Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

PHÁT HUY VAI TRÒ của đội NGŨ TRÍ THỨC TỈNH sóc TRĂNG TRONG THỜI kỳ CÔNG NGHIỆP hóa – HIỆN đại hóa (GIAI đoạn 2005 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.79 KB, 112 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH
SÓC TRĂNG TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA –
HIỆN ĐẠI HÓA (GIAI ĐOẠN 2005 - 2015)
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S Đặng Thị Kim Oanh

Lưu Thị Ngọc Bích
Lớp: SP GDCD K34
MSSV: 6086443

CẦN THƠ,
12/2011

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………Trang 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………….Trang 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………..................Trang 2


4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...Trang 3
5. Kết cấu luận văn…………………………………………….............Trang 3
NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÍ THỨC VÀ PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về trí thức và vai trò của đội ngũ
trí thức ..................................................................................................................Trang 4
1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về trí thức và vai trò của đội ngũ trí
thức...............................................................................................................Trang 11
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò đội ngũ trí
thức................................................................................................Trang 16
1.2. Vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước
1.2.1. Khái quát một số vấn đề về công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam và
những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ trí thức....................................Trang 25
1.2.2. Đội ngũ trí thức Việt Nam lực lượng cơ bản cho việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện - đại
hoá đất nước………………...............Trang 33

Chương 2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH SÓC TRĂNG
TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA (GIAI ĐOẠN
2005-2015)
2.1. Đặc điểm đội ngũ trí thức Sóc Trăng
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa- xã hội tỉnh Sóc
Trăng .........................................................................................................Trang 41
2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức Sóc Trăng ....................................Trang 43
2



2.3. Đặc điểm đội ngũ trí thức Sóc Trăng trong thời kỳ công nghiệp hóa –hiện
đại hóa (giai đoạn 2005 -2010)..........................................................Trang 46
2.2. Những mặt tích cực và hạn chế trong việc phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức tỉnh Sóc Trăng ( giai đoạn 2005-2015)
2.2.1. Về số lượng và chất lượng...................................................Trang 47
2.2.2. Về cơ cấu, phân bố, sử dụng và đãi ngộ đối với trí thức của tỉnh Sóc
Trăng................................................................................................Trang 74
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH SÓC TRĂNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA

(GIAI ĐOẠN 20102015)

3.1. Phương hướng nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở tỉnh Sóc
Trăng trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa
3.1.1. Về nhận thức........................................................................Trang 78
3.1.2. Về hoạt động........................................................................Trang 80
3.2. Giải pháp chủ yếu để đội ngũ trí thức tỉnh Sóc Trăng tiếp tục phát huy tốt
vai trò của mình trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
3.2.1. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức phải gắn liền với việc đổi mới có
hiệu quả sự nghiệp giáo dục đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ trí thức của tỉnh
Sóc Trăng. Đồng thời, tăng cường đầu tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học công
nghệ, giáo dục và chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với người trí thức tỉnh Sóc
Trăng...................................................................................Trang 83
3.2.1. Đổi mới nhận thức của xã hội về vai trò, vị trí của trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa . Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với trí thức Sóc
Trăng

...................................................................................................................Trang


96
3.2.3. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa tỉnh
Sóc Trăng.........................................................................................Trang 100
3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của chính sách thu hút nhân tài, đào tạo
nhân lực trình độ cao, tạo lập các chính sách thu hút trí thức về cơ sở hoạt
động…………………………………………………….........................Trang 102
3


KẾT LUẬN ..........................................................................................Trang 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................Trang 105

4


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam
(tháng 4 năm 2006) đã tổng kết toàn diện 20 năm đổi mới đất nước (1986-2006)
và khẳng định đường lối tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Khi đất nước ta bước vào giai đoạn mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, vai trò lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức ngày
càng được xã hội ghi nhận không chỉ trong phạm vi toàn quốc mà còn ở cả địa
phương. Đội ngũ trí thức đã không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng,
không những góp phần phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng
mà còn là đại biểu cho trí tuệ dân tộc, họ tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng

cao dân trí, là lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu triển khai ứng dụng khoa
học, kỹ thuật và công nghệ, tạo động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa phát triển.
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng kinh tế trọng điểm
của cả nước nhưng lại là vùng có trình độ dân trí thấp mà đặc biệt là tỉnh Sóc
Trăng . Mặc dù là một tỉnh có những tiềm năng to lớn về đất đai, nguồn lợi tự
nhiên, đồng thời còn là mảnh đất có truyền thống yêu nước và cách mạng.
Những năm qua, Đảng bộ nhân dân địa phương, trong đó có lực lượng trí thức,
đã phát huy sức mạnh và khắc phục những khó khăn để từng bước đi lên hòa
nhập với sự phá của triển của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó trí thức tỉnh Sóc
Trăng vẫn còn yếu kém về nhiều mặt, bên cạnh những ưu điểm, đã bộc lộ
không ít những tồn tại và hạn chế như: số lượng còn ít, chất lượng chứ đáp ứng
yêu cầu của công nghiệp hóa – hiện đại hóa ; cơ cấu thiếu đồng bộ; phân bố
không đồng đều giữa các ngành các địa phương.

5


Vì vậy, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Sóc Trăng trong thời kỳ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay đang là vấn đề cấp bách. Việc nghiên
cứu vai trò và tính tích cực của đội ngũ trí thức Sóc Trăng là vấn đề hết sức khó
khăn, thời gian tiếp cận thực tế có hạn. Hơn nữa, chưa có tài liệu nào của tỉnh
bàn về vấn đề này một cách có hệ thống. Nhưng với mong muốn góp chút ít
hiểu biết còn hạn chế của mình vào việc phát huy vai trò và tính tích cực của trí
thức Sóc Trăng tác giả đã chọn đề tài: “ Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
tỉnh Sóc Trăng trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa ( giai đoạn
2005 -2015)” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu về thực trạng đội ngũ trí thức Sóc Trăng.
Từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò

của đội ngũ trí thức tỉnh Sóc Trăng ngày càng vững mạnh để thực hiện tốt mục
tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (giai đoạn
2005-2015).
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin , tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò cuả đội ngũ trí
thức; vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước.
Hai là, trình bày thực trạng của đội ngũ trí thức tỉnh Sóc Trăng trong
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (giai đoạn 2005 – 2010).
Ba là, từ những thực trạng đã nêu đề xuất những phương hướng và giải
pháp để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Sóc Trăng trong thời kỳ công
nghiệp hóa – hiên đại hóa (giai đoạn 2010 – 2015).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : làm rõ vấn đề phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức tỉnh Sóc Trăng trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (giai
đoạn 2005 -2010).
6


Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: ở tỉnh Sóc Trăng.
Phạm vi thời gian: giai đoạn 2005 – 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong đó có chủ nghĩa xã hội khoa học, đặc biệt là các
phương pháp: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn

để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu gồm 3 chương 6 tiết.

7


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÍ THỨC VÀ PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
1.1.

Quan điềm của chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

Đảng Cộng sản về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về trí thức và vai trò

của đội ngũ trí thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì tầng lớp trí thức là đại
biểu cho trí tuệ của cả dân tộc. Trong phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thì những trí thức tiến bộ những nhà lý luận của giai
cấp vô sản đã góp phần thức tỉnh quần chúng nhân dân giác ngộ về lý tưởng
cách mạng. Trong xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa trí thức
tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí. Và quan trọng hơn là trí
thức tham gia vào việc phát triển lực lượng sản xuất khoa học công nghệ. Do
vậy V.I.Lênin đã từng nói “không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các
lĩnh vực khoa học kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên xã

hội chủ nghĩa được vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có
tính chất quần chúng để đi tìm một năng xuất lao động cao hơn năng xuất lao
động của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã đạt
được”[47,tr.217].
Trí thức không có hệ tư tưởng riêng, chủ yếu vì không có phương thức
sản xuất riêng và điạ vị kinh tế xã hôị độc lập. Trong tất cả các chế độ xã hội trí
thức đều cơ bản phục vụ cho giai cấp thống trị, chịu ảnh hưởng tư tưởng
của giai cấp thống trị. Theo V.I.Lênin “Trí thức không hợp thành một giai
cấp độc lập về kinh tế” mà là một tầng lớp xã hội xuất thần từ nhiều giai cấp.
Theo V.I.Lênin “Trí thức được gọi là trí thức chính nhưng nó phản ánh và thể
8


hiện sự phát triển của các lợi ích giai cấp và các nhóm phản chính trị trong toàn
bộ xã hội một cách có ý thức hơn cả, kiên quyết hơn cả, chính xác hơn cả”
[44,tr. 416].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu trí thức không phải là một giai cấp mà là
một tầng lớp đặc biệt trong xã hội. Từ vị trí của mình trong phân công lao động
xã hội, trí thức không có quan hệ riêng với tư liệu sản xuất – cái dấu hệu quan
trọng nhất để phân biệt giai cấp, do đó không có thể đại biểu cho phương thức
sản xuất nào cả, cũng không có hệ tư tưởng độc lập. Cho nên trí thức phải luôn
gắn bó với một tầng lớp nhất định. Tầng lớp trí thức có thể tự giác hay không tự
giác phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình đấu tranh giai cấp tác
động về nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tầng lớp trí thức phân hóa thành những
bộ phận khác nhau. Những bộ phận khác nhau đó sẽ ngã theo lực lượng này hay
lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác. Tình giai cấp của tầng lớp trí
thức phụ thuộc vào giai cấp mà nó phục vụ, giai cấp đã sinh ra nó và truyền sức
mạnh cho nó. V.I.Lênin luôn phê phán những ai coi trí thức là “siêu giai cấp”
hay đứng trên giai cấp. Người nói “Nếu không nhập cuộc với một giai cấp thì
giới trí thức chì là một con số không mà thôi” [43,tr.552] .

Như vậy, khi phân tích các luận điểm về khái niệm trí thức ở nước ta,
chúng ta cần phải vận dụng định nghĩa của V.I.Lênin về giai cấp, để tiếp cận
đúng đắn phạm trù trí thức. V.I.Lênin “gọi là các giai cấp, những tập đoàn to
lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất
xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư
liệu sản xuất,mà họ được hưởng” [49,tr.17-18].
Tầng lớp trí thức khác với những người lao động chân tay trước hết
chính là ở chỗ phân công lao động xã hội quy định. Sự phân công lao động xã
hội quy định sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức. Vì vậy trí thức
không chỉ là một phạm trù xã hội mà là một phạm trù lịch sử. Trên cơ sở của sự
phân công lao động (phân công lao động vật chất, phân công lao động tinh
thần) đã làm cho sự phân công lao động trên các lĩnh vực hoạt động sản xuất và
tinh thần được tăng cường, năng suất lao động ngày càng cao hơn, lực lượng
sản xuất ngày càng phát triển, mở rộng việc trao đổi. Như vậy, trí thức là kết
quả và sản phẩm của quá trình phân công lao động vật chất và tinh thần tức là
9


sự phân chia lao động trí óc và lao động chân tay. Sự phân công lao động đó
như Mác – Ăngghen đã chỉ rõ sẽ dẫn tới phạm vi hoạt động “độc chuyên” của
mỗi người trong xã hội và người đó phải nhận thấy và không thể thoát được”
[7,tr.43].
Như vậy, trí thức nói riêng hay tầng lớp trí thức nói chung trong phân
công lao động xã hội đó chính là vị trí của những người hoạt động trên lĩnh vực
“lao động tinh thần” khác với đại đa số quần chúng nhân dân lao động chân tay
trên lĩnh vực “sản xuất vật chất”. Chính xuất phát từ vị trí do phân công lao
động xã hội quy định mà chức năng lao động xã hội quy định trí thức khác với
người lao động chân tay. Do đó cũng đòi hỏi người trí thức phải có trình độ học
vấn chuyên môn cao mới thực hiện được chức năng vai trò của họ trong phân
công lao động xã hội.

V.I.Lênin định nghĩa về trí thức: “Trí thức bao hàm không những chỉ các
nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại
biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của những người lao động trí
óc [46, tr.372]. Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng:
“Người trí thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực
theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ
chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin
của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới
có thể đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn
tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác
được kết quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn
thể đó một cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ không phải tự nguyện.
Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối
với những nhân vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào những hàng
ngũ những nhân vật được lựa chọn...” [46,tr.373].
Trong chế độ tư hữu, đại đa số trí thức là những người lao động bị áp
bức, bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trí thức trở thành
người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Do dó, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn chặt nông
10


nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ để thực hiện việc
thỏa mãn lợi ích kinh tế cả trước mắt và lâu dài, cơ bản của xã hội [3, tr.191].
Do đó có thể hiểu trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, độc lập tương
đối, chuyên làm các nghề lao động trí óc phức tạp và sáng tạo và có học vấn
chuyên môn cần thiết cho lĩnh vực lao động đó. Đặc trưng nổi bật của trí thức là
sáng tạo truyền bá khoa học nghệ thuật trên cơ sở quan niệm triết học riêng với
kiến thức có hệ thống và phương pháp lao động sáng tạo. Nếu hoạt động trong
lĩnh vực đòi hỏi trình độ cao đẳng hay đại học thì đó không phải là đặc trưng

duy nhất của tầng lớp này vì trong các giai cấp và tầng lớp xã hội khác cũng có
nhiều người có trình độ học vấn đó. Đặc trưng quyết định nhất của tầng lớp trí
thức là sáng tạo khoa học và nghệ thuật. Trong quá trình lao động họ phải chủ
quan hóa khách quan và khách quan hóa chủ quan để tạo ra sự chuyển hóa tri
thức khoa học từ lượng thành chất và ngược lại nhằm khám phá, nhận thức
ngày càng rộng và sâu hơn các quy luật tự nhiên và xã hội và bản thân con
người. Do không phải tất cả lao động đều nắm được kiến thức chuyên môn một
cách có hệ thống, nhất là ở các chuyên ngành khoa học hiện đại, cũng như
không phải ai cũng nắm được đặc trưng cơ bản của phương pháp nghiên cứu
khoa học, sáng tạo văn chương, nghệ thuật cho nên trí thức là một tầng lớp xã
hội cần thiết cho mọi chế độ xã hội và độc lập tương đối trong mọi thời đại.
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vai trò của trí thức
rất lớn. C. Mác - Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội
loài người và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, đã đánh giá cao vai trò, vị trí của tầng lớp trí thức trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, thông qua cống hiến sáng tạo của họ trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Vai trò của họ thể hiện trước hết thông qua vai trò của
những tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng triết học. Trong xã hội có giai cấp
và đối kháng giai cấp, sự thống trị của giai cấp bóc lột không chỉ bằng sự chiếm
hữu của cải hàng hoá tiền tệ, nô lệ mà còn cả sức mạnh tinh thần. Giai cấp
thống trị độc quyền đã lợi dụng chủ nghĩa duy tâm tôn giáo làm công cụ áp bức
tinh thần. Các nhà triết học cổ đại đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên, sự
cống hiến của họ đã góp phần làm cho nền văn minh thế giới thêm rực rỡ và
phát triển. Nhiều nhà trí thức đã anh dũng hy sinh trên dàn lửa hoả thiêu, trước
11


toà án giáo hội để đấu tranh cho chân lý, cho tiến bộ xã hội, cho khoa học trong
đêm trường trung cổ. Họ đã góp phần làm chôn vùi thời kỳ trung cổ bạo tàn, tạo
nên sự đảo lộn tiến bộ mà trước đó nhân loại chưa từng trải qua. Ở thời kỳ Khai

sáng những nhà triết học duy vật đã chuẩn bị cho tư tưởng, cho cuộc cách mạng
Tư sản thế kỷ XVIII. Trong xã hội hiện đại, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Công nhân
trước đây không có ý thức dân chủ xã hội được. ý thức này chỉ có thể từ bên
ngoài đưa vào. Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng chỉ do lực lượng của
độc bản thân mình thôi, thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên
chủ nghĩa. Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phải sinh ra từ lý luận triết học
lịch sử, kinh tế do những người có học thức trong giai cấp hữu sản, những trí
thức xây dựng nên” [43,tr. 38].
Bản thân những tư tưởng trên, những tư tưởng tiên tiến không thể đánh
bại sự thống trị, nhưng nó trở thành vũ khí tinh thần không thể thiếu được
của giai cấp vô sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Trong quá trình vận động cách mạng xã hội, trí thức tiên tiến
đã đưa những tư tưởng cách mạng tiên tiến vào phong trào cách mạng
của quần chúng vào tham gia tích cực góp phần tạo nên những thắng
lợi của cách mạng xã hội.
Vai trò của những người trí thức không chỉ thể hiện ở những
việc sáng tạo những tư tưởng nói trên mà còn thể hiện rất rõ trên các
lĩnh vực lao động tinh thần nói chung. Vai trò của họ được thực hiện trên
các lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật… họ đã
góp phần mở mang trí tuệ, giải phóng loài người khỏi sự áp bức tinh thần
mang lại cho con người những tư tưởng tình cảm cao đẹp, làm cho đời
sống tinh thần của con người thêm phong phú, lành mạnh, thông qua lao
động sáng tạo trên các lĩnh vực hoạt động của họ.
Vị trí của người trí thức, do phân công lao động xã hội hoạt
động trên lĩnh vực sản xuất tinh thần. Nhưng nói như vậy không có
nghĩa là trí thức không có vai trò trên lĩnh vực sản xuất vật chất. Đánh
giá vai trò của trí thức trong việc phát triển lực lượng sản xuất của chủ
nghĩa tư bản V.I. Lênin nói: “ Không có những người này thì sản xuất
tư bản hiện đại là điều không thể có được” [45,tr. 162]
12



Đóng góp rõ nhất của trí thức là thông qua cuộc cách mạng
khoa học k ỹ thuật đi kèm với nó là cuộc cách mạng lực lượng sản xuất.
Vai trò của các nhà trí thức khoa học kỹ thuật trong việc sáng tạo ra công
cụ mới ngày càng hoàn thiện hơn để nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, vai trò của những trí thức, tổ chức,
quản lý, điều khiển cũng không thể phủ nhận được. Họ đã góp phần
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và như Mác - Ănghen đã chỉ
rõ: “do có những lực lượng sản xuất mới loài người đã thay đổi
phương thức sản xuất của mình . . . loài người thay đổi tất cả các mối quan hệ
của mình” [4, tr.380].
Tri thức là một kết quả của tiến bộ xã hội, mặt khác, sự phát triển
của trí thức đã góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, góp phần giải phóng con
người khỏi sự chi phối của những lực lượng tự phát trong tự nhiên và
trong xã hội. Điều kiện đầu tiên và cũng là tiền đề quan trọng đối với sự
xuất hiện của tầng lớp trí thức là sản phẩm của sự phân công lao động
trong xã hội do nhu cầu xã hội quyết định. Hoạt động của tầng lớp trí thức
luôn luôn góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua 6 chức năng xã hội sau: nhận thức khoa học (lý luận), dự
báo khoa học; ứng dụng tri thức khoa học và triển khai công nghệ vào
thực tiễn; giáo dục và đào tạo; chăm sóc y tế, chấn hưng văn hóa, tạo lập
cơ sở lý luận và giải pháp công nghệ cho công tác lãnh đạo và quản lý.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân
chỉ có thể hoàn thành sứ mạng lịch sử toàn thế giới của mình khi liên minh với
các giai cấp và tầng lớp lao động khác mà trước hết là với giai cấp nông dân,
đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.
Thực hiện liên minh công – nông – trí thức trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội vì nhu cầu tồn tại và phát triển của cả công nhân, nông dân, trí
thức và vì lợi ích của cả dân tộc. Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức

là yếu tố nội tại trong kết cấu xã hội – giai cấp của chủ nghĩa xã hội. Xu hướng
hợp tác giữa các giai cấp và tầng lớp này đều dựa trên những cơ sở khách quan,
không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích riêng của giai cấp công nhân mà của cả
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Xét đến cùng đó là nhu cầu giải phóng và
13


phát triển của các giai, tầng trong liên minh và của cả xã hội: Khi chưa có chính
quyền, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều bị giai cấp
tư sản bóc lột, họ đều có nguyện vọng được giải phóng; khi giành được chính
quyền họ đều có nhu cầu là thoát khỏi đói nghèo, vươn lên một cuộc sống ấm
no, hạnh phúc. Trong thời đại ngày nay, khi khoa học – công nghệ phát triển
như vũ bão, khi thế giới đang phát triển mạnh mẽ kinh tế tri thức, thì vai trò của
trí thức ngày càng được khẳng định và không thể thiếu trong sự phát triển xã
hội hiện đại, đặc biệt là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thức
rõ điều này, ngay từ năm 1918, trong tác phẩm “Về bệnh ấu trĩ tả khuynh và
tính tiểu tư sản”, V.I.Lênin đã cho rằng, sự phát triển sản xuất dựa trên những
kỹ thuật tiên tiến, những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại là một trong
những điều kiện để một nước lạc hậu có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Những người cộng sản phải biết học tập tiếp thu những tinh hoa của chủ
nghĩa tư bản, phải biết sử dụng các chuyên gia tư sản trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. V.I.Lê-nin sẵn sàng đổi một tá người cộng sản không biết
làm việc lấy một chuyên gia tư sản giỏi, Người đã đưa ra công thức nổi tiếng:
“Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô-viết +
trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo
dục quốc dân Mỹ etc.etc. + + = S (tổng số, tổng kết lại) = chủ nghĩa xã hội” [47,
tr.684]. Và “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và
giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào có thể đứng vững được” [50,
tr.218]. Chất lượng của giai cấp công nhân được nâng lên cùng với vai trò của
tầng lớp trí thức trong việc nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ

thuật, sử dụng kiến thức lao động tiên tiến. Cùng với những thành tựu của cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự gắn bó giữa công nhân và trí thức
ngày càng chặt chẽ, thể hiện qua sự liên kết giữa nghiên cứu và ứng dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, giữa các nhà khoa học
với các cơ sở sản xuất. Hàm lượng chất xám ngày càng gia tăng trong thành
phần sản phẩm đã phản ánh rõ nét vai trò của người trí thức, của khoa học và
công nghệ trong sự gắn kết với sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Ngược
lại, thông qua hoạt động sản xuất vật chất của công nhân và nông dân tạo nên
địa bàn cho các hoạt động sáng tạo, và xuất hiện các “đơn đặt hàng” từ xã hội
14


đối với trí thức. Qua đó, trí thức có thể điều chỉnh hoạt động nghiên cứu của
mình cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nhằm phục vụ đời sống con người
ngày càng tốt đẹp hơn.
Vì vậy, giai cấp công nhân, nông dân và trí thức là ba lực lượng lao động
sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm và vai trò xác định
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ
nghĩa không thể thành công nếu thiếu ba lực lượng đó.
Vai trò của trí thức là sản xuất, truyền bá ứng dụng khoa học kỹ thuật
( chứ không phải là trí thức kinh nghiệm hay trí thức thông thường). Từ bản
chất xã hội đặc thù này mà trí thức luôn luôn tồn tại và phát triển như một tầng
lớp xã hội tương đối độc lập trong một chế độ xã hội. Ngày nay, khi khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hệ thống các ngành khoa học đã phát
triển và ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất, có liên quan hỗ trợ cho
nhau thì vai trò của trí thức đều được thể hiện một cách gián tiếp hay trực tiếp
trong mọi lĩnh vực sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Nhờ đó trí thức góp
phần thúc đẩy xã hội tiến bộ hơn, nhằm đạt tới mục đích cuối cùng của cuộc
đấu tranh giai cấp đó là : thủ tiêu hoàn toàn và vĩnh viễn mọi sự bóc lột và áp
bức. Thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng cá nhân và xã hội, xây dựng

thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về trí thức và vai trò của đội ngũ

trí thức
Sinh thời, người đã sớm nhận định, trí thức việt Nam là tầng lớp có học
thức, kiến thức, hiểu biết và có tinh thần yêu nước nồng nàn và ý thức dân tộc
cao. Trí thức Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng.
Người nói: “Không có những trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng
chiến thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều. Bởi vì để hoàn thành
nhiệm vụ kháng chiến, ngoài việc quân sự, ắt phải phát triển kinh tế, cho nên
cần có những người chuyên môn thông thạo về công nghệ và nông nghiệp. Cần
phát triển giao thông vận tải cho nên cần có những kỹ sư thông thạo việc đắp
đường, bắc cầu. Cần giữ gìn sức khỏe của nhân dân, cho nên cần có thầy thuốc.
Cần đào tạo cán bộ cho mọi ngành, cho nên cần có thầy giáo... Vì lẽ đó, trí thức
15


có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội" [ 22, tr.196].
Trong thời kỳ nước ta còn là thuộc địa của Pháp và cả trong thời kỳ
kháng chiến, đội ngũ trí thức đã có nhưng đó là trí thức phong kiến, một số trí
thức đào tạo dưới chế độ cũ và đào tạo ở nước ngoài về với Đảng, về với Bác
Hồ trực tiếp hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, phục vụ nhân dân.
Mặc dù lực lượng còn ít ỏi, Bác đã có chủ trương tập hợp và xây dựng
đội ngũ trí thức đông đảo để phục vụ kháng chiến lâu dài và chuẩn bị lực lượng
cán bộ.
Đội ngũ trí thức Việt Nam có tinh thần độc lập rất sâu đậm, luôn gắn bó
với sự nghiệp giữ gìn nền độc lập của quốc gia, sự thống nhất của đất nước.
Suốt trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trí thức Việt Nam luôn trăn trở trước
vận mệnh của dân tộc, của nhân dân. Trong những năm kháng chiến chống thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ đội ngũ trí thức đã phát huy tinh thần yêu nước cao
độ, nhờ đó mà trí thức Việt Nam đã trở thành một lực lượng khá hùng mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao đặc điểm này của trí thức Việt Nam.
Người viết : “ chúng ta có quyền tự hào rằng, những người lao động trí óc Việt
Nam đều đứng trong hàng ngũ kháng chiến” [25, tr.166]. Với tầm nhìn xa trông
rộng, thấy rõ tầm quan trọng của trí thức đối với cách mạng, Hồ Chí Minh đã
viết Phan Bội Châu như một vị anh hùng, một bậc thiên sứ. Với Huỳnh Thúc
Kháng, Hồ Chí Minh viết : “ cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí
rất bần, đạo đức rất cao, lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi. Cả đời cụ không
cần danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm quan, cả đời cụ chỉ phấn đấu
cho dân được tự do, nước nhà được độc lập” [26, tr.532].
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã quan
tâm tìm người tài đức. Người khẳng định “Nhà nước cần phải kiến thiết, kiến
thiết cần phải có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu
chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng
phát triển càng thêm nhiều” [21, tr.99]. Người còn nói: “Trong số 20 triệu đồng
bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì chính phủ nghe không đến, thấy
không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi
16


xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng,
các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được
những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết” [21,
tr.451]. Với quan điểm đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, bằng tấm lòng bao
dung rộng mở, Hồ Chí Minh tiếp tục quy tụ toàn dân tộc, tập hợp đội ngũ các
nhà trí thức vào ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, giúp Chính phủ nghiên
cứu kế hoạch kiến thiết đất nước. Trong bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của
ủy ban ngày 10-1-1946, Hồ Chí Minh khẳng định: “... Còn các ngài, đã đem tài
năng tri thức, lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội. Các ngài xứng đáng là những

chiến sĩ xung phong. Tôi mong rằng các ngài cũng sẽ đem hết tài năng và tri
thức giúp cho Chính phủ về mặt kiến thiết. Các ngài sẽ là những cố vấn có kinh
nghiệm, có tài năng của Chính phủ” [21, tr.152].
Thái độ trân trọng và sử dụng trí thức của Hồ Chí Minh xuất phát từ tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc vì một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc.
Bác Hồ quý trọng trí thức không chỉ trên nhận thức về vị trí, vai trò của trí thức,
mà bằng nhiều hành động cụ thể, Người cố gắng xây dựng, tổ chức đội ngũ trí
thức ngày càng hùng hậu. Hồ Chí Minh đã sáng lập ra tổ chức của trí thức là
Đảng Xã hội Việt Nam (22-7-1946). Đó là một tổ chức thu hút, tập hợp mọi bộ
phận trí thức khác nhau từ các thầy giáo, thầy thuốc, đến các trí thức hoạt động
trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật. Với từng loại trí
thức, Hồ Chí Minh đều có những những lời dặn dò thân tình, chu đáo. Với anh
chị em văn hóa và trí thức, Hồ Chí Minh cho rằng “ngòi bút của các bạn cũng là
những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và
trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng
chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”. Với anh chị em
giáo viên, Người coi đó là “những người “vô danh anh hùng”. Tuy là vô danh
nhưng rất hữu ích. “cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang
giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Với trí thức ngành y, Người nhấn mạnh, “Chính
phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng
bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang”. v.v…..
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra rằng: Giải phóng dân
tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, mà giải phóng giai cấp,
17


giải phóng xã hội ở Việt Nam chính là giải phóng nông dân vì nông dân nước ta
chiếm hơn 80% dân số. Bởi vậy, Bác nói: “Công nông là gốc của cách mạng”,
“Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng trí thức…, trong sự nghiệp cách
mạng lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang”…”công, nông, trí

phải đoàn kết thành một khối” [24, tr.78].
Người còn quan niệm : công nông trí thức hóa và trí thức công nông
hóa. Tức là anh em trí thức cũng phải biết trọng lao động, biết làm lao động,
đồng thời nâng cao trình độ công nông về văn hóa và lý luận. Nói tới trí thức là
gắn chặt với công cuộc kiến thiết, một nhiệm vụ khó hơn chống đế quốc, phong
kiến. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, các bậc trí thức “có cái trách nhiệm nặng nề và
vẻ vang, là làm gương cho dân trong mọi việc. Dân ta đã đấu tranh rất dũng
cảm. Lẽ tất nhiên giới trí thức phải hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa để làm
gương cho nhân dân”. Theo Người, những người trí thức muốn làm tròn nhiệm
vụ thì phải “1. Khổ cán, 2. Hạnh cán, 3. Thực cán” (làm việc hết sức mình, làm
việc chất lượng, làm việc có hiệu quả, có năng suất) [21, tr.153].
Hồ Chí Minh còn khẳng định, trí thức không những là một bộ phận trong
lực lượng cách mạng mà "trí thức còn là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước
khác như thế, ở Việt Nam càng như thế... Chứng thực là trong cuộc kháng chiến
cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã góp một phần quan trọng”
[ 22, tr.236]. Không có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể
thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới sẽ không hoàn
thành được. Người nói: "Trí thức không bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi”
[ 23, tr.36]. Trí thức phục vụ nhân dân bao giờ cũng cần, "kháng chiến kiến
quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa xã hội càng cần, tiến lên chủ nghĩa cộng sản
lại càng cần" [23, tr.36]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ “diệt giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Người chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu” nên đã coi việc “đánh giặc dốt” trước “đánh giặc ngoại xâm” và đặc biệt
coi trọng trí thức.
Suốt mấy chục năm kháng chiến chống xâm lược, người trí thức đã hoàn
toàn sống trong dân, sống cuộc đời khó khăn, giản dị, tham gia vào bất cứ hoạt
động nào mà dân cần, đã cuộc sống ấy đã kết hợp trong trí thức hai con người :
18



người có chuyên môn cao và người hoạt động xã hội. Nhờ vậy,trí thức Việt
Nam đã làm được điều chủ tịch Hồ Chí Minh dạy:
“Cần có lao động, lao động trí óc và lao động chân tay và ta cần lao động
trí óc kiêm lao động chân tay , nghĩa là lao động chân cũng phải có văn hoá, mà
người lao động trí óc cũng phải làm được lao động chân tay. Nếu lao động trí
óc không làm được lao động chân tay và lao động chân tay không có lao động
trí óc thì đó là người lao động bán thân bất toại. ...”.
“Lao động trí óc mà không lao động chân tay chỉ biết lý luận mà không
thực hành thì cũng là trí thức có một nữa”. Chính vì vây, Hồ Chí Minh đòi hỏi
người trí thức phải biết kết hợp cả lao động trí óc và lao động chân tay thì mới
có thể làm được việc cũng như Hồ Chí Minh đã nói : “ có tài mà không có đức
thì ví như anh làm kinh tế tài chính giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những không làm được gì cho xã hội mà còn làm hại xã hội. Nếu có đức mà
không có tài thì ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không có lợi gì
cho loài người”. Quan điểm của Người rất rõ ràng: Lao động trí óc cần được
khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng. Lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan
trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân
chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về trí thức là rất sâu sắc và toàn diện. Theo
người thì trí thức là : “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu
biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai
là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra.
Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học, có
thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không
biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y
không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học
sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức toàn toàn,
thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế” [22,tr.235]. Qua đó, người yêu
cầu và đòi hỏi trí thức phải đi vào quần chúng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, phục vụ cách mạng, lấy hạnh phúc của nhân dân làm cơ sở. Trí thức phải

có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Trí thức phải tiếp tục học hỏi,
19


không ngừng chiếm lấy đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật. Dù hiểu biết nào thì
cũng phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế. Nếu hiểu biết không đưa ra
thực hành , thì khác nào một “cái hòm đựng sách”. Nhiệm vụ đấu tranh lớn
nhất, bao trùm là đấu tranh dân tộc, đấu tranh xã hội nhằm đem lại độc lập, tự
do, hạnh phúc cho đất nước và nhân dân.
Cách dùng người của Hồ Chí Minh rất trong sáng, không chút kiên định,
không hề thiên vị nên người đã thu phục được nhân tâm của những bậc hiền tài
đi theo cách mạng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ đi tham gia kháng chiến tới
ngày thắng lợi.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò

đội ngũ trí thức
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênnin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của đội ngũ trí thức thì Đảng ta đã khẳng định rõ trí thức có vai
trò rất quan trọng trong cách mạng Việt Nam cũng như trong thời kỳ công
nghiệp hoá – hiện đại hoá hiện nay.
Đồng thời, kế thừa và phát huy truyền thống lâu đời, tốt đẹp của dân tộc
coi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và
càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các
bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào
tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”. Đó là câu nói nổi tiếng của đại học sĩ
Thân Nhân Trung vâng mệnh vua Lê Thánh Tông soạn bài ký cho tấm bia Văn
Miếu tại Quốc Tử giám đã khẳng định vai trò của nhân tài trong việc hưng
thịnh đất nước. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính
sách phù hợp để tập hợp, đoàn kết, xây dựng, phát huy mạnh mẽ vai trò của trí
thức, tạo cơ hội và động lực để họ tự do nghiên cứu, sáng tạo và cống hiến.

Trong tuyên ngôn của Đảng lao động Việt Nam đã ghi rõ : “Đảng lao
động Việt nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao đông trí thức yêu
nước, hăng hái nhất, cách mạng nhất”.
Sau cách mạng tháng Tám Đảng ta đã nhất quán thực hiện chính sách coi
trí thức yêu nước là một lưc lượng cách mạng quan trọng và phát huy vai trò
20


của trí thức, không phân biệt giữa trí thức và trí thức mới. Chủ trương của
Đảng ta là : “Đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, công nông trí thức hoá, trí
thức hóa công nông”.
Theo chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta tạo điều kiện để trí thức cũ
học tập, rèn luyện gần gũi công – nông, xây dựng ý thức phục vụ nhân dân,
phấn đấu trở thành trí thức cách mạng, đóng góp trí tuệ và sức lực vào sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa . Bên cạnh đó thì Đảng và Nhà nước ta
còn tập trung đào tạo đội ngũ trí thức mới xuất thân từ mọi tầng lớp nhân dân
lao động. Họ được đào tạo cả trong và ngoài nước để trở thành người cán bộ
nồng cốt.
Trong bài phát biểu tại Đại hội Trung ương lần thứ 7 (khóa VII), Tổng
Bí Thư Đỗ Mười cũng nhấn mạnh: " Khoa học và công nghệ có vai trò quyết
định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của quốc gia. Phần thắng của cuộc
chiến ai thắng ai trên thị trường, quy cho đến cùng là do năng lực và sáng tạo
của cả dân tộc, phải biết học một cách khôn ngoan kinh nghiệm và thành tựu tri
thức của nhân loại, tận dụng được lợi thế của nước đi sau. Đề ra được những
chủ trương, biện pháp thích hợp với đất nước trong hoàn cảnh mới, giải quyết
có hiệu quả các vấn đề kinh tế xã hội, công nghệ, kỹ thuật, mội trường sinh thái.
Muốn vậy, phải chú trọng, bồi dưỡng và sử dụng tốt nguồn nhân lực có trình độ
văn hóa và kỹ thuật nghề nghiệp ngày càng cao, nghiên cứu và triển khai, xây
dựng tiềm lực khoa học và công nghệ ngày càng lớn mạnh, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa kinh tế văn hóa trong quá trình phát triển”.

Trí thức, cách mạng và phát triển là ba vấn đề không thể tách rời nhau.
Để lật đổ chế độ Tư bản chủ nghĩa, Đảng Cộng sản cần có những trí thức của
giai cấp công nhân và tập hợp bên mình những trí thức của toàn xã hội. Tại đại
hội VII (1991) Đảng ta khẳng định : “Trong cách mạng dân tộc, dân chủ, vai trò
của trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội vai trò của đội ngũ
trí thức càng quan trọng hơn. Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức
của mình và bản thân công nông không được nâng cao kiến thức, không dần
dần được trí thức hoá thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội” [12, tr.4].

21


Tầng lớp trí thức không phải là một giai cấp, không bao giờ là người đại
biểu cho phương thức sản xuất riêng, không cần đại diện cho phương thức sản
xuất mới để lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trí thức là một
bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ của đất nước, có nhiều khả năng để tiếp cận với
những thành tựu của khoa học công nghệ mới nhất của thời đại. Vì vậy, cách
mạng xã hội chủ nghĩa không thể thiếu sự tham gia của đội ngũ trí thức. Việc
điều hành hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi phải
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.
Đội ngũ trí thức nước ta là một bộ phận trong khối liên minh với giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng, là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Quan điểm này là sự vận dụng và phát triển lý luận Mác-Lênin về giai
cấp và liên minh giai cấp, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, thực chất
là xác định vị trí của đội ngũ trí thức trong cơ cấu giai cấp và cơ cấu xã hội Việt
Nam. Điều đáng lưu ý là, có thời kỳ, do nhiều lý do, trong đó có sai lầm "đốt
cháy giai đoạn" phát triển mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó
có Việt Nam, đã dùng biện pháp hành chính đơn giản hóa cơ cấu kinh tế và dẫn
đến đơn giản hóa cơ cấu giai cấp-xã hội, đồng thời có phần coi nhẹ trí thức, mà

chỉ nói nhiều đến liên minh công-nông.
Đến Đại hội VII của Đảng (1991), các văn kiện của Đảng ta đã khẳng
định rõ khái niệm: "Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức" là một đòi hỏi khách quan của thực tiễn. "Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (năm 1991) còn nhấn mạnh
rằng, sự liên minh này là “nền tảng” để "xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa” [
15, tr.9].
Lúc ấy, chúng ta chưa sử dụng khái niệm “nhà nước pháp quyền”. Do
vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trên cơ sở khẳng định quan điểm trên, đã bổ
sung và làm nổi bật, đầy đủ hơn về bản chất Nhà nước ta cùng tầm quan trọng
của liên minh công - nông-trí thức. “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước
22


thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” [14,
tr.85].
Thực chất xây dựng liên minh công-nông-trí thức, cũng như tập hợp
được toàn thể dân tộc là hình thành động lực quan trọng nhất của phát triển xã
hội, tạo nên được sức mạnh tổng hợp, động viên được tối đa các nguồn lực (sức
người, sức của) trong mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới
đất nước, Đảng ta xác định rõ: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức
do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”
[ 13, tr.86].
Trong Nghị quyết, ngoài việc phát huy đội ngũ trí thức trong nước, Đảng
ta còn “coi trọng việc đoàn kết tập hợp trí thức, xác định trí thức Việt kiều là

nguồn trí thức tiềm năng của đội ngũ trí thức dân tộc, lấy mục tiêu chung của
dân tộc làm điểm tương đồng, xoá bỏ định kiến về quá khứ, thành phần xuất
thân, đánh giá cao tiềm năng, tiềm lực của trí thức Việt kiều”. Trước khi có
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa X, Bộ Chính
trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004, về công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Tiếp theo đó Chính phủ ban hành
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36. Sau khi có Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7, Chính phủ tiếp tục có Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg, ngày 66-2008, về việc tiếp tục tăng cường triển khai Chương trình hành động của
Chính phủ về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Các văn kiện trên đều khẳng định: “Người Việt Nam ở nước ngoài là
một bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”,
“Tiềm lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là về khoa học
và công nghệ, về vốn, về khả năng tạo các mối quan hệ giữa các tổ chức và cá
nhân ở nước ngoài với nước ta là một lợi thế và một nguồn lực quan trọng cần
phải phát huy để bổ sung và hỗ trợ cho sự phát triển đất nước”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII của Đảng ta đã khẳng định: “ cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và
23


đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài”. Do đó, phát huy và thu hút tiềm năng to lớn của đội ngũ trí
thức người Việt Nam ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
là trách nhiệm không chỉ riêng của Đảng, của Nhà nước mà là của cả hệ thống
chính trị và toàn dân. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định
người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời, một nguồn lực
của đất nước và yêu cầu cả hệ thống chính trị có trách nhiệm kết hợp việc xây
dựng đồng bộ các cơ chế, chính sách với công tác vận động người Việt Nam ở
nước ngoài, kết hợp các hoạt động trong nước và ngoài nước, bằng nhiều loại
hình và biện pháp khác nhau phù hợp với các đối tượng và địa bàn khác nhau.

Tiềm năng của trí thức người Việt Nam ở nước ngoài là rất lớn, đây là một
nguồn lực quan trọng, một “kho báu lộ thiên” rất tiềm tàng đối với sự phát triển
của đất nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài, thời gian qua các bộ, ngành, đơn vị chức
năng đã chủ động triển khai xây dựng một số cơ chế, chính sách chung nhằm
tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho kiều bào về quê hương sinh sống, đầu tư,
đóng góp cho đất nước như ban hành Luật Quốc tịch sửa đổi theo hướng cho
phép người Việt Nam ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam trong khi mang quốc
tịch nước khác; thực hiện chế độ miễn thị thực cho người Việt Nam ở nước
ngoài; xây dựng quy chế cư trú của người Việt Nam ở nước ngoài; sửa đổi bổ
sung Luật Nhà ở tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài mua
và sở hữu nhà ở; thực hiện Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp đối với người
Việt Nam ở nước ngoài...
Các bộ, ngành khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo đang xây dựng
các đề án thu hút chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia
hoạt động khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo tại các cơ sở đại học ở Việt
Nam. Một số tỉnh, thành phố cũng đang đề xuất các chế độ, chính sách cụ thể
phù hợp với tình hình địa phương đối với chuyên gia, trí thức là người Việt
Nam ở nước ngoài về công tác thường xuyên tại cơ sở, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao v.v.

24


Ở mọi thời đại, tri thức luôn luôn “là nền tảng tiến bộ xã hội”, đội ngũ trí
thức là lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự phát triển và phồn vinh của đất nước. Và
trí thức quân đội cũng là một bộ phận của trí thức Việt Nam. Do yêu cầu nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội nhân dân, những năm qua, chúng ta đã
xây dựng được đội ngũ trí thức thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau trong lĩnh

vực quân sự. Đây là lực lượng nòng cốt, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, kể cả
thời bình cũng như thời chiến, trong chiến đấu cũng như trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức quân đội, những năm qua,
Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đơn vị thực
hiện nghiêm mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí thức.
Đảng ủy Quân sự Trung ương đã ra Nghị quyết số 93/NQ-ĐUQSTW về tiếp tục
đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật và xây dựng
nhà trường chính quy, phục vụ cho yêu cầu của quân đội thời kỳ thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước. Trước yêu cầu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đất
nước hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã có Nghị quyết
số 86/NQ-ĐUQSTW về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới, nhằm
đổi mới toàn diện công tác giáo dục - đào tạo cán bộ quân đội. Trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ, Bộ Quốc phòng đã có nhiều văn bản quy định về kinh
phí cho các hoạt động, như Quyết định số 05-QĐ/BQP về thành lập Quỹ phát
triển khoa học - công nghệ, Chỉ thị số 1853/CT-BQP về trích kinh phí ngành
cho hoạt động khoa học - công nghệ và môi trường... Mặt khác, Bộ Quốc phòng
đã chỉ đạo thực hiện các biện pháp khuyến khích các hoạt động khoa học - công
nghệ, như tổ chức giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo khoa học - công nghệ, nhằm
khuyến khích các tài năng trẻ tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học, phát
triển công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong huấn luyện và sản
xuất công nghiệp quốc phòng, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho hoạt động huấn
luyện và tác chiến của bộ đội. Bộ Quốc phòng cũng đã giao nhiệm vụ cho các
cơ quan quản lý khoa học chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức
cho các tập thể, cá nhân có công trình nghiên cứu khoa học tham dự các giải
25



×