ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
----------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI
ĐÓNG GÓP CỦA TÍN ĐỒ TÔN GIÁO MIỀN NAM
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
Sinh viên thực hiện:
Trần Văn Phụng
MSSV: 6088036
Mã số lớp: ML0868A1
MỤC LỤC
1
……
A. PHẦNMỞ ĐẦU…………………………………………………………………....3
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………….3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề…………………………………………………………...4
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………………..5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………………………..5
5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………………5
6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………5
7. Đóng góp của đề tài…………………………………………………………………5
8. Kết cấu của luận văn………………………………………………………………...5
B. NỘI DUNG………………………………………………………………………...6
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, HỒ CHÍ MINH,
CỦA ĐẢNG TA VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO……………………………...6
1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển Chủ nghĩa xã hội khoa học…………………....6
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh……………………………………………………..15
1.3. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề tôn giáo………………………………………23
CHƯƠNG 2. ĐÓNG GÓP CỦA TÍN ĐỒ TÔN GIÁO MIỀN NAM TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM……………………..…...30
2.1. Vài nét về các tín đồ tôn giáo ở Miền Nam Việt Nam……………………..30
2.2. Vai trò của Đảng trong việc đoàn kết các tín đồ tôn giáo ở Miền Nam,
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước……………………………………44
2.3. Những đóng góp quan trọng của các tín đồ tôn giáo Miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng…………….61
2.4. Ý nghĩa và một số bài học kinh nghiệm……………………………………89
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………………95
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..97
PHỤ LỤC.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
2
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Từ buổi bình minh của loài người,
mầm mống của tôn giáo bắt đầu xuất hiện, sau đó cùng với sự phát triển của xã hội
loài người tôn giáo ngày càng hoàn thiện hơn cả về nội dung lẫn hình thức. Những tác
động hay sự chi phối của tôn giáo đối với con người thể hiện ở những mức độ mạnh
yếu tùy theo quan điểm về tôn giáo của từng giai đoạn lịch sử. Tôn giáo có những ảnh
hưởng rất lớn đến với xã hội loài người, trong thời gian đầu khi xã hội chưa có giai cấp
thì tôn giáo chỉ có một vai trò tư tưởng nhưng đến khi xã hội có giai cấp thì tôn giáo
chi phối rất nhiều lĩnh vực trong xã hội như chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa…Tôn
giáo là điểm tựa tinh thần, là nơi hư ảo để con người thỏa mãn nhu cầu và ước vọng
hoàn thiện hơn thế giới trần tục mà họ đang sống.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo với 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo,
Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, ngoài ra còn có rất nhiều những tôn
giáo nhỏ, những tín ngưỡng dân gian truyền thống có mặt khắp mọi miền trên đất
nước, Đặc biệt ở miền Nam có mặt 6/6 tôn giáo lớn và chỉ duy nhất ở miền Nam là nơi
xuất hiện 2 tôn giáo có nguồn gốc tại Việt Nam là Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo,
ngoài ra chính nơi đây là nguồn cội của rất nhiều những tôn giáo nhỏ và những tín
ngưỡng dân gian phong phú và đa dạng mang đậm truyền thống dân tộc Việt Nam.
Sau hiệp định Giơnevơ đất nước ta tạm thời bị chia thành 2 miền, miền Nam vĩ
tuyến 17 trở vào với con sông Bến Hải lịch sử. Miền Bắc bước đầu thực hiện công
cuộc kiến thiết đất nước đồng thời làm hậu phương vững chắc cho miền Nam ruột thịt,
cùng thời điểm trên đế quốc Mỹ ra sức phá hoại hiệp định, dung dưỡng cho chính
quyền Ngô Đình Diệm ra sức đàn áp nhân dân miền Nam. Chính quyền Mỹ – Ngụy đã
dùng nhiều thủ đoạn thâm độc nhằm lật đổ chính quyền cách mạng của ta ở miền Nam
và tham vọng đánh chiếm miền Bắc. Trong khi đó tình hình các tôn giáo ở miền Nam
vô cùng phức tạp, một số tôn giáo đã nhuốm màu chính trị sâu sắc khi các tôn giáo này
tự trang bị vũ trang do một số thủ lĩnh tôn giáo phản động thành lập nhằm xác lập một
chính quyền mới do chúng kiểm soát, Chính quyền Mỹ – Ngụy đã tận dụng triệt để
bọn phản động này, và thực hiện nhiều hoạt động nhằm lôi kéo những tín đồ chân
chính về phía mình, tất cả đều chung một mục đích, đó là lợi dụng các tín đồ tôn giáo
để chống phá cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu là việc Mỹ – Ngụy cưỡng ép hơn một
triệu tín đồ Công giáo di cư vào Nam, gây tổn thất cho chính quyền ta ở miền Bắc,
hàng loạt các vụ xung đột giữa lực lượng Hòa Hảo phản động với chính quyền Ngô
3
Đình Diệm, phong trào đấu tranh của các tín đồ Phật giáo diễn ra hết sức sôi nổi và
nhiều vấn đề khác liên quan đến tôn giáo đòi hỏi Đảng ta phải có những chủ trương và
giải pháp kịp thời, đúng đắn nhằm giải quyết hiệu quả vấn đề liên quan đến tôn giáo ở
chiến trường miền Nam. Với sự nhạy bén với tình hình trong nước, đặc biệt là ở chiến
trường miền Nam. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những bước xử lý khôn khéo để giải
quyết những vấn đề phức tạp liên quan đến các tôn giáo ở miền Nam. Qua đó, chúng ta
thấy được tinh thần yêu nước của đông đảo quần chúng tín đồ các tôn giáo, họ đã có
những đóng góp quan trọng dù ở những mức độ khác nhau nhưng đã góp phần to lớn
cho sự nghiệp chung của cả dân tộc. Để làm rõ hơn những chủ trương, chính sách
đúng đắn của Đảng ta cùng với những đóng góp của các tín đồ các tôn giáo trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tác giả đã chọn đề tài: “Đóng góp của tín đồ tôn
giáo miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Đối với vấn đề nghiên cứu về công tác tôn giáo của Đảng và Nhà Nước ta đã có
một số công trình nghiên cứu như sau:
Luận án tiến sĩ: Phong trào yêu nuớc của đồng bào theo đạo Cao Đài trong
kháng chiến chống Mỹ
Luận án tiến sĩ: Đồng bào Phật giáo Hòa Hảo ở An Giang trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước 1954-1975
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Đạo Công giáo với chính trị ở Việt Nam trong giai
đoạn từ 1954 – 1975.
Luận án tiến sĩ: Đóng góp của đồng bào Phật giáo Hòa Hảo trong phong trào
cách mạng 1954 – 1975
Luận án: Tìm hiểu đạo Hòa Hảo
Bài báo khoa học: Công tác Hòa Hảo vận của Đảng bộ An Giang trong kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Tạp chí NCLS Đảng, số 9.
Và một số bài nghiên cứu khoa học được đăng trên các tạp chí như “Tạp chí
Đảng Cộng Sản”, “Tạp chí Lý luận Chính trị”…
3. Đối tượng nghiên cứu.
4
Đối tượng nghiên cứu là những đóng góp của các tín đồ tôn giáo ở miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ quan điểm của các nhà kinh điểm chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề
tôn giáo
Làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong công tác tuyên truyền, vận động và
đoàn kết tín đồ các tôn giáo tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ - Ngụy.
Làm rõ sự đóng góp tích cực và quan trọng của tín đồ các tôn giáo cho sự thắng
lợi vẻ vang của dân tộc, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Qua nghiên cứu đề tài rút ra một số bài học kinh nghiệm về công tác tôn giáo và
vận dụng những bài học đó vào công tác quản lý tôn giáo hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đề tài chỉ nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 1954 – 1975.
Đề tài tập trung nghiên cứu những chủ trương, chính sách của Đảng ta đối với
các tôn giáo ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Sự đóng góp tiêu biểu của 4 tôn giáo tiêu biểu: Phật giáo,Công giáo, Hòa Hảo,
Cao Đài trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1954 – 1975.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh.
7. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã hệ thống hóa và làm rõ hơn những đóng góp quan trọng của các tín đồ
tôn giáo miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Là chuyên đề để phục vụ giảng dạy và qua đó góp phần xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới.
8. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung gồm 2
chương 7 tiết.
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH, CỦA ĐẢNG TA VỀ NHỮNG
5
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO.
1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học.
1.1.1. Khái niệm tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn
tại phát triển ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Nói
chung bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều bao gồm: ý
thức tôn giáo (thể hiện quan điểm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng
tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng những hoạt động mang tính chất nghi
thức tín ngưỡng của nó.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” của
Mác và tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ăngghen đã nêu một cách dứt khoát quan
điểm về nguồn gốc, bản chất tôn giáo. Ph. Ăngghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người – của những lực lượng bên ngoài
chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ỏ
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.[68; 311] Vì vậy, mà các
nhà nghiên cứu Mác xít về tôn giáo thường coi câu nói trên đây của Ăngghen là định
nghĩa của chủ nghĩa Mác về tôn giáo.
Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ mà ranh
giới phân biệt giữa chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái
niệm tôn giáo. Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
tượng, một lực lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn giáo.
Còn tôn giáo thường được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng có quan
niệm, có ý thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo. Tóm lại, tôn giáo thường có: giáo lý,
giáo luật, lễ nghi, và các tổ chức giáo hội.
Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và vẫn tồn
tại trong thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào các sinh hoạt
tôn giáo. Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu
quả tiêu cực của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu
nhiên đến mức mê muội, cuồng tính với những hành vi tiêu cực, thái quá, phi nhân
tính, phản văn hóa. Mê tín dị đoan thường gây hậu quả tiêu cực đến đời sống xã hội.
Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn
6
giáo. Vì vậy, cùng với việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân
thì đồng thời phải loại bỏ dần mê tín dị đoan nhằm lành mạnh hóa đời sống xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
và lịch sử xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội,
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Vai trò và chức năng của tôn giáo đối với đời sống xã hội.
1.1.2.1. Vai trò của tôn giáo.
Vai trò tiêu cực
Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, tôn giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo của nhân dân,
là vòng hào quang thần thánh trong cái biển khổ của nhân dân, là những bông hồng
tưởng tượng trên xiềng xích của con người, là mặt trời ảo tưởng xoay quanh con
người. Do đó tôn giáo thường hạn chế sự phát triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho
con người có thái độ nhẫn nhục, không tích cực chủ động, sáng tạo trong việc tạo dựng
hạnh phúc thật sự nơi trần gian, mà hi vọng hạnh phúc ở cuộc sống sau khi chết.
Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng để thực
hiện mưu đồ chính trị. Vì cơ sở nhận thức của tôn giáo là chủ nghĩa duy tâm, thần bí,
nên bản thân tôn giáo chứa đựng những yếu tố mê tín. Mà mê tín là niềm tin mù
quáng, mê muội vào những cái thần bí như thần, thánh, ma quỷ, số mệnh, bùa phép…
không dựa trên cơ sở thế giới quan hay phương pháp tu hành của tổ chức tôn giáo nào.
Mê tín thường đối lập với lẽ phải, gây ra những hậu quả xấu đối với con người, xã hội.
Những người theo chủ nghĩa tín ngưỡng thường phủ nhận chân lý khách quan, khẳng
định niềm tin tôn giáo. Trong thực tế, các hiện tượng tôn giáo, mê tín và mê tín dị đoan
thường tồn tại đan xen nhau. Chúng đều có bản chất chung là niềm tin vào lực lượng
siêu nhiên, sự phản ánh hư ảo, sự thiêng liêng hóa, thần bí hóa hiện thực. Chủ nghĩa
Mác Lênin cho rằng, đấu tranh chống tôn giáo là chống lại cơ sở hiện thực làm nảy
sinh tôn giáo. Cần hạn chế mặt tiêu cực, khơi dậy và sử dụng mặt tích cực của tôn
giáo.
Vai trò tích cực
Thể hiện sự phản kháng lại bất công và tàn tạo trong xã hội của quần chúng
lao động nghèo khổ:
Bên cạnh những biểu hiện tiêu cực, tôn giáo cũng có những mặt tích cực của
nó. Điều đó thể hiện ở chỗ: tôn giáo vừa là sự phản ánh của sự khốn cùng của hiện
7
thực, đồng thời lại là sự phản kháng chống lại sự khốn cùng của hiện thực ấy. Đó
chính là sự đấu tranh chống lại sự bất công, tàn bạo trong xã hội có giai cấp và bóc lột
giai cấp.
Giáo dục đạo đức và khuyến thiện:
Tôn giáo bao giờ cũng đề cao tính nhân văn, hướng thiện, khuyên con người
thương yêu, giúp đỡ nhau, tránh điều ác, phi nhân cách, phi đạo đức. Đạo đức tôn giáo
có những điều phù hợp với đạo đức xã hội, và nhiều khi trở thành những giá trị văn
hóa tinh thần của nhân loại.
Đóng góp quan trọng cho nền văn hóa, ngôn ngữ, nghệ thuật, triết lý cho nhân
loại
Tôn giáo là một thành tố của văn hóa, các nền văn minh lớn trên thế giới
thường mang dấu ấn của tôn giáo. Nhiều khi người ta lấy tên của một tôn giáo để chỉ
đặc điểm, sắc thái của một nền văn hóa. Thí dụ, văn hóa Cơ Đốc giáo, văn hóa Hồi
giáo, văn hóa Phật giáo… tôn giáo luôn là mảnh đất màu mỡ, trên đó hình thành và
phát triển những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng.
1.1.3.2. Chức năng tôn giáo đối với xã hội.
Mác và Ăngghen đều cho rằng, trước hết, tôn giáo có các chức năng nhằm thỏa
mãn những nhu cầu tinh thần của một bộ phần quần chúng.
Chức năng “đền bù hư ảo”: Tôn giáo giống như liều thuốc an thần thường làm
dịu, làm nhẹ nỗi đau của con người. Niềm tin vào đấng tối cao mong được sự che chở,
cứu vớt thường làm cho con người có cảm giác được đền bù, xoa dịu, hạnh phúc cho
dù đó chỉ là “hạnh phúc hư ảo”
Chức năng thế giới quan: Ý thức tôn giáo là ý thức về một “thế giới lộn
ngược”, là cách lí giải mơ hồ về thế giới. Thế giới quan tôn giáo dựa trên cở sở của
chủ nghĩa duy tâm, đề cao thực thể tinh thần, coi đó là cái sáng tạo, chi phối thế giới
hiện thực. Thế giới quan tôn giáo thường xa lạ với thế giới quan khoa học. Những
chức sắc của các tôn giáo có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền thế giới quan
tôn giáo mong hình thành trong tín đồ hệ thống những quan niệm về thế giới, từ đó
hướng họ vào việc thực hiện những qui chuẩn, giá trị tôn giáo.
Chức năng điều chỉnh hành vi: tôn giáo nào cũng có những chuẩn mực, giá trị
nhằm điều chỉnh hành vi của tín đồ trong các quan hệ xã hội của họ. Chức năng điều
chỉnh hành vi được thực hiện vừa tự giác, vừa bắt buộc tùy thuộc vào sự nhận thức của
8
tín đồ, vào việc duy trì các quy phạm giáo luật, các điều kiêng kỵ của các tổ chức tôn
giáo. Thí dụ, tín đồ đạo Cơ đốc có lễ xưng tội, tín đồ đạo Phật cầu niệm Phật để tự
nhận thức, điều chỉnh những hành vi của mình.
Chức năng liên kết: Trong lịch sử xã hôi có giai cấp, tôn giáo là những bộ phận
quan trọng của kiến trúc thượng tầng, do đó cũng là nhân tố liên kết xã hội, góp phần
duy trì, bảo vệ trật tự xã hội hiện hành dựa vào những hệ thống giá trị và chuẩn mực
chung của xã hội.
Chức năng giao tiếp: các tín đồ của một tôn giáo giao tiếp với nhau thông qua
sinh hoạt tôn giáo. Sự giao tiếp (liên hệ) với nhau đó tạo nên sự gắn kết trong cộng
đồng, trong tín hữu.
Ngoài các chức năng trên tôn giáo còn có nhiều chức năng khác như chức năng
nhận thức, chức năng văn hóa, chức năng đạo đức…Các chức năng trên của tôn giáo
tồn tại với một hệ thống. Chúng không biệt lập mà bao chứa lẫn nhau, tùy theo các
hoàn cảnh khác nhau mà có những biểu hiện khác nhau. Nội dung xã hội của các chức
năng của tôn giáo có thể biến đổi và thường được các giai cấp khác nhau lợi dụng.
Nhờ có hệ thống chức năng riêng của mình, tôn giáo đã có tác động không nhỏ tới con
người và xã hội. Sự tác động ấy được biểu hiện rõ nét trong vai trò của nó.
1.1.3. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong tiến trình xây dựng xã hội
chủ nghĩa.
Không kể ở những nước xã hội chủ nghĩa, trong quá trình tồn tại đã làm biến
dạng chủ nghĩa xã hội với những khuyết tật không phải từ bản chất của nó, cộng với
những sai lầm trong cải tổ, cải cách đã dẫn tới sự sụp đổ như Liên Xô và các nước chủ
nghĩa xã hội ở Đông Âu, mà ngay ở những nước đang trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội đạt được nhiều thành tựu thì tín ngưỡng và tôn giáo vẫn tồn tại. Có nhiều
nguyên nhân cho sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội, suy cho
cùng cũng là do vẫn còn những cơ sở cho sự nảy sinh và tồn tại của tôn giáo với những
điều kiện cụ thể mới. Ngoài những nguồn gốc chung đó, còn có những nguyên nhân
chủ yếu sau:
Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai
tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… vẫn là một thực
tế. Cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội khác nhau diễn ra dưới nhiều hình thức
9
đa dạng, tinh vi và phức tạp. Trong đó có những lực lượng phản động trong và ngoài
nước vẫn chưa từ bỏ ý định lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của nhân dân.
Tình hình ấy làm cho tôn giáo có lúc, có nơi diễn biến phức tạp.
Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường trong
giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khiến cho con người chịu tác
động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó làm cho con người có
tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lương siêu nhiên.
Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng một mức độ nào đó nhu cầu
văn hóa, tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức,
phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa có chọn lọc những giá trị văn hóa của nhân
loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Đồng thời tín ngưỡng, tôn giáo có liên
quan đến tình cảm tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó sự tồn tại của tín
ngưỡng tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội
khách quan.
Ngày nay, chiến tranh hạt nhân hủy diệt có khả năng được đẩy lùi, nhưng
những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật
đổ… còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… cùng với
những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tín ngưỡng, tôn giáo có mảnh đất tồn
tại.
Chưa có thời kỳ lịch sử nào mà loại người đạt được những thành tựu về khoa
học và công nghệ như hiện nay. Gần đây, với những tiến bộ vượt bật của công nghệ
thông tin, sinh học, vật liệu mới… đã giúp con người có thêm những khả năng để nhận
thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song, hiện thực khách quan là vô cùng, vô tận, tồn tại
đa dạng và phong phú, còn đặt ra nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể giải thích
hết được. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn
tác động và chi phối con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng
vào thánh thần… chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của nhiều người trong xã hội.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại và ý thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn
so với tồn tại xã hội mà tôn giáo lại là một trong những ý thức xã hội bảo thủ nhất. Vì
tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng đến nếp nghĩ, lối
sống của một bộ phận nhân dân, qua nhiều thế hệ; nên dù có những biến đổi lớn lao
10
về kinh tế, chính trị, xã hội… thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo
tiến bộ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Tuy nhiên, sự tồn tại của tín ngưỡng tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội cũng có những đặc điểm riêng. Trước hết giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng của mình, vì vậy, việc tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa duy vật mác xít trong xã hội là cần thiết. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đề ra
những chính sách đối với tôn giáo trên những nguyên tắc không chỉ tôn trọng, bảo
đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng mà còn đảm bảo quyền không tín ngưỡng
của công dân.
1.1.4. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải
quyết các vấn đề tôn giáo.
Giữa chủ nghĩa duy vật Mác xít với hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về cơ
bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc con người,
nhất là cho nhân dân lao động. Về thế giới quan, tôn giáo dựa trên cơ sở triết học duy
tâm; về nhân sinh quan, do không giải thích được chính xác nỗi khổ cực của con người
nên tôn giáo không thể tìm được phương hướng, biện pháp đúng đắn nhằm xóa bỏ nổi
khổ ải ấy trên thực tế. Tôn giáo thường khuyên nhủ con người sống nhẫn nhục, chịu
đựng ở trần thế để trông chờ, hy vọng vào hạnh phúc được bù đắp ở thế giới bên kia.
Vơi hệ thống giáo lý, giáo luật, tín điều, lễ nghi, tổ chức… tôn giáo vươn lên làm chủ
tự nhiên và xã hội của con người.
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới: Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo đã được các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin nghiên cứu và công bố trên cơ sở thực tiễn và cơ
sở triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các ông chỉ ra rằng, muốn thay đổi
ý thức xã hội, trước hết cần thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy
sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ý tưởng đó. Điều cần
thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công,
nghèo đói và thất học…cùng những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một quá trình
lâu dài không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ của con người thì mới có khả năng
gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội.
11
- Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân: Điều cần lưu ý là tín ngưỡng tôn giáo với nhiều hình thức khác nhau vẫn còn tồn
tại trong một xã hội. Nhưng cho đến nay, ý đồ khai thác sự khác biệt hoặc lợi dụng tự
do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn nguy cơ đối đầu dẫn đến khả năng xảy ra những xung
đột, những cuộc chiến tranh dưới hình thức tôn giáo… Trong chủ nghĩa xã hội, việc
tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là một nguyên tắc.
Quyền ấy không chỉ thể hiện về mặt pháp lý mà còn được thực hiện trên thực tiễn nhất
định, xuyên suốt, lâu dài của các đảng mácxit. Nguyên tắc ấy là căn cứ vào nguồn
gốc, tính chất của tôn giáo, căn cứ vào bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và
quy luật của quá trình chuyển biến về mặt tư tưởng của con người – đó là một sự
chuyển biến tự giác, dần dần từ thấp đến cao.
Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là: bất kỳ ai
cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo nào đó hoặc không theo tôn giáo nào. Việc
vào đạo, chuyển đạo hay bỏ đạo theo quy định của pháp luật hiện hành là quyền tự do
của mỗi con người. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận và đảm bảo cho mọi công
dân có hoặc không có tín ngưỡng tôn giáo đều bình đẳng về mặt nghĩa vụ và quyền
lợi, không có sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Các tôn giáo được Nhà
nước thừa nhận đều bình đẳng trước pháp luật. Các giáo hội có trách nhiệm động viên
tín đồ của mình thực hiện bổn phận của giáo dân và nghĩa vụ công dân, phấn đấu sống
“tốt đời, đẹp đạo” phù hợp với lợi ích dân tộc, quốc gia. Mọi người cần có ý thức tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người khác, đồng thời chống lại những
phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động, đi ngược lại với lợi ích dân tộc.
- Quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo: Ở những thời kỳ lịch
sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không như
nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời
sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem
xét đánh giá và ứng xử với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo. Có những tôn giáo
khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích của những người nghèo, người bị
áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại biến thành công cụ của giai cấp bóc lột,
thống trị. Có những giáo sĩ suốt đời hành đạo luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc.
Có những vị chân tu luôn “kính Chúa, yêu nước”, thiết tha muốn sống “tốt đời, đẹp
đạo”, nhưng lại có người sẵn sàng hi sinh quyền lợi của Tổ Quốc cho lợi ích của giáo
12
hội. Điều khiến cho Nhà nước xã hội luôn cần có thái độ, cách cư xử phù hợp với từng
trường hợp cụ thể đó là điều mà V.I. Lênin đã nhắc nhở: “Người mácxít phải biết chú
ý đến toàn bộ tình hình cụ thể”
- Phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo: Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng tôn giáo chỉ biểu
hiện thuần túy về mặt tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn
chính trị ít nhiều đều có tôn giáo và từ đó hai mặt chính trị và tư tưởng thường biểu
hiện và có mối quan hệ trong tôn giáo. Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong
tôn giáo thực chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn luôn
tồn tại trong bản thân tôn giáo. Mặt chính trị thể hiện mâu thuẫn đối kháng về lợi ích
kinh tế, chính trị giữa các giai cấp và những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự
nghiệp cách mạng và lợi ích của nhân dân lao động; còn mặt tư tưởng phản ánh mâu
thuẫn không mang tính đối kháng giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo với những
người không có tín ngưỡng tôn giáo cũng như những người có tín ngưỡng tôn giáo
khác nhau.
Sự phân biệt này trên thực tế, không đơn giản, bởi lẽ: trong đời sống xã hội,
hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong
tôn giáo thường đan xen vào nhau. Dù khó khăn, nhưng việc phân biệt hai mặt này là
cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc “hữu” trong quá trình quản lý ứng xử
những vấn đề nảy sinh từ tín ngưỡng tôn giáo.
Xuất phát từ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia, nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động trong tôn
giáo. Ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở những nước xã hội
chủ nghĩa còn lại. Điều đó nhắc nhở Đảng của giai cấp công nhân cần nêu cao cảnh
giác, giải quyết kịp thời, cương quyết với những kẻ lợi dụng tôn giáo, nhưng cũng
tránh nôn nóng, vội vàng.
Quá trình giải quyết vấn đề nảy sinh tôn giáo phải thận trọng và tỉ mỉ nhằm mục
đích đạt được những yêu cầu chính sau đây:
- Đoàn kết rộng rãi đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo, đồng bào các
tôn giáo khác nhau nhằm phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh. Động viên đồng bào có đạo đóng góp sức lực, trí tuệ…cho sự
13
nghiệp đổi mới và dân chủ hóa đời sống xã hội, giành thắng lợi cho công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
- Phát huy tinh thần yêu nước, thương dân, chuyên cần việc đạo của các vị chân
tu trong hàng ngũ chức sắc, tu sĩ. Hướng các giáo hội vào những tổ chức hoạt động
thuần túy tôn giáo, một giáo hội ở một nước độc lập hành đạo phù hợp với lợi ích dân
tộc, chấp hành chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để hoạt động
chống phá sự nghiệp cách mạng của toàn dân, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc,
quốc gia. Nghiêm cấm những phần tử tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, những kẻ gây hoang mang, kích động, chia rẽ…
làm ảnh hưởng xấu đến xã hội và những hành vi phạm pháp khác, làm cho quần chúng
mà trước hết là tín đồ các tôn giáo thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của những phần tử lợi
dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng và tự giác đấu tranh với chúng.
Sự khác biệt về nhận thức tư tưởng của con người còn tồn tại lâu dài và sẽ là ảo
tưởng khi đặt yêu cầu ngay một lúc phải có sự thống nhất tuyệt đối về nhận thức tư
tưởng đối với mọi thành viên trong xã hội. Hướng ước mơ của con người từ “hạnh
phúc” hư ảo ở thế giới bên kia đến với hạnh phúc thực sự ở thế giới hiện tại là một quá
trình lâu dài. Quá trình ấy có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của khoa học, trình
độ dân trí, nâng cao đời sống vật chất.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo.
1.2.1. Vấn đề tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có thể trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò xã hội của tín
ngưỡng, tôn giáo theo một số quan điểm chính sau đây:
Tín ngưỡng, tôn giáo là một thành tố văn hóa.
Hồ Chí Minh xác định tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận cấu thành của văn
hóa và di sản văn hóa của nhân loại. Người lí giải rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì
mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ phục vụ
cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
14
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [53; 431]. Từ quan niệm như vậy, Hồ Chí
Minh đã rất coi trọng việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, trong đó di sản văn hóa tôn
giáo cả vật thể và phi vật thể gồm chùa chiền, thánh đường, các nghi thức lễ hội…Bên
cạnh sự trân trọng, kế thừa mặt tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo dưới góc độ văn hóa,
Hồ Chí Minh cũng phê phán những hiện tượng phản văn hóa trong các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo như: mê tín, dị đoan, bói toán, đồng cốt và các hủ tục nặng nề trong
ma chay cưới hỏi…
Tín ngưỡng, tôn giáo có tác dụng quan trọng đối với sự hình thành đạo đức của
con người.
Với tầm nhìn của một danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại, Hồ Chí Minh
đã tìm thấy cái chung giữa các tôn giáo đều phản ánh nguyện vọng khao khát tự do và
hạnh phúc của quần chúng bị áp bức, đau khổ thấy rõ tính nhân văn của các tôn giáo
chân chính là hướng các tín đồ, nhân loại tới sự bình đẳng, bác ái, khuyên con người
làm điều thiện, loại trừ cái ác. Hồ Chí Minh rất chú trọng khai thác mặt tích cực của
tôn giáo. Người rút ra: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái, Phật Thích Ca dạy: đạo
đức là từ bi, Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghiã” [56; 225]. Người còn chỉ rõ khát
vọng cao cả của các tôn giáo là: “mục tiêu cao cả của Phật Thích Ca và chúa Giê Su
đều giống nhau: Thích Ca và Giêsu đều muốn mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, bình
đẳng, tự do và thế giới đại đồng” [62; 239]. Đặc biệt với Nho giáo của Khổng – Mạnh
mà Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng từ thuở thiếu thời, Người đánh giá cao ưu điểm của
Nho giáo là chú trọng tu dưỡng đạo đức cá nhân. Người khuyên: “những người An
Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm
của Khổng Tử, về mặt cách mạng thì cần đọc tác phẩm của V.I. Lênin”. Hồ Chí Minh
còn chú trọng khai thác sự hy sinh cao cả của các vị sáng lập ra các tôn giáo để nêu
gương trong giáo dục đồng bào tôn giáo và đồng bào nói chung: “Đức Giê Su hi sinh
vì muốn loài người được tự do hạnh phúc”, và Đức Phật phấn đấu suốt đời để: “lợi lạc
quần sinh, vô ngã vị tha” [54; 50].
Tín ngưỡng, tôn giáo có ảnh hưởng không nhỏ đến chính trị.
Hồ Chí Minh đã vạch trần thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của bọn thực dân tiến
hành xâm lược nước ta. “Trong những cuộc xâm chiếm Đông Dương thì chính những
Nhà truyền giáo Thiên chúa đã đi do thám để báo cho quân đội chiếm đóng biết các kế
hoạch phòng thủ của chúng tôi. Cũng chính những Nhà truyền đạo đã lợi dụng tình
15
hình lộn xộn của đất nước để ăn cắp những văn bản chứng nhận quyền sở hữu ruộng
đất của nông dân này nọ hay một làng nào đó. Khi hòa bình lập lại, nông dân trở về thì
tất cả ruộng đất đều bị các nhà truyền giáo nắm giữ các văn bản nói trên chiếm mất”
[51; 211].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn phê phán
những thế lực chính trị lợi dụng tôn giáo vì mục đích phản động. Song, Hồ Chí Minh
quan tâm hơn đến vấn đề khai thác mặt tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo để thu hút
đồng bào tôn giáo tham gia sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân tộc. Người nói:
“về phần tôi, tôi không bao giờ tin đồng bào Công giáo chống lại Việt Minh, đồng bào
Công giáo tha thiết với nền độc lập của Tổ Quốc và tự do tín ngưỡng thật đầy đủ, và
tôi cũng tin rằng mọi người đều tuân theo khẩu hiệu: Phụng sự Thiên chúa và Tổ
quốc” [55; 302].
Khi miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ cách mạng mới – xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh thường nêu lên những tương đồng nhất định giữa mục
tiêu chủ nghĩa xã hội và sự kì vọng của những người sáng lập ra các tôn giáo. Tuy
nhiên người Cộng sản và người có tín ngưỡng, tôn giáo khác biệt về hệ tư tưởng, song
không vì thế mà khác nhau về quan điểm chính trị. Từ đó Hồ Chí Minh nêu phương
châm: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Thực tế qua hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hầu hết các tổ chức tôn giáo đã tin theo
tiếng gọi của Đảng, của Tổ quốc với tinh thần: “không có gì quý hơn độc lập tự do”,
nhiều đồng bào tôn giáo sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình vì độc lập tự do của
Tổ quốc. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng bào tôn giáo đã
tích cực tham gia sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa mới, nhiều người đã được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia các cơ quan nhà nước.
1.2.2. Hồ Chí Minh với chính sách tôn giáo
Về tôn giáo và dân tộc, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước.
Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước đã
được Hồ Chí Minh giải quyết trên tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân vì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam theo quan điểm
của Hồ Chí Minh là đồng bào Việt Nam, đều là con Lạc, cháu Hồng. Nghĩa đồng bào
ở đây thật sâu sắc ở chổ người tín ngưỡng, người theo tôn giáo hay không theo tôn
giáo, nhưng đã là đồng bào thì đều có nguộn cội tổ tiên. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là
16
người hiểu rõ truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Trong hệ thống giá trị
truyền thống của dân tộc thì yêu nước giá trị của mọi giá trị, là cơ sở để tạo nên sức
mạnh to lớn của dân tộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đồng bào ta đều có
chung kẻ thù là bọn đế quốc cướp nước, lũ Việt gian bán nước, đều có nguyện vọng
chung là đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Đối với tôn giáo, Hồ Chí minh luôn đặt tôn giáo trong quan hệ với dân tộc.
Người luôn đánh giá đúng mức, vai trò của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống tinh
thần của xã hội. Thái độ đối với tôn giáo của Hồ Chí Minh đã được Sainteny, một
quan chức cấp cao người Pháp nhận xét: “Về phần tôi, phải nói rằng, chưa bao giờ tôi
có cớ để nhận thấy nơi các công trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ,
của sự công kích, đa nghi, đối với một tôn giáo bất kỳ” [62; 95]. Hơn nữa với tầm nhìn
của một nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước lỗi lạc, một nhà văn hóa kiệt sức, Hồ Chí Minh
luôn nhất quán quan điểm tín ngưỡng tự do, Lương giáo đoàn kết vừa là vấn đề có ý
nghĩa cấp bách vừa là vấn đề cơ bản lâu dài để thực hiện mục tiêu của cách mạng. Từ
quan niệm trên về dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo, Hồ Chí Minh đã giải quyết một
cách thấu đáo quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với dân tộc; giữa đức tin tôn giáo và
lòng yêu nước.
Theo Hồ Chí Minh, đối với người Việt Nam dù theo tôn giáo nào thì đức tin tôn
giáo và lòng yêu nước là hai vấn đề không gì mâu thuẫn mà thống nhất. Một tín đồ
ngoan đạo vừa là một công dân tốt. Người nói: “một người chân chính yêu nước đồng
thời cũng là những chân chính tín đồ của đức Giêsu. Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài
người được tự do hạnh phúc, đồng bào ta cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc
cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu” [61; 15]
Như vậy theo Hồ Chí Minh tín ngưỡng, tôn giáo và dân tộc, đức tin tôn giáo và
lòng yêu nước của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, hoàn toàn không đối
lập nhau mà có sự thống nhất trên cơ sở lợi ích chung là giành độc lập dân tộc, xây
dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Về chính sách tôn giáo.
Chính sách tôn giáo là một vấn đề rất quan trọng trong việc chuyển hóa quan
điểm, đường lối vào đời sống thực tiễn. Chính sách tôn giáo phù hợp có ý nghĩa trực
tiếp quyết định đến chất lượng hiệu quả của công tác tôn giáo. Vì vậy mà Hồ Chí Minh
17
trong vai trò là người đứng đầu Đảng, Nhà nước rất chú trọng đến chính sách tôn giáo.
Tư tưởng về chính sách tôn giáo của Hồ Chí Minh được hình thành từ truyền thống
văn hóa dân tộc, quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách
mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu
thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người trước hết theo tôn giáo nào thì
trước hết người đó phải là công dân của một nước, một dân tộc cụ thể, phải làm tròn
bổn phận với Tổ quốc, dân tộc mình. Như vậy, truyền thống văn hóa dân tộc nói
chung, truyền thống yêu nước nói riêng chính là cơ sở đầu tiên của Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách tôn giáo.
Thực chất tư tưởng về chính sách tôn giáo của Hồ Chí Minh là nhằm xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Cho nên chính sách tôn giáo theo tư tưởng của Người tính nhất quán lâu dài,
thực sự tôn trọng đối với các tôn giáo và sự mềm dẻo khéo léo trong xử lý các vấn đề
tôn giáo. Trong các sắc lệnh về tín ngưỡng tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư
tưởng nhất quán lâu dài của Đảng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ở “tám điều
mệnh lệnh” của Chính phủ dân chủ cộng hòa ghi rõ: Chính phủ, quân đội và đoàn thể
phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, phong tục, tạp quán của đồng bào. Ngày 5 – 4 – 1948,
Hồ Chí Minh nêu 6 điều nên và không nên làm, trong đó ghi “không nên xúc phạm
đến tín ngưỡng, phong tục của dân” [62; 251]. Chính cương của mặt trận Liên Việt ở
điểm 1, điều 7 có ghi: “Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng cho mọi
người”[67; 194] Sắc lệnh 234/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 14 – 6 – 1955 đã
thể hiện rõ tính chất nhất quán lâu dài của chính sách tôn trọng quyền tự do, tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.
Kế thừa quan điểm của những nhà sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc
xử lý các vấn đề tôn giáo rằng “tuyên chiến ầm ĩ …với tôn giáo là dại dột” [68; 512],
Hồ Chí Minh Luôn có thái độ mềm dẻo, khéo léo, hợp tình, hợp lý trong việc giải
quyết các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Về nguyên tắc, Hồ Chí Minh đòi hỏi
các tổ chức tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, theo quy định tại
Điều 14 (chương IV) Sắc lệnh tôn giáo 234 mà Người đã ký là: “Các tổ chức tôn giáo
phải tuân thủ theo pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, như mọi tổ chức
18
khác của nhân dân”. Trên cơ sở nguyên tắc ấy, các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa
các tôn giáo, quan hệ giữa người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín
ngưỡng, tôn giáo, giữa tôn giáo với chính quyền… đã được Hồ Chí Minh xử lý thành
công đến mức hoàn hảo. Người phân định rạch ngòi thái độ, cách thức ứng xử theo các
mức độ khác nhau, như: đối với chủ nghĩa thực dân và các thế lực tôn giáo cấu kết với
nhau, đó là đấu tranh chống kẻ địch ; còn đối với đồng bào tôn giáo của Đảng, Nhà
nước là đấu tranh trong nội bộ nhân dân. “Trong Hiến pháp nước ta đã định rõ quyền
tự do tín ngưỡng, kẻ nào vi phạm Hiến pháp và khiêu khích bà con Công giáo sẽ bị xử
lý” [63]. Như vậy phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo của Hồ Chí Minh là để giải
tỏa hiểu lầm, tăng cường đoàn kết toàn dân. Muốn vậy phải tỉnh táo phân biệt rõ bạn
thù để có cách ứng xử phù hợp.
Về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, trọng tâm là đoàn kết Lương – Giáo.
Trên cơ sở tư tưởng về chính sách tôn giáo, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan
điểm, giải pháp đúng đắn để thực hiện thành công vấn đề đoàn kết các tôn giáo mà
trọng tâm là đoàn kết Lương – Giáo. Đoàn kết là một tư tưởng cơ bản, bao trùm có ý
nghĩa quyết sự thành công trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Đối với tôn
giáo thì sự chân tình và bền vững như là một điều kiện tiên quyết để thực hiện đoàn
kết. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu
dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn
kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta
đoàn kết với họ” [56; 428]. Đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng trong chiến
lược đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh. Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, Người
đã tìm ra cơ sở, đó là sự tương đồng giữa các tôn giáo, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, các tôn giáo chân chính xét đến cùng đều có hi vọng giải thoát con
người, mong muốn con người được sung sướng, tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh nói:
“Phật sinh ra cũng được lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha.” Đức Giêsu sinh ra là niềm
hạnh phúc của mọi người, phúc lợi cho xã hội. Khổng Tử sinh ra cũng là để giúp con
người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng”.
Thứ hai, tín đồ các tôn giáo căn bản đều là những người lao động bị chế độ cũ
áp bức bóc lột. Họ đều là những người yêu nước thật sự, do vậy họ là lực lượng của
19
cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân với tư cách là chủ
thể cách mạng.
Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh sự tương đồng giữa các tôn giáo mà Người còn ra
sự tương đồng giữa các tôn giáo chân chính với chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội để
thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người coi tôn
giáo như là nơi gởi gấm nguyện vọng thiết tha của một bộ phận quần chúng lao động
mong chờ được giải thoát khỏi ách áp bức bóc lột. Từ đó cổ vũ họ tích cực tham gia
kháng chiến, kiến quốc. Đối với các chức sắc tôn giáo. Người luôn tranh thủ động viên
khơi dậy lòng yêu nước thương nòi giữ gìn phát huy truyền thống quý báu của dân tộc.
Như vậy, với sự sắc xảo về chính trị, Hồ Chí Minh nhấn mạnh cái chung cái
tương đồng của các tôn giáo để thực hiện đoàn kết tôn giáo, kéo các lực lượng tôn giáo
vào sự nghiệp cách mạng toàn dân tộc. Điều này được Người xác định rõ ngày từ ngày
19 tháng 12 năm 1945, trong thư gởi Trần Tu Hòa: “Việt Nam độc lập đồng minh
không phải một Đảng mà một mặt trận toàn dân, bao gồm các đảng phái (Đảng Dân
chủ, phái Xã hội), các phần tử Quốc dân đảng, Đảng cộng sản (đã tự động giải tán) và
các đoàn thể yêu nước không đảng phái như Hội thanh niên cứu quốc, Hội Phật giáo
cứu quốc, Hội Cơ đốc cứu quốc…”[54; 117].
Nội dung của đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh mạng tính chất toàn
diện, được thể hiện cả trong kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Người nói “phải đoàn
kết chặt chẽ giữa đồng bào Lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời
sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”[60; 606].
Trọng tâm của tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh là vấn đề đoàn kết
Lương – Giáo.
Cơ sở của đoàn kết Lương – Giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự “đồng
nhất” với nhau vì mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc. Người cho rằng đồng bào Lương
– Giáo đều là người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp lớn, lâu dài. Vì thế Lương – Giáo phải đoàn kết, toàn dân phải đoàn kết thì sự
nghiệp lớn của dân tộc mới giành được thành công. Qua các bức thư gửi cho các đồng
bào các tôn giáo và chức sắc tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn đề cao cái chung của mọi
người không kể Lương hay Giáo là lòng yêu nước, đó là cái căn bản. Còn cái riêng, cái
dị biệt về đức tin, lối sống: Đồng bào Giáo thì có tình cảm kính Chúa, đồng bào Lương
thì ngưỡng mộ đức Phật chỉ là sự khác biệt nhỏ, giữ lại cái tương đồng lớn.
20
Để thực hiện đoàn kết tôn giáo nói chung, trong đó trọng tâm là đoàn kết Lương
– Giáo, Hồ Chí Minh đã đưa ra những giải pháp có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
đó là: xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đạo. làm tốt công tác đối với các chức
sắc và tín đồ tôn giáo, tích cực đấu tranh chống bọn đế quốc, phản động lợi dụng tôn
giáo. Hồ Chí Minh luôn chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng và phát huy vai trò
của các tổ chức đảng các cấp, của hệ thống chính quyền, của Tổ quốc mặt trận thống
nhất và các đoàn thể, nhất là những nơi có đông đồng bào tôn giáo. Đây là vấn đề rất
quan trọng để thực hiện đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc.
Điều đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là phát triển đảng
viên ở chính tín đồ tôn giáo. Điều này rất quan trọng trong việc tăng cường lãnh đạo,
tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và đồng bào tôn giáo.
Hồ Chí Minh luôn coi công tác vận động đối với các chức sắc và đồng bào tôn
giáo mà mặt trọng yếu trong công tác dân vận. Tại Hội nghị Cán bộ Trung ương tháng
4 năm 1947, Người nhấn mạnh: “Thực dân Pháp đang cố lừa phỉnh và lôi kéo đồng
bào Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo…để phá hoại Mặt trận dân tộc thống nhất của ta;
nên vấn đề vận động tín đồ theo các đạo là trọng yếu bậc nhất trong công tác dân vận”
[19; 119]. Thông qua sự chỉ đạo công tác tôn giáo và thông qua chính hoạt động thực
tiễn của Người, có thể khái quát tư tưởng về vận động các chức sắc tôn giáo và đồng
bào tôn giáo của Hồ Chí Minh trên có mấy điểm chủ yếu sau đây:
Hồ Chí Minh trong tư tưởng, tình cảm và hoạt động của mình luôn có sự nhất
quán tôn trọng sự bình đẳng, không phân biệt đối xử, hoặc công kích bất kỳ tôn giáo
nào.
Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự tôn trọng, quan tâm đến các chức sắc tôn giáo và
tìm cách tốt nhất để tranh thủ họ; song cũng có thái độ cư xử dứt khoát “kiên quyết
trừng trị những kẻ mượn tiếng đạo, làm nhục Chúa, làm hại dân”[74; 25 & 26].
Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến đời sống của đồng bào tôn giáo, chăm sóc cả
“phần xác” và “phần hồn”. Người cho rằng: “phần xác có ấm no thì phần hồn mới
thong dong”, từ đó Người chỉ đạo Chính phủ cần có chính sách cụ thể để cải thiện đời
sống cho đồng bào; đồng thời động viên đồng bào tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao
đời sống. Người đã trực tiếp xuống đồng ruộng, cùng tát nước với dân. Người nói:
“phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên. Đồng
thời phải đảm bảo tự do tín ngưỡng. Nhưng hoạt động tôn giáo không được cản trở sản
21
xuất của nhân dân, không được trái với chính sách và pháp luật của Nhà nước” [60;
606]. Bên cạnh chăm lo “phần xác”, Hồ Chí Minh đồng thời chú trọng đến “phần hồn”
của đồng bào tôn giáo. Người không chỉ đánh giá cao giá trị của văn hóa tôn giáo, mà
còn trực tiếp quan tâm đến các sinh hoạt văn hóa tôn giáo. Người đã nhiều lần đến các
chùa chiền, nhà thờ với tấm lòng thành kính dự các lễ nghi tôn giáo như Phật đản,
Giáng sinh…
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ ở các
vùng đồng bào tôn giáo. Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và
“công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém” [55; 273]. Hồ Chí Minh
chủ trương phát triển cán bộ tại chỗ là chính để họ trở thành cán bộ “bán chuyên
nghiệp” đi vận động tôn giáo. Điều này có tác dụng rất thiết thực, bởi cán bộ tại chỗ
rất am hiểu phong tục, tạp quán sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, song đòi hỏi ở họ ngoài
yêu cầu cơ bản về đức, tài còn phải có nghiệp vụ công tác tôn giáo, phải nắm vững và
thực hiện đúng đắn, nghiêm túc mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về tôn giáo. Người thường căn dặn các cán bộ làm công tác tôn giáo phải
thật bền bỉ, kiên trì trong công tác tôn giáo thì mới có thể giúp đồng bào tín đồ phân
biệt rõ bạn, thù.
Trên đây là tư tưởng cơ bản về tín ngưỡng , tôn giáo của Hồ Chí Minh. Có thể
rút ra thực chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận động chủ
nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo để giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và đáp ứng yêu
cầu thực tiễn của cách mạng giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.3. Đảng Cộng Sản Việt Nam với những vấn đề về tôn giáo.
Tháng 5 năm 1929. Trong cuốn chính cương tối đa của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất ở Thượng Hải, khi nói về
chiến lược chính sách gồm các “yêu cầu căn bổn và khẩn cấp” của tổ chức tiền thân
quan trọng nhất này của Đảng ta, có đoạn: “đánh đổ giáo dục của thống trị giai cấp, đề
xướng và sắp đặt cách mệnh giáo dục. Giáo dục bắt buộc, tổn phí Nhà nước chịu phụ
trách. Cấm chỉ tôn giáo can dự vào giáo dục”.[13; 162]
Tháng 6 năm 1929 tại Hà Nội xuất hiện Đông Dương cộng sản Đảng, trong
tuyên ngôn của đảng này, phần nói về xã hội cộng sản, sau khi đưa ra các quan niệm
về chế độ tư hữu của tư bản, chế độ tư hữu của tư bản, chế độ công hữu và “làm theo
22
năng lực, hưởng theo sức lao động”, sự công bình xã hội thực sự, có viết: “Người cộng
sản không phân biệt tổ quốc, nòi giống, gia đình nào cả, ai cũng như ai, loài người sẽ
cùng nhau lao động cộng tác, đoạt quyền tạo hóa, gây dựng một cõi đời tốt đẹp”[13;
163].
Nghĩa là một cách hiểu “xã hội cộng sản” cổ điển theo khuôn mẫu nhận thức
lúc đó và vấn đề tôn giáo ẩn chứa bên trong với một diễn ngôn gián tiếp.
Đáng chú ý là, vấn đề tôn giáo đã hiện ra một cách rõ nét hơn, ngay ở một trong
những Chỉ thị đầu tiên khi Đảng ta mới thành lập. Đó là Chỉ thị ngày 18 – 11 – 1930
về việc thành lập Hội phản đế đồng minh, tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hiện nay. Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam không những khẳng định
việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng mà còn đi thẳng vào một vấn đề
then chốt: tấn công vào luận điệu vu cáo cộng sản là “Tam vô: Vô chính phủ, vô gia
đình, vô tôn giáo”. Văn kiện này ghi rõ: “vì những chỗ đó đã có cao trào hay phong
trào đã mạnh thì phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt hay tạp quán của nhân dân gia
nhập tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng, đập tan luận điệu
phản tuyên truyền: cộng sản là vô chính phủ, vô gia đình, vô tôn giáo. Vả lại, trong
từng tập thể ấy, từ trước đã có kẻ tốt người xấu, nay do tuyên truyền vận động mà họ
hiểu rõ điều hay lẽ phải, đi đến hiểu biết đau khổ vì nước mất nòi tan. Từ đó mà tiến
dần lên, nhưng không để họ làm nhảm nhí theo tạp quán quá độ, mà phải lãnh đạo họ
dần dần như vậy là lấy quần chúng tổ chức quần chúng, lấy quần chúng tuyên truyền
quần chúng. Đưa đức tin của quần chúng vào cách mạng. Đưa lý luận cách mạng giáo
hóa quần chúng dần dần…” [20; 163].
Sau cao trào 1930 – 1931, từ năm 1935, Đảng ta đã có bề dày kinh nghiệm hơn
trong chỉ đạo hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong, tạo điều kiện cho việc
xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Theo đó, cũng như nhiệm vụ vận động các tổ
chức xã hội, các đảng phái, các tầng lớp nhân dân…Vấn đề tôn giáo đã định hình rõ
hơn trong các văn kiện của đảng, tất nhiên ở khía cạnh vận động chính trị.
Tháng 3 năm 1935, trong Nghị quyết chính trị của Đại hội lần thứ nhất của
Đảng Cộng sản Đông Dương ở Ma Cao, phần Nghị quyết về công tác phản đế liên
minh có đoạn: “Không phân biệt chủng tộc, nam nữ, tôn giáo, xu hướng chính trị, đảng
phái hễ ai có tính chất phản đế là có thể kéo vào Mặt trận phản đế”[61; 163]. Đến
tháng 10 năm 1936, trong tài liệu chung quanh những vấn đề chính sách mới của Mặt
23
trận nhân dân phản đế, có đoạn: “nhiệm vụ lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chính để
bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo
khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều
dân chủ đơn sơ…”[21; 164]
Kể từ khi cuộc chiến tranh thế giới là thứ hai bùng nổ, tháng 9 năm 1939, cùng
với phong trào ngọn cờ giải phóng dân tộc dâng cao, vấn đề tôn giáo được đặt ra trực
tiếp hơn với Đảng ta.
Trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 6 ngày 6, 7, 8 – tháng 11 năm 1939, phần
nói về các đảng phái và xu hướng chính trị (mục 6), lần đầu tiên văn kiện của Đảng có
những nhận định cụ thể về tình hình hai tôn giáo sau:
“đ. Đạo Cao Đài và Phật giáo: Quần chúng có ít nhiều tinh thần phản đế theo
đạo Cao Đài và Phật giáo khá nhiều, nhất là sau những năm khủng bố 1930 – 1931,
đạo Cao Đài kéo theo được một số đông tín đồ, nhưng nhờ thực tế thức tỉnh và nhờ
phong trào dội lướt nên có một số quần chúng theo các đạo ấy đã dần nhận rõ con
đường đoàn kết tranh đấu để đòi quyền lợi, đã có một số đã ra khỏi đạo Cao Đài. Đế
quốc chủ nghĩa Pháp rất xảo quyệt, đã tìm cách lợi dụng những trào lưu tôn giáo để mê
hoặc quần chúng. Những hội chấn hưng Phật giáo ở khắp Bắc – Trung – Nam do bọn
hưu quan và địa chủ cầm đầu có kế hoạch của sở mật thám chính trị bày vẽ. Còn bọn
lãnh tụ đạo Cao Đài lúc trước phần nhiều bị bọn tay sai Nhật mua chuộc và lừa gạt
quần chúng tín đồ theo ảnh hưởng thân Nhật. Từ khi đế quốc Pháp can dự vào chiến
tranh, vì tình hình căng thẳng và vì đế quốc Pháp tìm cách mua chuộc phần nhiều lãnh
tụ Cao Đài đã trở thành tay sai của Pháp, hô hào tín đồ ra đầu quân giúp “mẫu quốc”,
che đậy sự tráo trở hàng đầu của đế quốc Pháp của chúng bằng câu: “đi lính để quay
mũi súng về đánh Tây”. Tóm lại, bọn lãnh tụ Cao Đài là bọn có bản tính phản động,
đòn xóc 2 đầu, tùy theo cơ hội hoặc làm tay sai cho đế quốc này, hoặc bán mình cho
đế quốc khác; còn quần chúng tín đồ thì ít nhiều có tinh thần phản đế, nhưng còn nhiều
mê tín thần bí nên bị bọn lãnh tụ xỏ lá lừa gạt” [22; 527&528]. Văn bản này cũng có
những nhận xét về “phe Đảng thiên địa hội, Phan Xích Long (ở Nam Kỳ), Bạch Tuyết
Cừu (ở Bắc Kỳ)… khá độc đáo.
Cũng chưa bao giờ như trong văn kiện của Hội nghị Trung Ương lần thứ sáu,
vấn đề dân tộc được trình bày khá toàn diện, có nhiều nhận định khá sắc sảo về tình
24
hình nhiều nhóm dân tộc thiểu số như “Miên, Lào (ở Việt Nam), Thượng, Mường,
Chăm, Mán…”
Phần tổ chức quần chúng của tài liệu này còn có những gợi ý công tác tôn giáo:
“Ngoài ra, cần phải khôn khéo chui vào làm việc trong hội quần chúng của Chính phủ
hoặc bọn tư sản địa chủ phản động tổ chức ra như Đạo Cao Đài, Phật học, Hướng đạo
đoàn v.v..Phải căn cứ vào những điều lệ, chương trình hoặc những lời tuyên bố phỉnh
phờ của bọn lãnh tụ mà thúc giục quần chúng đòi thi hành và vạch mặt nạ bọn lãnh tụ,
đồng thời giác ngộ quần chúng chống đế quốc chiến tranh và chống đế quốc” [22; 550]
Ở cuối Nghị quyết này trong tái bút (nguyên văn viết P. S) còn ghi thêm: “Phải
diệt trừ chủ nghĩa trong Tờrốtxky đến tận gốc, cũng như bài kích phái tay chân Cường
Để như Đạo Cao Đài chẳng hạn, thân Nhật đánh lừa quần chúng với câu: “Độc lập, tự
trị - Đồng văn, đồng chủng” mà kéo dân chúng bài Pháp rước Nhật làm thầy”[22; 572]
Liên quan đến các nhóm giáo phái ở Nam Bộ, nhất là Đạo Cao Đài, trong các
văn kiện trước ngày 2 – 9 – 1945, Đảng ta đã nói: “Vận động đồng bào theo đạo: - Mở
rộng Việt Nam Công giáo cứu quốc hội. Cố cảm hóa quân chúng các Hội Phật thầy và
Cao Đài” [23; 423]. đó là Nghị quyết của Hội Nghị toàn quốc Đảng cộng sản Đông
Dương (14, 15 – 8 – 1945). Rõ ràng, những văn bản này đã thấm rõ hơn tư tưởng đại
Đoàn kết dân tộc trong vấn đề tôn giáo của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhưng tất cả những văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam trước
năm 1945 chỉ phản ánh mặt chính trị trong nhãn quan tôn giáo và công tác tôn giáo của
Đảng.
Còn thực chất nhận thức về vấn đề tôn giáo thì sao?
Có lẽ tư liệu mà chúng tôi giới thiệu ngay dưới đây là môt trong những tư liệu
tiêu biểu và rất hiếm, chừng mực nào đó phản ánh nhận thức vân đề tôn giáo của Đảng
ta lúc đó.
Báo Giải phóng, cơ quan lý luận và tuyên truyền của Xứ ủy Nam Kỳ có thể coi
là tờ bào cách mạng tiêu biểu còn lại sau cao trào 1930 – 1931. Bảo tàng Cách mạng
Việt Nam hiện lưu được 21 số là bản dịch ra Pháp ngữ (có dấu của sở mật thám Pháp
ghi rõ dịch để nghiên cứu). Các số báo này vào năm 1934 – 1935 và năm 1936. Báo
Giải phóng in thạch, 4 trang, có khi 6 trang, khổ 21 x 30cm. NXB Lao Động năm 1998
đã cho in cuốn sách sưu tập báo Giải Phóng năm 1934 – 1936 do bảo tàng Cách mạng
25