Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo nền KINH tế NHIỀU THÀNH PHẦN (1996 2006)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.71 KB, 75 trang )

GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
(1996-2006)
Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giáo viên hướng dẫn:
HỒ THỊ QUỐC HỒNG

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THỊ THÚY
MSSV: 6055401

CẦN THƠ 5/2009

1


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa mà trước hết là toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan
trong thế giới ngày nay. Không một quốc gia nào có thể phát triển được mà không
tham gia vào quá trình này. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì hội
nhập kinh tế quốc tế còn là con đường tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so
với các nước khác và giữ vững hướng đi đã chọn cho mình.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một trong những chủ trương lớn
rất quan trọng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Thực tế đã
chứng tỏ rằng, đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa
qua, nhờ các thành phần kinh tế phát triển, đất nước ta đã huy động được nhiều
nguồn lực trong nước và ngoài nước, tạo ra động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ.
Nhưng hiện nay, trước yêu cầu mới, phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển đất nước,
bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực
cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế và thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần đang đặt ra nhiều vấn đế mới cả về lý luận và thực tiễn.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã cho rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời
kỳ chuyển giao giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, xã hội sẽ tồn tại
song song các hình thức quan hệ kinh tế của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy mà trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ sẽ có nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn tại và phát triển.

2


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY


Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tế nước ta một cách đúng đắn và sáng tạo đã có những thành tựu đáng kể, thúc
đẩy sự phát triển của đất nước. Để thấy được quá trình vận dụng ấy đem lại những
thành quả gì cho đất nước, tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo nền kinh tế nhiều thành phần giai đoạn 1996-2006”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ đi sâu vào nghiên cứu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế và là sự vận dụng sáng tạo những
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần
kinh tế vào thực tiễn của nước ta trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Đề tài nghiên cứu về những thành phần kinh tế ở Việt Nam, những quan
điểm chỉ đạo của Đảng và kết quả đạt được trong thời gian qua. Từ đó đề ra những
bài học kinh nghiệm để khắc phục những hạn chế trong thời gian tới.
Nhiệm vụ:
Để các thành phần kinh tế phát triển đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta đề ra
những chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với từng thành phần kinh tế, tạo
động lực phát triển kinh tế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, quan điểm cùa chủ tịch Hồ
Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về các thành phần kinh tế này ở Việt
nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi sẽ sử dụng tổng hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu: phương ,pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích
tổng hợp.

3



GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài về nền kinh tế nhiều thành phần có nhiều tác phẩm hay như: “Phát
triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam”-2004, của tác giả Lê Hữu Nghĩa và
Đinh Văn Ân, hay “Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam” của tác giả Vũ Văn Phúc đều trình bày rất rõ về nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta trước đổi mới và trong thời kỳ đổi mới.
Một số tác giả đi sâu nghiên cứu cụ thể từng thành phần kinh tế như tác
phẩm “Về thành phần kinh tế tư bản nhà nước”-2002, của GS.TS Trần Ngọc Hiền,
“Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế Nhà nước”-2001 của tác giả Vũ Đình
Bách…Mỗi tác giả đều đi sâu nghiên cứu làm rõ vấn đề. Dựa trên cơ sở các tác
phẩm, bài viết, bài tham luận về các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới tác giả viết nên đề tài này.
6. Bố cục của đề tài
Luận văn gồm có ba phần và hai chương:
Phần mở đầu: Giới thiệu tóm tắt vấn đề.
Phần hai: Là phần nội dung. Trong phần này có hai chương
Chương I: Tác giả giới thiệu khái niệm, vai trò của từng thành phần kinh tế
và cơ sở lý luận chung về nền kinh tế nhiều thành phần.
Chương II: Là chương mà tác giả trình bày về sự chỉ đạo của Đảng đối với
các thành phần kinh tế, những thành tựu đạt được, những hạn chế cần khắc phục và
rút ra bài học kinh nghiệm.
Phần ba: Tác giả khái quát tóm lược vấn đề đã nghiên cứu trong luận văn.

4



GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm kinh tế nhiều thành phần và tính tất yếu của sự tồn tại kinh
tế nhiều thành phần ở nước ta
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
nền kinh tế trong đó các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển như một tổng
thể, giữa chúng có mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, tác động với
nhau tạo thành một cơ cấu kinh tế thống nhất.
Trong mỗi thành phần kinh tế, tồn tại các hình thức tổ chức kinh tế với quy
mô và trình độ công nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ
chế quản lý kinh tế nhất định. Các thành phần kinh tế được thể hiện ở các hình thức
tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là tất yếu khách quan bởi:
§ Xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế và chưa thể cải biến nhanh
được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới đã xuất
hiện them một số thành phần kinh tế mới: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần
kinh tế tập thể, thành phần kihn tế tư bản nhà nước… các thành phần kinh tế cũ và
các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
§ Xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước,
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng cơ sở vật chất

kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội…vốn là những nhiệm vụ trọng yếu của thời kỳ quá

5


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

độ ở nước ta. Song trong điều kiện ngân sách nhà nước rất hạn hẹp, thu nhập quốc
dân còn thấp, nếu chỉ trông chờ vào nhà nước, việc thực hiện các nhiệm vụ nói trên
sẽ gặp nhiều khó khăn. Giải phóng mọi năng lực bị kìm hãm từ trước tới nay; khai
thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức
quản lý…tức là sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, là đòi hỏi
khách quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
§

Nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cần cù, thông minh. Song số người

chưa có việc làm còn nhiều, vừa lãng phí sức lao động, vừa gây ra những khó khăn
lớn về kinh tế - xã hội. Trong khi đó, khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế
nhà nước không nhiều. Khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế
khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo nên công ăn việc làm cho
người lao động.
Mặt khác trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất tồn
tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều
hình thức, tức là nền sản xuất sẽ có nhiều thành phần song song cùng tồn tại.
1.2.Vai trò của các thành phần kinh tế
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(6/1991) nêu rõ nền kinh tế Việt Nam có 5 thành phần: Kinh tế quốc doanh, kinh tế

tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước.
Đại hội lần thứ VIII (6/1996) xác định trong nền kinh tế có 5 thành phần
kinh tế: kinh tế Nhà nước (thay cho kinh tế quốc doanh trước đây); kinh tế hợp tác;
kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Cho đến Đại hội lần thứ IX (4/2001) xác định ở nước ta có 6 thành phần kinh
tế và trật tự sắp xếp các thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi: Kinh tế Nhà nước;
kinh tế tập thể( thay cho kinh tế hợp tác trước đây); kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế
tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nước ngoài; và có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài.

6


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

1.2.1.Thành phần kinh tế Nhà nước
Kinh tế Nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ phần tài sản do Nhà nước làm chủ
sở hữu, hay nói cách khác kinh tế Nhà nước là bộ phận của nền kinh tế quốc dân
thuộc sở hữu nhà nước.Kinh tế Nhà nước thường bao gồm những bộ phận cơ bản
sau:
Ø Tài nguyên khoáng sản và phần đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước.
Ø Ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, ngân sách nhà nước, tài chính
nhà nước.
Ø Hệ thống dự trữ quốc gia và bảo hiểm quốc gia.
Ø Các dịch vụ công cộng do nhà nước đảm nhiệm.
Ø Các doanh nghiệp nhà nước.
Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh
tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ những lĩnh vực then chốt, là lực lượng

vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và góp phần khắc phục những khiếm khuyết của nền
kinh tế thị trường.
Xét về chức năng và tính chất, kinh tế Nhà nước gồm 2 hệ thống: hệ thống
doanh nghiệp và hệ thống phi doanh nghiệp.
Hệ thống doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp công ích. Hệ thống phi
doanh nghiệp bao gồm ngân sách Nhà nước, các quỹ quốc gia, tài nguyên thuộc sở
hữu của Nhà nước…
Vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước được biểu hiện cụ thể:
· Kinh tế Nhà nước là lực lượng mở đường, hỗ trợ định hướng cho các
thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.

7


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

· Kinh tế Nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng, chủ yếu nhất để Nhà
nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
· Kinh tế Nhà nước là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn
đề xã hội của đất nước.
Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vai trò trung tâm, quyết
định xu hướng vận động, phát triển đối với toàn bộ nền kinh tế trong thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội đất nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ cũng như
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trên thực tế, xây dựng xã hội mới.
1.2.2. Thành phần kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là sự liên kết tự nguyện của những chủ thể kinh tế đối lập để
phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau nhằm giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản

xuất kinh doanh và lợi ích của các thành viên tham gia vào sự hợp tác quốc tế.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế của những người lao động sản xuất nhỏ
bao gồm nông dân, thợ thủ công, người buôn bán và làm dịch vụ nhỏ, cùng nhau
làm ăn tập thể. Những người lao động tự nguyện góp những tư liệu sản xuất chủ yếu
góp vốn, lao động tập thể có phân công ăn chia theo nguyên tắc phân phối theo lao
động.
Đại hội VIII của Đảng, khi còn sử dụng khái niệm kinh tế hợp tác đã nhấn
mạnh “kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã” mà về thực chất Đảng ta
muốn nói đến kinh tế tập thể.
Nước ta đang đi lên con đường chủ nghĩa xã hội, chế độ xã hội ta là chế độ
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta mấy chục năm nay, nó
đã từng đóng góp to lớn vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước và công cuộc hòa
bình xây dựng.

8


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Ngày nay, chúng ta ra sức đổi mới các hợp tác xã, thực hiện tốt luật hợp tác
xã, để thành phần kinh tế tập thể thể hiện đúng và tốt tính chất xã hội chủ nghĩa, tạo
nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống nhân dân.
1.2.3. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và
khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản

xuất nhưng có thuê mướn lao động và vốn của bản than và gia đình.
Thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ thực chất là kinh tế tư nhân có quy mô
nhỏ, bao gồm hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tiểu chủ trực tiếp sản xuất, kinh
doanh có thuê mướn lao động nhưng chưa thành lập doanh nghiệp theo luật doanh
nghiệp (các trang trại, chủ thầu xây dựng loại nhỏ, chủ cửa hàng, xưởng sản xuất),
các liên doanh, trong đó cá thể, tiểu chủ chiếm tỷ trọng vốn lớn. Đây là khu vực
kinh tế tồn tại như một tất yếu và mang tính đặc thù của nền kinh tế nhỏ lẻ, đang
phát triển ở trình độ thấp bắt nguồn từ nông nghiệp như Việt Nam.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở
nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn,
sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Kinh tế cá thể, tiểu
chủ có vị trí quan trọng, lâu dài, nó góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội, giải
quyết nhiều việc làm cho người lao động.
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ trước đổi mới được coi là phi xã hội chủ
nghĩa, hoạt động của họ bị kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chèn ép nên phát
triển khó khăn. Sau đổi mới với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần các
chủ doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể, tiểu chủ được luật pháp bảo đảm sự bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác nên liên tục phát triển và tăng trưởng ổn định
cả về số lượng và quy mô đóng góp nhiều thành tựu cho sự phát triển của đất nước.

9


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

1.2.4. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân bao gồm những doanh nghiệp do các nhà
đầu tư trong nước bỏ vốn thành lập, thuê mướn lao động và hưởng lợi nhuận. Đó là

những doanh nghiệp đăng ký theo luật doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần không có vốn nhà nước) liên doanh với các
thành phần kinh tế tập thể và tiểu chủ, trong đó thành phần kinh tế tư bản tư nhân
chiếm nguồn vốn lớn nhất.
Kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng cấu thành của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần quan trọng vào thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế,công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế tư nhân được xác định là một giai đoạn phát triển cao của kinh tế
hàng hóa. Ngày nay, kinh tế thị trường được xác định là thành tựu chung của nhân
loại. Thực tế cho thấy, chưa có nước nào thành công trong phát triển nền kinh tế thị
trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân như một động lực thúc đẩy
sản xuất hàng hóa phát triển trong nền kinh tế thị trường. Ngược lại, nền kinh tế thị
trường chính là môi trường hoạt động và phát triển của các thành phần kinh tế trong
đó có kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế, huy động các
nguồn lực xã hội cho sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân, tăng nguồn thu nhập cho ngân sách nhà nước, thực hiện, mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.5. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Vào đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin dùng phạm trù “chủ nghĩa tư bản nhà nước”
để chỉ một khái niệm mới phản ánh một hiện tượng kinh tế mới. Hiện tượng này
ngày nay được dùng với phạm trù “kinh tế tư bản nhà nước” ở nước ta.

10


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG


SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Theo khái niệm của Lênin thì kinh tế tư bản nhà nước là hình thức tổ chức
liên kết kinh tế tư bản tư nhân với nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là hình thức kinh
tế hiện đại để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa,
là hình thức kinh tế kết hợp nội lực với ngoại lực trong thực hiện chính sách mở cửa
và hội nhập.
Hiểu theo nghĩa đơn giản thì kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế
bao gồm các liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước, tư bản
tư nhân nước ngoài trong đó kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là một phần không thể thiếu của một
nền kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác mọi tiềm năng, mọi nguồn lực kinh tế
trong và ngoài nước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là hình thức kinh tế giúp cho kinh tế tư
bản tư nhân và tiểu sản xuất hàng hóa nhỏ có môi trường để phát triển thuận lợi và
từng bước chuyển hóa theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tư bản tư nhân là nhân tố quan trọng để liên kết ngay từ đầu giữa
công nghiệp với nông nghiệp - cơ sở xuất phát và lâu dài của phát triển kinh tế thị
trường.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân là một trong những bộ phận phát triển cao
nhất có trình độ phát triển lực lượng sản xuất cao, có cách tổ chức kinh tế có hiệu
quả, đóng góp nhiều cho tăng trưởng và tiến bộ xã hội. Nó là một trong những động
lực chính của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chủ nghĩa xã
hội.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có nhu cầu liên kết với nền nông nghiệp
nhỏ thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.

11



GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Thành phần kinh tế tư bản nhà nước mang tính tập trung sản xuất và quản lý
hiện đại của một hệ thống mở. Nó là nhân tố chủ yếu để khắc phục xu hướng tự
phát, vô chính phủ trong kinh tế, nhất là trong nông nghiệp, thương mại, dịch vụ.
Tạo cơ sở cho việc đẩy lùi và ngăn chặn những tiêu cực (hối lộ, tham nhũng, lãng
phí) trong các cơ sở kinh tế, nhất là kinh tế nhà nước.
1.2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
“Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” thường được hiểu là một loại hình kinh
tế gồm những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có vốn của các doanh nghiệp, cá
nhân người nước ngoài tham gia. Nó bao gồm các doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại nước nhận đầu
tư trên cơ sở hợp đồng liên doanh với nước ngoài và bên nhận đầu tư.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền
sở hữu của các cá nhân, tổ chức nước ngoài thành lập và quản lý.
Ở Việt Nam, trong những năm qua kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
coi là một bộ phận, là những hình thức tổ chức hoạt động không thể thiếu được
trong nền kinh tế. Cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển đa dạng thể hiện dưới nhiều hình
thức như liên doanh, liên kết giữa nhà nước Việt Nam với tư nhân nước ngoài, giữa
tư nhân trong nước với tư nhân nước ngoài, giữa doanh nghiệp nhà nước Việt Nam
với các côngty nước ngoài, kể cả các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Một trong những thành phần kinh tế không thể thiếu trong quá trình mở cửa
và hội nhập của Việt Nam là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Từ năm
1987 đến nay, vị trí của khu vực này trong nền kinh tế ngày càng được cải thiện và
đóng vai trò quan trọng.


12


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã coi kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một thành phần kinh tế, là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt Nam được khuyến khích phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm
nhiều việc làm và đề ra nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường kinh tế và pháp lý để
thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế
chung, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản lý kinh doanh hiện đại.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và của Đảng cộng
sản Việt Nam về các thành phần kinh tế
1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về các thành phần kinh tế và
vai trò của các thành phần kinh tế
Có thể nói vấn đề sở hữu là một trong những vấn đề luôn giành được sự quan
tâm, chú ý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong hầu hết các tác phẩm của mình, C.Mác và Ăngghen luôn coi việc xóa
bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất để trên cơ sở đó phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng một nền kinh tế có kế hoạch và tiến hành phân
phối theo lao động là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giai cấp vô sản khi
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song các ông cũng đã khẳng định rằng giai
cấp vô sản phải coi việc “xóa bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực thực tế” là một hành
động cách mạng, “hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực”và lâu dài, nó không
thể là một hành động nhất thời, trong chốc lát.
Như vậy, ngay trong tư tưởng này cho thấy các ông đã ngầm khẳng định
rằng việc xóa bỏ chế độ tư hữu là một quá trình lâu dài, và trong hiện tại, ngay trước

mắt vẫn còn tồn tại hình thức sở hữu tư hữu mà biểu hiện của nó là các thành phần
kinh tế khác nhau.
Đồng thời các ông đã chỉ ra rằng nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể
thiết lập một cách thực sự khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ phát triển cao. Và
chế độ tư hữu với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là điều kiện cần thiết cho
quá trình tái sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp và vì thế mà nó không bị xóa bỏ

13


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

khi chưa có được lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ phổ biến mà đối với
chúng, sự tồn tại của các thành phần kinh tế này trở thành xiềng xích.
Các ông đã đi đến quan niệm khẳng định, sự phát triển của nền đại công
nghiệp, của nền sản xuất lớn bằng máy móc là tiền đề vật chất tất yếu cho việc xây
dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa với nền sản xuất công cộng. Các ông viết: “Trong
công nghiệp lớn thì mâu thuẫn giữa công cụ sản xuất và sở hữu tư nhân chỉ là sản
vật của nền công nghiệp lớn, và nền công nghiệp lớn này phải đạt một trình độ phát
triển cao mới có thể tạo ra mâu thuẫn đó” [26;45]. Và như vậy, chỉ với công nghiệp
lớn mới có khả năng xóa bỏ được sở hữu tư nhân, xóa bỏ các thành phần kinh tế để
xây dựng chế độ công hữu. Bởi thế Ăngghen cho rằng “Trong bước quá độ lên nền
kinh tế cộng sản chủ nghĩa đầy đủ chúng ta sẽ phải áp dụng trên quy mô lớn nền
sản xuất hợp tác xã với tư cách là một khâu trung gian”. Và còn chỉ rõ việc đó phải
được tổ chức sao cho xã hội, trước hết là nhà nước “vẫn duy trì được cho mình
quyền sở hữu các tư liệu sản xuất và như vậy những lợi riêng biệt của hợp tác xã sẽ
không thể đứng trên những lợi ích của toàn bộ xã hội nói chung” [26;49].
Kế thừa và phát huy quan điểm của Mác và Ăngghen, Lênin cũng đã cho

rằng đặc điểm cơ bản nhất xuyên suốt và bao trùm của cả thời kỳ quá độ là sự tồn
tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Lênin đã chỉ ra rằng, trong
nền kinh tế của thời kỳ quá độ có sự đan xen của những yếu tố, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội.
Những tư tưởng ấy của Lênin đã được triển khai trong công cuộc xây dựng
đất nước XôViết và đem lại nhiều thành tựu quan trọng.
Phân tích thực trạng nền kinh tế nước Nga sau khi chính quyền Xôviết được
thành lập Lênin rút ra có 5 thành phần kinh tế đó là:
· Thành phần kinh tế nông dân gia trưởng.
· Thành phần kinh tế hàng hóa nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và tiểu
thương.
· Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
· Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
· Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.

14


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Lênin cũng đã chỉ ra các thành phần kinh tế cơ bản là: kinh tế sản xuất hàng
hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ,
mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, thời kỳ
quá độ là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời nhưng còn non yếu với
chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Chính vì vậy mà
trong nền kinh tế quá độ chưa có thành phần kinh tế chính trị chi phối, chỉ mới có
thành phần kinh tế Nhà nước vươn lên giữ địa vị chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân.

1.3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú
trọng đến việc giành, giữ và xây dựng chính quyền mong muốn đem lại độc lập cho
dân tộc, cơm áo hòa bình cho nhân dân lao động. Người cũng có những ý tưởng,
quan niệm độc đáo, những định hướng và giải pháp về phát triển kinh tế trong toàn
xã hội. Đặc biệt là người đã lĩnh hội tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về
cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đã áp
dụng một cách sáng tạo vào điều kiện thực tiễn ở nước ta.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện cụ thể là ngay sau khi đất
nước giành được độc lập dân tộc, Nhà nước non trẻ của chúng ta vừa phải kháng
chiến chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành kiến quốc, nhưng ngay từ năm
1953, trong tác phẩm “Thường trực chính trị”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến sự
tồn tại của 5 loại hình kinh tế khác nhau trong chế độ mới:
A. “Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội vì nó là của chung của nhân
dân).
B. Các hợp tác xã ( nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ ( có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D. Tư bản của tư nhân.
E. Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh).

15


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả, cho nên,

kinh tế ta sẽ phát triển phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo
hướng chủ nghĩa tư bản”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh Ngày càng thể hiện rõ ngay sau khi miền Bắc hoàn
toàn giải phóng, Người đã chỉ rõ quy luật phát triển lên tục của quá trình cách
mạng: “Từ chế độ dân chủ nhân dân, nước ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhận
định này vừa ngắn gọn, khái quát cao về lý luận lại vừa có nội dung rộng lớn, và là
phát kiến mới có tính chất đột phá. Nó đã khắc phục tâm lý nôn nóng, đốt cháy giai
đoạn đang thịnh hành lúc đó, cùng với quan niệm về chủ nghĩa xã hội, luận đề này
thực sự trở thành kim chỉ nam cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau khi tổng kết hoạt động 30 năm của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội mà đặc điểm to nhất của ta
trong thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [3;154]. Chính sách
phát triển thấp này đã quy định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế xã hội và sự
tồn tại các thành phần kinh tế khác nhau.
Dựa vào đặc điểm xuất phát từ trình độ thực tại của lực lượng sản xuất xã
hội(“nông nghiệp lạc hậu”) Người đã nhìn lại và chỉ ra các loại hình kinh tế, các
hình thức sở hữu khác biệt được cố kết nhau lại trong một chỉnh thể kinh tế-xã hội
quá độ đang trong quá trình vận động. Hồ Chí Minh viết: “Trong nước ta hiện nay
có những hình thức chính về sở hữu tư liệu sản xuất sau:
· Sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân.
· Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
· Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
· Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.” [3;213].
Các hình thức sở hữu này đều có xu hướng vận động chung là “xóa bỏ các
hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần
phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể”. [3;165]

16



GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Nhìn chung thứ tự sắp xếp các thành phần kinh tế ở Hồ Chí Minh và Lênin là
thống nhất.
Hồ Chí Minh sinh thời là người hiểu rõ sự thành công của chính sách kinh tế
mới của Lênin. Trong bài “Thường thức chính trị”, Người đã đề xuất xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần với tư cách là nền kinh tế dân chủ nhân dân phát triển theo
hướng chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tế Việt Nam Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề xuất tư tưởng phát
triển kinh tế nhiều thành phần, đáng chú ý là trong thời kỳ này các nước dân chủ
nhân dân và xã hội chủ nghĩa, không có nước nào thực hiện chính sách này đến
cùng.
Hồ Chí Minh cho rằng: Một số nước đã phát triển chủ nghĩa tư bản có thể
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, còn những nước kém phát triển như Việt Nam,
Trung Quốc không thể đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội mà “phải kinh qua chế độ dân
chủ mới”.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần là nhịp cầu quá độ, tiến trình phải đi mà
Lênin đã diễn đạt bằng công thức chủ nghĩa tư bản nhà nước, còn Hồ Chí Minh diễn
đạt là nền kinh tế dân chủ nhân dân nhiều thành phần. Có thể công thức hóa tiến
trình phát triển đó như sau: Phát triển nền kinh tế dân chủ nhân dân = dân chủ tư
bản nhà nước(nghĩa rộng) = thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Người cho rằng: Xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
và hoàn cảnh khách quan của thời đại, chúng ta đưa đất nước từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ thống trị của giai cấp tư sản, nhưng không thể bỏ
qua quá trình sản xuất hàng hóa. Các thành phần kinh tế còn có vai trò tích cực và
nhất là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa cũng như thành

tựu, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản và loài người đã sáng tạo ra.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
vấn đề chiến lược, lâu dài trong quá trình đổi mới và công nghiệp hóa, hiện địa hóa,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng
và đường lối này là sự phát triển tư tưởng của Lênin và Hồ Chí Minh lên một trình
độ mới, nội dung và hình thức mới với một số nội dung sau:

17


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

·

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Các thành phần kinh tế không phát triển bên cạnh nhau mà lồng vào

nhau, thâm nhập vào nhau với nhiều hình thức kinh tế hỗn hợp, đa dạng kể cả hình
thức kinh tế cổ phần tạo thành một chỉnh thể của nền kinh tế quá độ.s
· Trong các thành phần kinh tế, quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản
xuất được tách biệt và có cơ chế đảm bảo để phát huy động lực của sự phát triển.
· Trong cơ chế kinh doanh thừa nhận quyền tự chủ sản xuất và hoạt động
kinh tế của các đơn vị kinh tế kể cả hộ gia đình.
· Cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ, các thành phần kinh tế cạnh tranh
nhau để phát triển.
· Phát triển kinh tế nhiều thành phần tạo lực lượng và sức mạnh để công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế được hình thành và phát triển gắn liền với
hoàn cảnh đất nước trong từng thời kỳ lịch sử. Trong những năm 1954-1960, trong

công cuộc khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế ở miền Bắc, tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế là cơ sở cho các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng
và Nhà nước ta.
Mục đích xây dựng nền kinh tế được chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là
không ngừng nâng cao và làm cho đời sống nhân dân ngày càng đầy đủ, sung
sướng, gắn liền với độc lập, tự do và xây dựng đời sống mới xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế kế hoạch hóa. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa, vấn
đề hàng đầu là nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Người khẳng định: “Phải luôn
nhớ rằng: Điều quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay
là nhằm cải thiện dần đời sống nhân dân” [3;134]. Kế hoạch kinh tế phải gắn liền
với kế họach ở các lĩnh vực khác nhau, nhằm đảm bảo cho kế hoạch kinh tế có cơ
sở vững chắc.

18


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

1.3.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
Nhìn lại 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Có thể nói những
kết quả đạt được là cả một quá trình phát triển không ngừng của tư duy nhận thức
và tư duy lý luận.
Trên thức tế, tư duy nhận thức của Đảng luôn trong quá trình vận động
không ngừng, thể hiện trên một số khía cạnh:
§ Từ không thừa nhận đến thừa nhận sản xuất hàng hóa (từ chính sách cộng
sản thời chiến đến chính sách kinh tế mới ở Nga và thực tế phát triển ở các nước xã
hội chủ nghĩa những năm cuối thế kỷ XX)

§ Từ thừa nhận sản xuất hàng hóa có giới hạn đến thừa nhận phải ra sức phát
triển sản xuất hàng hóa.
§ Từ thừa nhận kinh tế hàng hóa có kế hoạch đến coi thị trường vừa là căn cứ
vừa là đối tượng của kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, đến thừa nhận kinh tế hang
hóa có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
§ Từ nóng vội chủ quan cải tạo sớm các thành phần kinh tế tư bản, tư nhân đến
chỗ thừa nhận vị trí, vai trò của chúng trong việc giải phóng mọi sức sản xuất để
phát triển kinh tế đến chỗ xác định sự tồn tại lâu dài, coi các thành phần kinh tế đều
là những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Có thể khẳng định rằng, đây là những bước đột phá quan trọng trong nhận
thức luận về chủ nghĩa xã hội hiện thực nói chung và phát triển kinh tế - xã hội
cũng như về nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng của Đảng ta.
Trong thời gian trước đổi mới, cũng như nhiều nước khác, chúng ta đã áp
dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xôviết, với những đặc trưng chủ yếu là: xây
dựng nền kinh tế khép kín về lực lượng sản xuất; không thừa nhận sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, xây dựng quan hệ sản xuất với hai
thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, hạn chế và muốn nhanh chóng
xóa bỏ sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân; chưa thừa nhận nền sản xuất hàng hóa và thị
trường, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp, coi kế hoạch là đặc
trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, xác định nhiệm vụ sản xuất

19


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

và phân bổ các nguồn lực theo kế họach. Mô hình này đã thu được những kết quả

quan trọng, đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh, nhưng sau
đó bộc lộ rõ những khuyết điểm, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó
khăn.
Từ những năm 1979-1986, Đảng và nhân dân ta bước đầu đã có những tìm
tòi thử nghiệm để cải cách theo hướng thị trường. Tuy có những chuyển biến nhận
thức và thực tiễn quan trọng, nhưng chủ yếu là cải cách thể chế cục bộ trong khuôn
khổ cũ, chưa mang tính đột phá để đủ tạo ra một bước ngoặt căn bản trong quan
điểm lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(12-1986), với thái độ nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của
mình, khẳng định những mặt làm được; phân tích những sai lầm, khuyết điểm, chỉ
rõ nguyên nhân sâu sa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí,
giản đơn hóa, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, không tôn trọng quy luật
khách quan. Đại hội đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn khởi đầu cho sự đổi mới
toàn diện đất nước, trong đó có bài học: Đảng ta luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan.
Đại hội chủ trương: “Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế
tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài
nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác
”[23; 21] . Đại hội đã xác định các thành phần kinh tế cơ bản ở nước ta là:
· Kinh tế xã hội chủ nghĩa: bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể,
cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
· Các thành phần kinh tế khác bao gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ
thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể);
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức
cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.

20



GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Hội nghị lần thứ sáu, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI(1989)chủ
trương phát triển đan xen nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết các hình thức sở hữu.
Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo, cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường,
song khẳng định vai trò chủ đạo không nhất thiết phải luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong mọi ngành nghề. Những ngành nghề, hoạt động nào mà kinh tế hợp tác, kinh
tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì nên tạo điều
kiện cho các loại hình ấy phát triển. Tư nhân được kinh doanh không hạn chế về
quy mô, địa bàn hoạt động trong những ngành nghề sản xuất, xây dựng, dịch vụ,
vận tải mà luật pháp không cấm.
Việc không thừa nhận nền sản xuất hàng hóa và hoạt động của quy luật giá
trị trong thời kỳ trước đổi mới đã cho chúng ta ý nghĩa sâu sắc về hậu quả của nó.
Thực tế cho thấy, chỉ có thể phát triển nền sản xuất hàng hóa, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức và quan hệ sở
hữu, các thành phần kinh tế, tạo ra sự liên kết và tính hỗn hợp, đan xen giữa chúng
và cũng chỉ trên cơ sở đó, mới có khả năng đưa nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất
lớn, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, trên đó xác lập quan hệ sản xuất phù
hợp. Đây là một nhân tố góp phần quyết định xóa bỏ nền kinh tế tự cấp tự túc, mở
đường cho phương thức sản xuất kinh doanh lấy năng suất, chất lượng và hiệu quả
làm mục tiêu. Mặt khác, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với hình thức và
quan hệ sản xuất đó ở Việt Nam còn có tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu và phân công lao động xã hội một cách hợp lý, có khả năng khai thức
mọi khả năng tiềm tàng, sẵn có trong nền kinh tế quốc dân và hình thành một kết
cấu kinh tế thích ứng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
với quá trình “từng bước phát triển kinh tế tri thức”.

Cũng cần nhấn mạnh rằng, nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa “
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước gữ
vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc”. Do vậy, ở Việt Nam hiện nay, sự đa dạng, tính chất hỗn hợp, đan
xen giữa các hình thức và quan hệ sở hữu là tất yếu.

21


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

Từ việc phân tích tình hình trên, Đại hội lần thứ VI đã khẳng định phải giải
phóng sức sản xuất và đưa ra chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn
cơ cấu đầu tư; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng khẳng định cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, xóa bỏ những thành
kiến thiên lệch trong sự đánh giá và đối xử với người lao động thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau.
Đại hội cũng xác định phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các
đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bở tập trung quan liêu, bao
cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển
của nền kinh tế, nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị sản xuất, kinh doanh,
nâng ao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả.
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa VI đã phát triển thêm
một bước chủ trương trên khi đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có

kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định chính
sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản
xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ vầ kinh tế, bảo đảm
cho mọi người tự do làm ăn theo pháp luật.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991) lần đầu tiên nhắc đến cụm từ: nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Khẳng định chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
là có tính chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó xác
định cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là cơ chế thị trường cơ sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ. Qua thảo luận, Đại hội đã xác định các thành
phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ ở nước ta là: kinh tế quốc doanh, kinh tế
tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Bên cạnh đó,
Đại hội đưa ra một kết luận mới quan trọng: sản xuất hàng hóa không đối lập với

22


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, tồn tại khách
quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội
đã được xây dựng. Trên cơ sở đó đã xác định cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khóa VII (1994) khẳng
định thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Khu vực
doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục chấn chỉnh và xây dựng, hoạt động có hiệu

quả, đảm nhiệm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng ta phân biệt rõ sở hữu nhà nước với hình
thức kinh doanh nhà nước, chủ trương tập trung xây dựng doanh nghiệp nhà nước ở
những ngành, những lĩnh vực, những khâu trọng yếu, đồng thời thực hiện các hình
thức cổ phần hóa ở mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) xác định trong nền kinh tế có 5 thành
phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước (thay cho kinh tế quốc doanh trước đây); kinh tế
hợp tác; kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước thay cho vai trò trước đây
của kinh tế quốc doanh, coi doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng
của kinh tế Nhà nước. Phát triển kinh tế hàng hóa, nòng cốt là các hợp tác xã với
nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã, tuân
thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Kinh tế tư bản nhà nước có vai
trò quan trọng, bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với
tư bản nước ngoài. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư sản xuất, yên tâm làm ăn
lâu dài. Với cách sắp xếp này thì Đại hội VIII coi sở hữu nhà nước và tập thể là gần
gũi với chế độ xã hội chủ nghĩa, cho dù trong thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
vẫn còn nhiều yếu tố lạc hậu hơn so với tư bản tư nhân về trình độ phát triển.
Đại hội cũng đã xác định nhiệm vụ cho bước đi tiếp theo là: “ Đẩy mạnh
công cuộc đổi mới một cách toàn diệnvà đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo

23


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY


định hướng xã hội chủ nghĩa”[18;94]. Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; lấy việc giải phóng sức sản xuất, động
viên tối đa các nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân là mục tiêu
hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ
chức kinh doanh. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ
chế tập trung quan lieu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xác lập, củng cố và
nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện
công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
Đại hội lần thứ IX(4-2001) xác định có 6 thành phần kinh tế, trật tự sắp xếp
các thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi: Kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể (thay
cho kinh tế hợp tác trước đây); kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh
tế tư bản Nhà nước; và có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại
hội khẳng định thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.Đại hội đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định chủ trương xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là đường lối chiến lược
nhất quán. Đại hội chỉ rõ đường lối kinh tế của nước ta là: “Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện


24


GVHD: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY

tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh
tế xã hội với tăng cường quốc phòng và an ninh” [19;98]. Có thể thấy đây là bước
phát triển mới rất quan trọng về tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng.
Cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X(4-2006), trên cơ sở phát triển
các đại hội trước và tiếp thu các ý kiến đóng góp, Đại hội nêu rõ: “Cơ cấu thành
phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu, đại hội nhấn mạnh phải phát triển
mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh” [20;65].
Các thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân(cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng
phát triển kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế.
Như vậy, qua các thời kỳ, quan điểm của Đảng vế chế độ sở hữu và thành
phần kinh tế có những đổi mới quan trọng mang tính đột phá. Khái quát lại có thể
nói đổi mới tư duy của Đảng ta về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời gian qua
như sau:

Một là, từ chỗ trong nhận thức cũng như trong hành động không thực sự thừa
nhận kinh tế nhiều thành phần, chia nền kinh tế thành hai bộ phận: Xã hội chũ nghĩa
và phi xã hội chủ nghĩa đã chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành
phần.
Hai là, từ chỗ coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo theo nghĩa phải chiếm tỷ
trọng lớn trong mọi ngành nghề, lĩnh vực đã chuyển sang phân biệt rõ sở hữu nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo, là đòn bẩy
đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng

25


×