bức bóc lột,…Do đó, sự tôn trọng
đức tin của đồng bào có đạo và lòng thương yêu bà con tín ngưỡng tôn giáo
khác nhau ở Hồ Chí Minh làm cho những người không cùng quan điểm với
người cũng phải kính phục.
Ba là, về mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin và lòng
yêu nước.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đối với người có tín ngưỡng, đức
tin tôn giáo và lòng yêu nước không mâu thuẫn nhau, mà mỗi một người
vừa là người dân yêu nước, vừa là một tín đồ yêu nước, vừa là một tín đồ
chân chính. Đối với đồng bào Công giáo tốt phải là người công dân tốt, kính
Chúa và yêu nước là nhiệm vụ không thể tách rời, có hết lòng phụng sự Tổ
quốc mới làm sáng danh Chúa.
Người thường nhắc, nước độc lập thì tôn giáo mới được tự do, vì vậy
mọi người phải làm cho nước nhà độc lập trước. Độc lập rồi phải quan tâm
đến đời sống của nhân dân, vì “nước độc lập, mà dân không hưởng hạnh

Trang 17


phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”. Thông qua thực tiễn
cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn cụ thể, Hồ Chí Minh đã làm ra những
động lực chủ yếu, trực tiếp cho chiến lược đoàn kết lương giáo, Người đã
làm thất bại mọi âm mưu và hành động nhằm chia rẻ khối đại đoàn kết
lương giáo, xóa bỏ thành kiến. mặc cảm giữa các dân tộc và đồng bào theo
đạo. Trên cơ sở lập trường duy vật Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn khá bao
quát và rộng rãi, từ đó đã đưa Người thực hiện thắng lợi chiến lược đại đoàn
kết toàn dân, góp phần đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Có thể nói,
tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo ra đời khá lâu nhưng đến ngày nay tư

tưởng của Người vẫn còn giá trị, là tài sản vô cùng quý giá giúp Đảng và
Nhà nước ta có cơ sở lí luận hoạch định chính sách tôn giáo diễn biến không
ít phức tập như ngày nay.
1.1. 3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết tôn giáo.
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn được hình thành và phát triển cùng
với toàn bộ quá trình hoạt động lí luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng thời là một nội dung quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết
toàn dân của Người.
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã tập hợp, phát huy sức mạnh
dân tộc, quốc tế vì mục tiêu độc lập tự do, chủ nghĩa xã hội. Với tầm cao trí
tuệ và chủ nghĩa nhân văn cộng sản, Hồ Chí Minh đã giải quyết khoa học
các mối quan hệ phức tạp giữa dân tộc- giai cấp, quốc gia- quốc tế phù hợp
với xu thế phát triển khách quan của thời đại. Người đã khơi dậy và phát
huy đến đỉnh cao của các tập hợp xã hội, từ lực lượng chí cốt cách mạng đến
tầng lớp trung gian, của từng con người để tạo thành tổng hợp lực, thu hẹp
và đè bẹp các thế lực thù địch ngoan cố, phản động nhất. Khối đại đoàn kết
dân tộc được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi
là một trong những quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo được du nhập
trong những điều kiện lịch sử đặc biệt. Vì vậy, vấn đề tôn giáo có tác động
Trang 18


không nhỏ đến việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Lịch sử
Việt Nam đã cho chúng ta nhiều bài học liên quan đến vấn đề này. Khi nào
vấn đề tôn giáo được giải quyết tốt, khi đó khối đại đoàn kết dân tộc mới
được củng cố vững chắc.
Thực hiện phương châm: “Tín ngưỡng tự do, lương - giáo đoàn kết”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng CSVN và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn tôn trọng bình đẳng các tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng,

tự do tôn giáo của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng mỗi tôn giáo đều có
những ưu điểm, có mục đích chung là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.
Người nhận định: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo
đức cá nhân, tôn giáo Thiên chúa Giê - su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa
Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách thích hợp với điều kiện cụ thể của
một nước phương Đông lúc bấy giờ Khổng Tử, Giê - Su, Mác, Tôn Dật Tiên
chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho
loài người. Nếu hôm nay họ còn sống, tôi tin rằng họ nhất định chung sống
với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm học
trò nhỏ của các vị ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh sự tương đồng giữa các
tôn giáo với Chủ Nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội. Người coi tôn giáo
như là một nơi gửi gắm nguyện vọng thiết tha của một bộ phận quần chúng
lao động mong chờ sự giải thoát khỏi áp bức bất công, nghèo khổ. Từ đó, cổ
vũ họ tham gia kháng chiến, kiến quốc. Đối với các chức sắc tôn giáo,
Người luôn động viên, khơi dậy lòng yêu nước, gìn giữ phát huy truyền
thống dân tộc. Ngay cả giám mục Lê Hữu Từ, một người chống cộng khét
tiếng, Hồ Chủ tịch vẫn trọng dụng đưa ông vào hàng ngũ cố vấn cao cấp của
Chính phủ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Trong một bức thư viết
tháng 01/1947, gửi Đức cha Lê Hữu Từ, Bác viết: “Vì công việc còn bận, tôi
chưa có thể gặp cụ để trực tiếp cảm ơn cụ, tôi xin phái người thân tín là ông

Trang 19


Huỳnh thay mặt tôi đến hỏi thăm và chúc cụ mạnh khỏe. Nhờ cụ cầu Đức
Chúa ban phúc lành cho Tổ quốc và xin cụ nhận lời chào thân ái của tôi”.
Như vậy, với sự sắc sảo về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh cái chung, cái tương đồng của các tôn giáo để thực hiện đoàn kết tôn

giáo, các lực lượng cách mạng vào sự nghiệp chung của dân tộc. Nội dung
tư tưởng của Người mang tính chất toàn diện, điều được thể hiện ở trong tất
cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Người nói: “Phải đoàn
kết chặt chẽ giữa đồng bào Lương và đồng bào Giáo, cùng nhau xây dựng
đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”. Trọng tâm tư tưởng của Hồ
Chí Minh là đoàn kết tất cả các tôn giáo, giữa người theo đạo và người
không theo đạo. Cơ sở đoàn kết Lương – giáo theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh chính là sự đồng nhất với mục tiêu vì độc lập, tự do của dân tộc.
Người cho rằng: đồng bào Lương hay đồng bào giáo đều là người Việt Nam,
đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp lớn, lâu dài.
Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các
giải pháp có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn là: “Xây dựng hệ thống chính
trị trong vùng đồng bào tôn giáo, làm tốt công tác vận động các chức sắc và
tín đồ tôn giáo, tích cực đấu tranh chống bọn đế quốc, phản động lợi dụng
tôn giáo”. Người luôn chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo việc xây dựng và phát
huy vai trò của Tổ chức Đảng các cấp, các hệ thống chính quyền, của Mặt
trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể quần chúng khác ở các địa phương,
nhất là vùng có đông đồng bào theo đạo. Người đặc biệt chú ý tới công tác
phát triển Đảng ở các tín đồ tôn giáo, điều này rất quan trọng trong việc tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với đồng bào tôn giáo. Khi trả lời câu hỏi
“người công giáo có thể vào Đảng được không?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: “Có”. Người công giáo nào cũng vào được, miễn là trung thành, hăng
hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ
thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện
hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được”.

Trang 20


Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề

xây dựng đội ngũ cán bộ ở các vùng đồng bào có đạo. Người khẳng định:
“Cán bộ là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Người chủ trương phát triển cán bộ tại chỗ là chính,
để họ trở thành cán bộ “bán chuyên nghiệp” đi vận động tôn giáo. Người
căn dặn cán bộ phải thật bền bỉ thì mới có thể giúp đồng bào tôn giáo phân
biệt rõ bạn và thù.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công tác vận động đối với các chức sắc tôn
giáo và đồng bào tôn giáo là rất quan trọng. Người luôn biểu lộ sự tôn trọng,
quan tâm đối với các chức sắc tôn giáo và tìm cách tốt nhất để tranh thủ họ,
song người cũng có thái độ xử sự dứt khoát, kiên quyết trừng trị những kẻ
lợi dụng tôn giáo để gây chia rẻ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại Tổ
quốc, Người chỉ rõ: “Chính phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp, cưỡng bức
đồng bào lìa bỏ quê hương, sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần
xác cũng như phần hồn”.
Bình đẳng về quyền, bình đẳng về nghĩa vụ trước Tổ quốc và đức tin
tôn giáo của mình là điều Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định và tôn
trọng. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người đã hiệu triệu toàn
dân đứng lên cứu nước: bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ,
không phân biệt tôn giáo đảng phái, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch, dân tộc
Việt Nam triệu người như một, hăng hái thi đua kháng chiến kiến quốc. Rất
nhiều các chức sắc tôn giáo đã trực tiếp tham gia kháng chiến, kiến quốc.
Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, một trí thức công giáo tiêu biểu tham
gia kháng chiến, Hồ Chủ tịch viết: “Tôi được báo cáo rằng: con trai ngài đã
oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc, mất một thanh niên thì hình như tôi mất một
đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác đã dũng cảm hy sinh để
giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ là
con thảo của đức chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu Thượng đế và Tổ
quốc”.


Trang 21


Trong tư tưởng của Người, nhân đạo, nhân văn là điểm mấu chốt, là
xuất phát điểm cấu thành đại đoàn kết dân tộc. Chỉ thực hiện đoàn kết được
khi có lòng nhân đạo, bao dung, vì lợi ích của Tổ quốc mà gác lại mọi lợi
ích cục bộ, bản vị, hẹp hòi. Với lòng bao dung đó, tháng 4 năm 1955, Người
nhắn nhủ đồng bào công giáo đã đi vào Nam: những người muốn đi thì
Chính phủ để tự do đi, nhưng nay gặp tai nạn, chắc nhiều người muốn trở
về. Vậy tôi thay mặt Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa an ủi và nhắn
nhủ đồng bào ấy, để được yên ổn thờ Chúa và làm ăn, nhân dân và Chính
phủ sẵn sàng hoan nghênh và giúp đỡ. Đó chính là sự tôn trọng ý nguyện
của đồng bào công giáo, dù họ nhất thời bị kẻ xấu lợi dung, xúi giục dưới
chiêu bài Chúa đã vào Nam.
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, với mọi tôn giáo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự tôn trọng và thực hiện bình đẳng tôn giáo.
Người khẳng định: Năm ngón tay có ngón dài, ngón ngắn. Nhưng ngắn dài
đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Ta phải nhận ra rằng đã là con Hồng cháu Lạc
thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác Hồ là người am hiểu kinh
thánh, kinh phật và vận dụng những điều răn dạy của Chúa, của Phật vào
thực hiện đoàn kết dân tộc. Trong thư gửi đại biểu đồng bào theo đạo Thiên
Chúa toàn miền Bắc, Người viết: Kinh thánh có câu: Ý dân là ý Chúa. Con
đường yêu nước mà đồng bào đang đi là hoàn toàn đúng. Tôi mong rằng các
cụ phụ lão, các vị giám mục và linh mục hăng hái khuyến khích tín đồ trong
mọi công việc ích nước, lợi dân. Trong Thư gửi Hội Phật tử Việt Nam tháng
8/1947, Người nêu bậc sức mạnh đoàn kết và những đóng góp của Phật tử
cả nước vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, Người viết: Đức Phật là đại
từ bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải
hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết thì sinh ra của

cải, xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để
cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ

Trang 22


quốc. Thế là chúng ta đã làm theo lòng đại từ bi của Đức Phật thích ca,
kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi ải nô lệ.
Với những lời văn mộc mạc, chân thành có sức thuyết phục lòng
người. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi đại biểu đồng bào theo đạo
Thiên Chúa toàn miền Bắc: Lương - giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả
nước một lòng, nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh
thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc và xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Như vậy, tư tưởng Hồ chí
Minh về đại đoàn kết tôn giáo là sự vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn
giáo để giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam một cách đúng
đắn, sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và đáp ứng yêu cầu
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tín đồ tôn giáo Việt Nam thực hiện tư tưởng
của Người đã và đang sống theo phương châm: “ Sống phúc âm trong lòng
dân tộc”, sống “ tốt đời, đẹp đạo”, “đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
1.2. Những quan điểm Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo.
1.2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về tôn giáo.
Ngay từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc, ông cha ta đã thường
xuyên phải đấu tranh chinh phục thiên nhiên và sau đó chiến đấu chống
ngoại xâm. Chính điều đó đã sớm gắn kết mọi người lại với nhau thành một
truyền thống quý báu - truyền thống đoàn kết dân tộc. Giá trị truyền thống
đó đã thấm sâu và kết tinh trong mỗi người Việt Nam.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa chiến lược của vấn đề tôn giáo và đoàn kết
tôn giáo, nên từ khi thành lập đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới Đảng ta
luôn quan tâm xây dựng và thực hiện tốt chính sách tôn giáo, nhằm củng cố

và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Nhờ vậy cách mạng nước ta đã
đi từ thắng lợi này sang thắng lợi khác.
Đoàn kết tôn giáo và tự do tín ngưỡng là quan điểm cơ bản và cũng là
nội dung chủ yếu của chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Trang 23


Chỉ một ngày sau khi đọc bản tuyên ngôn độc lập, trong Phiên họp đầu tiên
của Chính phủ mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ
tuyên bố “ tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Từ đó đến nay, quan
điểm ấy của Người đã trở thành định hướng chung cho việc hoạch định và
thực thi chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì
cách mạng.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các tôn giáo luôn đồng hành
cùng dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước, chính sách tự do tín
ngưỡng và đoàn kết tôn giáo được Ðảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng và
được thể hiện qua các văn kiện Đại hội từ năm 1986 đến nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (18/12/1986), đây là Đại hội
đánh dấu một bước quan trọng, đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong tất
cả các lĩnh vực, trong đó có vấn đề Tôn giáo được Đảng quan tâm. Đảng
khẳng định: Đảng và Nhà nước ta trước sau như một thực hành chính sách
tôn trọng tự do tín ngưỡng. Lãnh đạo và giúp đỡ đồng bào theo tôn giáo
đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc.
Cảnh giác kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế
quốc và phản động chia rẽ đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo,
giữa đồng bào theo đạo này với đồng bào theo đạo khác.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (24/6/1991), Đảng đề ra quan
điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo giữa các tôn giáo.

Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có
đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng; đồng thời nghiêm
cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn
kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công
dân.

Trang 24


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (28/6/1996): Quan điểm của
Đảng là: thi hành nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật Nhà nước. Nghiêm cấm việc xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách
của Nhà nước. Nhà nước chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giúp đỡ
đồng bào có đạo xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống, tham gia các công
việc xã hội, từ thiện. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa
vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
(12/3/2003) đã bàn và ra 4 nghị quyết lớn trong đó có nghị quyết về công
tác tôn giáo. Trong nghị quyết về công tác tôn giáo Đảng và Nhà nước đã
nêu ra 5 quan điểm và chính sách tôn giáo cơ bản cần thống nhất nhận thức
trong các cấp ủy, các tổ chức của Đảng, các cấp, các ngành như sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong

khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát
huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những
người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử
với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và

Trang 25


×