Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

PHÁT HUY VAI TRÒ của NÔNG dân TRONG sự NGHIỆPCÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.42 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
-----  ----

LUẬN VĂN TỒT NGHIỆP ĐẠI HỌC

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TRONG
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Sinh viên thực hiện:
ĐOÀN NGỌC ĐẦY
MSSV: 6055346

Giáo viên hướng dẫn:
Th.S. NGUYỄN ĐẠI THẮNG

CẦN THƠ – tháng 05/2009

1


MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ...................................................2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .....................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài: .......................................3
5. Kết cấu của đề tài: ............................................................................................ 3
NỘI DUNG: ........................................................................................................4
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nông dân:.....................................4
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nông dân và vai trò của nông dân:............. 11
1.3. Vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa: .......... 18
Chương 2: THỰC TRẠNG NÔNG DÂN NÔNG THÔN HIỆN NAY Ở NƯỚC
TA...................................................................................................................... 22
2.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội, kinh tế - chính trị của Việt Nam:...................... 22
2.2. Thành tựu của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong : ......................... 23
2.3. Những hạn chế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn hiện nay: ............................................................................................ 32
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NÔNG DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
ĐẤT NƯỚC:...................................................................................................... 37
3.1. Quan điểm và mục tiêu của Đảng và Nhà nước để phát triển vai trò của nông
dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: ............................. 37
3.2. Phương hướng cơ bản và giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn: ...................................................................................... 39
3.2.1. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể từng vùng: ............ 44

2


3.2.2. Đẩy mạnh chương trình chuyển đổi cơ cấu gắn với xây dựng nền nông
nghiệp hiện đại: .................................................................................................. 44

3.2.3. Tăng cường nguồn vốn, khoa học – kĩ thuật cho nông nghiệp:.................. 45
3.2.4. Phát triển công nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn:........................................ 47
3.2.5. Tổ chức thực hiện tốt liên kết giữa nhà nước với nông dân: ...................... 47
3.2.6. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế vào nông nghiệp: ............ 49
3.2.7. Nâng cao đời sống nhân dân: .................................................................... 49
3.2.8. Củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng đảng viên ở nông thôn ........... 50
KẾT LUẬN........................................................................................................ 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp là nhiệm vụ quan trọng của mỗi sinh viên
trước khi rời khỏi giảng đường Đại học. Để hoàn thành tốt luận văn này ngoài sự cố
gắng của bản thân tôi, thì sự hướng dẫn tận tình của qúy thầy cô là vô cùng quan
trọng.
Để đạt được kết quả như hôm nay, trước tiên tôi xin chân thành gửi lời cảm
ơn đến qúy thầy cô Bộ môn Triết học, Khoa khoa học Chính trị đặc biệt là thầy
Nguyễn Đại Thắng đã hướng dẫn tôi nhiệt tình trong suốt thời gian qua. Đồng thời
gửi lời cảm ơn chân thành đến các bạn lớp Sư phạm Giáo dục công dân K31 đã giúp
tôi hoàn thành tốt luận văn của mình. Cuối cùng em xin kính chúc quý thầy cô cùng
toàn thể các bạn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhiều sức khỏe và luôn gặt hái thành
công trên mọi lĩnh vực.
Dù có nhiều cố gắng nhưng do kiến còn hạn chế nên luận văn chắc chắn sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp và bổ sung của quý thầy
cô để luận văn tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Đoàn Ngọc Đầy

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thực tiễn lịch sử phát triển thế giới cận, hiện đại và thực tiễn cuộc cải cách
mở cửa, đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra trong mấy thập niên gần
đây cho thấy không có sự ổn định và phát triển của nông thôn sẽ không có sự ổn
định của cả nước, không có sự sung túc của nông dân sẽ không có sự sung túc của
nhân dân cả nước, không có hiện đại hóa nông nghiệp sẽ không có hiện đại hóa toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Do nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược
quan trọng, cho nên trong suốt quá trình xây dựng phát triển đất nước. Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới trong phát triển
nông nghiệp, nông dân và nông thôn, từ đó đã khơi dậy tính tích cực, năng động,
sáng tạo và sự nổ lực phấn đấu vượt bậc của nông dân; làm cho nông nghiệp, nông
dân, nông thôn đạt được những bước tiến quan trọng trong kinh tế.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng
chiến lược của giai cấp nông dân, của nông nghiệp và nông thôn. Bước vào thời kỳ
đổi mới, Đảng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, nông nghiệp là địa bàn trọng
điểm và đã có nhiều chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân, như: chính
sách về ruộng đất, miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, cho nông dân vay vốn
để sản xuất, chính sách đối với các xã đặt biệt khó khăn, khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển… đã tạo động lực mới, khơi dậy các nguồn lực, tiềm năng,
thế mạnh của từng vùng và từng địa phương.
Hiện nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ trên
thế giới và nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trước hết là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nước ta
đã là thành viên của WTO, đó là thời cơ giúp ta phát triển ngày càng cao nền kinh tế
đất nước nhưng đồng thời là thách thức đối với nông nghiệp là rất lớn, do đó việc tổ
chức lại nền sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng nhu
cầu của thị trường trong nước và trên thế giới, là một yêu cầu cấp bách. Nghị quyết

đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “ Phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong sự
nghiệp đổi mới, tập trung chỉ đạo vào các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hóa,

5


hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thực hiện tốt chính sách về ruộng đất, phát
triển nông nghiệp toàn diện, tiêu thụ nông sản hàng hóa, bảo hiểm sản xuất và bảo
hiểm xã hội, phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn, phân bố dân cư
theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo,
cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới”.
Vị trí chiến lược, vai trò trọng yếu và đóng góp to lớn của nông nghiệp, nông
dân, nông thôn đối với sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói
chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Phải coi việc hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn về thực chất là sự đầu tư trở
lại của xã hội cho nông dân, nhằm bù đắp những cống hiến mà nông dân đã góp cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nông dân là chủ thể và là lực lượng nồng cốt, chủ công của sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Muốn phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông
thôn phải khơi dậy, phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo của nông dân,
phải đem lại lợi ích thật sự cho họ, tức là phải đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
Con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế, mà còn trong mọi
lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy quan tâm nâng cao chất lượng con người, không
chỉ với tư cách là một người sản xuất, mà còn với tư cách là một công dân trong xã
hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng nhân loại, một con
người có trí tuệ và trách nhiệm trước thiên nhiên.
Với tầm quan trọng đó tôi đã chọn đề tài “ Phát huy vai trò của nông dân
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta
hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:

Luận văn tốt nghiệp nghiên cứu phát huy vai trò của nông dân trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta trong thời
gian qua cho đến nay nhằm tổng kết những thành tựu đã đạt được cũng như rút ra
những mặt hạn chế, yếu kém; để từ đó đề ra những giải pháp nâng cao, phát huy vai
trò của nông dân trong sự nghiệp đổi mới của đất nước để tạo ra sự phát triển nhảy
vọt trong kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng nhằm nâng cao sản phẩm nông

6


nghiệp của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời thực hiện thắng lọiư sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Để đạt được mục tiêu nói chung, nội dung của luận văn xoay quanh các vấn
đề sau:
- Vai trò của nông dân và phát huy vai trò đó trong sự nghiệp công nghiệp,
hiện đại hóa đất nước
- Thực trạng nông dân nông thôn ở nước ta hiện nay
- Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Để hoàn thành tốt luận văn này tôi đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân và sử dụng các phương
pháp sau:
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp so sánh
Phương pháp lôgic – lịch sử
Phương pháp diễn dịch và quy nạp
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn còn bao gồm phần nội dung với 3

chương, 8 tiết.

7


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

1.1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nông dân:

Định nghĩa nông dân:
Theo cách hiểu thông thường thì nông dân là “người lao động sống bằng
nghề làm ruộng”.
Theo từ điển chính trị vắn tắt thì “nông dân là một giai cấp trong xã hội.
Dưới chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp nông dân là toàn thể những người sản
xuất nhỏ trong nông nghiệp, kinh doanh cá thể bằng tư liệu sản xuất của riêng mình
và bằng lực lượng của gia đình mình”.
Theo từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học thì “Nông dân – một giai cấp
chuyên sản xuất những sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở sở hữu tư nhân hoặc sở
hữu hợp tác xã về tư liệu sản xuất và tham gia sản xuất bằng lao động của chính
mình. Là giai cấp xã hội đặt biệt, giai cấp nông dân hình thành trong quá trình tan rã
của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình phát triển của chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất và tồn tại cho tới khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản. Bản chất xã hội
và vị trí của nông dân trong xã hội là do phương thức sản xuất thống trị quy định và
được thay đổi cùng với sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội và của các giai
đoạn đang phát triển của nó. Trong hình thái tiền Xã hội chủ nghĩa, nông dân bao

gồm những người sản xuất nông nghiệp phân tán và chủ yếu là những người sản
xuất nhỏ”.
Nông dân nước ta hiện nay là những người sống lâu đời ở nông thôn (làng,
bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là nguồn sống chính dưới hình
thức hộ gia đình. Nông dân là lực lượng cách mạng chủ yếu trong cách mạng dân
tộc dân chủ trước đây cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hiện nay, sản
xuất nông nghiệp nước ta chủ yếu là hộ gia đình hoặc các hình thức kinh tế hợp tác,

8


hợp tác xã kiểu mới nhưng trong đó hộ gia đình nông dân là địa vị kinh tế tự chủ
độc lập về kinh tế.
Qua nghiên cứu lịch sử phong trào nông dân, phân tích về mặt lý luận và
hình thức đấu tranh giai cấp, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kết luận về những hạn chế
của phong trào này và triển vọng của cách mạng vô sản thế giới. Hai ông khẳng
định trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, người nông dân không thể tự mình giải
phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, rằng lối thoát duy nhất của họ là thắng lợi của
cách mạng vô sản. Phân tích tình hình nước Pháp ở thế kỷ XIX, trong tác phẩm
Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac, Mác viết: Lợi ích của nông dân không
còn hòa hợp với lợi ích của giai cấp tư sản, với tư bản như với thời Napônêon nữa,
mà lại mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp tư sản, với tư bản. Vì thế, người nông dân
mới thấy rằng giai cấp vô sản thành thị là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự
nhiên của mình trong việc lật đổ chế độ tư bản. Xuất phát từ thực tế đó C. Mác và
Ph. Ăngghen cho rằng khi tiến hành cách mạng vô sản nếu không lôi kéo giai cấp
nông dân về phía mình thì giai cấp vô sản không thể giành được thắng lợi.
C. Mác và Ph. Ăngghen chẳng những chỉ cho giai cấp vô sản thấy rõ sự cần
thiết phải lôi kéo nông dân về phía mình để giành lấy chính quyền mà còn vạch ra
con đường và biện pháp đưa nông dân cùng đi với giai cấp công nhân tiến lên xây
dựng một xã hội mới – xã hội cộng sản văn minh. [11, tr. 20].

V.I. Lênin là người đầu tiên nêu ra lý luận về chuyển biến cách mạng dân
chủ tư sản thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và khẳng định vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân đối với cuộc cách mạng đó. Đồng thời, ông cũng vạch ra mục
tiêu, nội dung của liên minh công nông trong các giai đoạn khác nhau. Ông vạch rõ,
lúc đầu giai cấp vô sản liên minh với toàn bộ giai cấp nông dân, trung lập hóa giai
cấp tư sản để thực hiện cách mạng dân chủ dân chủ mà mục đích là lật đổ chế độ
Nga hoàng, thiết lập nền cộng hòa dân chủ, thực hiện ngày làm việc 8 giờ, thủ tiêu
chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ. [11, tr.20].
Trước cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, V.I. Lênin đã bàn đến vấn đề
Nông dân và ruộng đất trong nhiều tác phẩm và bài viết. Sau cách mạng tháng
Mười, V.I. Lênin viết “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề ruộng đất”.

9


V.I. Lênin đã phân tích tỉ mỉ đặc điểm của các tầng lớp nông dân khác nhau trong
các nước tư bản, và đã vạch ra các sách lược cần thiết áp dụng trong cách mạng vô
sản và khi cách mạng thắng lợi. Lần đầu tiên V.I. Lênin nêu luận điểm chủ nghĩa tư
bản là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nông dân. Quần chúng lao động nông
thôn có thể giải phóng khỏi tình trạng bóc lột khi liên minh với giai cấp vô sản, toàn
tâm toàn ý ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm đánh đổ ách áp bức của
địa chủ và tư bản. V.I. Lênin tiên đoán: “Giai cấp vô sản chỉ trở thành một giai cấp
thật sự cách mạng, hành động một cách thật sự theo tinh thần của Chủ nghĩa xã hội,
khi nó tỏ ra và hành động với tư cách là đội tiền phong của tất cả những người lao
động và những người bị bóc lột, với tư cách là lãnh tụ của họ trong cuộc đấu tranh
lật đổ bọn bóc lột”. Và từ đó V.I. Lênin nêu ra tư tưởng cơ bản trong chính sách
nông dân của quốc tế cộng sản:
- Thứ nhất, các tầng lớp trong nông dân mà giai cấp công nhân phải dựa vào
đoàn kết và kết thành liên minh với họ là: công nhân nông nghiệp sống bằng lao
động làm thuê trong các xí nghiệp nông nghiệp tư bản chủ nghĩa; những người bán

vô sản vừa làm thuê cho nhà tư bản vừa tự mình canh tác trên một ít ruộng đất tư
hoặc lĩnh canh để sống; những tiểu nông không cần thuê mướn lao động mà tự mình
canh tác trên đất tư hoặc tự đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của bản thân và gia đình.
Những tầng lớp này chiếm đại đa số trong nông thôn.
- Thứ hai, V.I. Lênin chỉ ra chính sách kiên trì và thái độ trung lập đối với
trung nông. Giai cấp vô sản ít nhất trong thời kỳ đầu chuyên chính vô sản chưa thể
đề ra nhiệm vụ lôi kéo trung nông về phía mình, mà chỉ nên áp dụng chính sách
trung lập đối với họ. Sau khi đã trung lập họ, để họ rời bỏ giai cấp tư sản, thì giai
cấp vô sản sẽ liên kết với họ thành liên minh rộng lớn.
- Thứ ba, V.I. Lênin chủ trương đối với phú nông, chính sách của giai cấp vô
sản phải hoàn toàn khác với bốn tầng lớp nói trên. Họ có thể là chủ xí nghiệp tư bản
chủ nghĩa trong nông nghiệp nhưng vì trình độ văn hóa của họ thấp lại trực tiếp
tham gia lao động, có thói quen sinh hoạt của nông dân, do đó họ có ít nhiều quan
hệ với nông dân. Nhưng phú nông là tầng lớp đông đảo nhất trong tầng lớp tư sản,
trực tiếp và kiên quyết chống lại giai cấp công nhân cách mạng. Do đó, sau khi

10


giành thắng lợi ở thành thị, tầng lớp đó tất nhiên sẽ tìm mọi cách phản kháng vì vậy
giai cấp vô sản phải chuẩn bị để giải giáp vũ trang triệt để tầng lớp này, đập tan mọi
hành động chống đối của họ.
- Thứ tư, V.I. Lênin đề ra chính sách với địa chủ và những người chiếm hữu
nhiều ruộng đất. Vì phần lớn họ là con cháu của các lãnh chúa phong kiến hoặc tài
phiệt đặc biệt giàu có. Do đó phải tịch thu vô điều kiện tất cả ruộng đất của chúng.
[12, tr. 254, 255].
V.I. Lênin gọi liên minh công nông là “điều kiện cần thiết và đầy đủ cho sự
vững mạnh”1 của chính quyền xô viết. Ông viết “Sức mạnh chủ yếu và chỗ dựa của
chính quyền xô viết là ở sự liên minh đó, vì nó bảo đảm cho chúng ta hoàn thành
tốt công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, công cuộc chiến thắng bọn tư bản, thủ tiêu

mọi sự bóc lột”2. [12, tr. 22].
Việc chuyển sang chính sách kinh tế mới NEP bắt đầu bằng việc thay chính
sách trưng thu lương thực bằng thuế lương thực. V.I. Lênin nói: “Thực chất của
chính sách kinh tế mới là sự liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân”.
Đúng như V.I. Lênin đã dự đoán “thuế lương thực sẽ giúp vào việc cải thiện
nền kinh tế nông dân, làm cho nông dân yên tâm và hăng hái sản xuất hơn”. V.I.
Lênin coi: “đó chính là mục tiêu chủ yếu”. [11, tr. 22].
Chính sách kinh tế mới là chương trình cải cách kinh tế diễn ra tại Liên Xô
từ năm 1921 đến năm 1929. Trong cuộc nội chiến (1917-1921), V.I. Lênin thông
qua Cộng sản thời chiến, bắt buộc giải tán các bất động sản ruộng đất và sự cưỡng
ép tịch thu thặng dư nông nghiệp. Cuộc nổi loạn Kronstadt là dấu hiệu cho Cuộc
chiến tranh chủ nghĩa cộng sản không được dân chúng ủng hộ ở vùng nông thôn:
tháng Ba 1921, vào thời điểm cuối của cuộc nội chiến, các thủy thủ bị vỡ mộng, các
nông dân ban đầu từng là những người ủng hộ tích cực của Bolshevik thời chính
phủ lâm thời, nổi loạn chống chính quyền mới. Mặc dù Hồng quân, dưới sự chỉ huy
của Leon Trotsky, vượt qua biển Baltic băng giá và nhanh chóng tiêu diệt cuộc nổi
loạn nhưng dấu hiệu về sự bất mãn ngày càng lớn đã buộc chính quyền dưới sự lãnh
đạo của V.I. Lênin phải tạo điều kiện thuận lợi cho một liên minh rộng lớn của tầng
lớp lao động và nông dân (80% dân số), mặc dù các bè phái cánh tả trong đảng

11


thích một chính quyền được đại diện và có lợi ích dành riêng cho giai cấp vô sản
hơn. [15].
Tháng Ba, Đảng cộng sản Nga tiến hành Đại hội X. V.I. Lênin tuyên bố
chấm dứt chủ nghĩa cộng sản thời chiến và thành lập Chính sách kinh tế mới (NEP),
theo đó nhà nước cho phép một số thị trường giới hạn được tồn tại. Công việc kinh
doanh tư nhân nhỏ được cho phép và các hạn chế về hoạt động chính trị được nới
lỏng một chút. Tuy nhiên, sự thay đổi to lớn nhất liên quan tới vấn đề thặng dư

nông nghiệp. Thay vì trưng thu thặng dư nông nghiệp để nuôi dân thành phố (phần
cốt yếu của Chiến tranh chủ nghĩa cộng sản), NEP cho phép nông dân bán sản
lượng thặng dư của họ ra thị trường tự do. Tuy nhiên, nhà nước vẫn giữ quyền sở
hữu của cái mà V.I. Lênin cho là “chỉ đạo tối cao” nền kinh tế: công nghiệp nặng
như các lĩnh vực than, thép và luyện kim cùng với các thành phần ngân hàng và tài
chính của nền kinh tế. Sự “chỉ đạo tối cao” đã sử dụng phần lớn công nhân trong
các vùng đô thị. Theo chính sách NEP, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn
toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình. NEP của Xô viết (1921-1929)
hầu như là một giai đoạn “thị trường xã hội chủ nghĩa” tương tự như các cuộc cải
cách của Đặng Tiểu Bình tại Trung Quốc sau năm 1978 theo đó dự tính trước một
vai trò cho những nhà thầu tư nhân và các thị trường bị hạn chế dựa trên thương mại
và giá cả hơn là hoàn toàn kế hoạch hoá tập trung. [16].
Ngày 8-3-1921, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga, V.I. Lê-nin - lãnh tụ
thiên tài của giai cấp công nhân Nga và cách mạng thế giới đã đề xướng với Đảng
việc áp dụng Chính sách kinh tế mới (NEP) và đã được Đại hội chấp thuận. Ở vào
thời điểm đó, thực hiện NEP tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga là
một quyết định dũng cảm, táo bạo, sáng suốt của V.I. Lê-nin và những người
Cộng sản Nga. NEP không thuần tuý là một chính sách kinh tế với ý nghĩa là một
công cụ quản lý vĩ mô về kinh tế - xã hội của Chính quyền Xô viết, nó có tầm
rộng lớn mang tính chất một giải pháp cơ bản có tính tổng thể về kinh tế, chính
trị, xã hội, để cải cách kinh tế. Nhờ NEP, nước Cộng hoà được giải thoát khỏi một
cuộc khủng hoảng để thực hiện những công việc của một đất nước vừa thoát khỏi
chiến tranh bắt tay vào công việc cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của

12


chế độ mới, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, củng cố liên minh công
nông… những công việc chủ yếu của một đất nước khi bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. NEP bao gồm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực

kinh tế, chính trị và xã hội, biểu hiện tập trung nhất trên năm vấn đề cơ bản, đó là:
- Thực hiện chế độ thu thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán lúa mì, coi
thương nghiệp là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh
tế giữa công nghiệp với nền nông nghiệp hàng hoá, giữa thành thị với nông thôn,
và sự liên minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân;
- Áp dụng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi
đó là mắt xích trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội;
- Sử dụng các các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích
vật chất và tinh thần đối với mọi người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát
triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới;
- Thực hiện kế hoạch điện khí hoá nước Nga, coi đó như một trong những
điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa;
- Củng cố Chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp
chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế; thực hiện chế độ kiểm kê
kiểm soát của nhà nước chuyên chính vô sản đối với đời sống kinh tế - xã hội,
trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh công nông về chính
trị.
Xét một cách tổng quát, NEP chính là sự thực hiện những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của một nước
tiểu nông, ở đó những quan hệ kinh tế tư sản tuy đã hình thành nhưng chưa đạt
đến độ chín muồi để chiến thắng các quan hệ kinh tế cũ, các quan hệ kinh tế của
nền sản xuất tiểu nông còn chiếm đại bộ phận trong nền sản xuất xã hội. Muốn
thực hiện tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu với tính cách là "chế độ sở hữu cổ
truyền" không thể "tiến công trực diện", phải có cách làm khác. Theo cách diễn
đạt của V.I. Lê-nin, đó là "thực hiện những bước lùi cần thiết". Bước lùi đó chính

13


là việc thiết lập một hệ thống sở hữu hợp quy luật làm cơ sở cho các thành phần

kinh tế còn tồn tại khách quan, giải phóng tối đa sức sản xuất của xã hội đang bị
kìm hãm… [14].
Phải thấy rằng, với nội dung toàn diện như vậy, đặt trong bối cảnh nước
Nga Xô viết vào thời điểm năm 1921, NEP thực sự là một quyết sách chiến lược
cơ bản mang tính cách mạng, song về sách lược lại là một chính sách mềm dẻo,
năng động và đầy tính sáng tạo. Lịch sử của nước Nga những năm 1917 đến 1924
đã cho thấy rõ điều đó. [14].
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười thắng lợi, nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Xô viết Nga - một nhà nước kiểu mới do giai cấp vô sản lãnh đạo
và quản lý vừa thoát thai từ chế độ cũ, đang trong thời kỳ trứng nước đã phải
đương đầu với không chỉ một mà là hai cuộc chiến tranh – nội chiến và cuộc can
thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc hòng bóp chết nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trên thế giới. Chưa hết, đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh đã phải đương
đầu với muôn ngàn khó khăn, thử thách mới. Những hậu quả nặng nề do chiến
tranh để lại làm cho nền kinh tế quốc dân suy sụp, quần chúng lao động điêu
đứng. Trong khi đó, chính sách "cộng sản thời chiến"- một chính sách tạm thời
được thực hiện trong điều kiện chiến tranh, mà nếu "không có chính sách ấy",
theo V.I. Lê-nin, giai cấp vô sản Nga "không thể thắng được bọn địa chủ và tư
bản trong một nước tiểu nông bị chiến tranh tàn phá", nhưng khi chiến tranh đã
kết thúc, nếu không có một chính sách mới thay thế thì lại là một sai lầm. Thực
tiễn cho thấy, nông dân bất bình, công nhân bỏ nhà máy, nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ đảng viên có những nhận thức lý luận
về chủ nghĩa xã hội thiếu đầy đủ, tư tưởng chủ quan duy ý chí xuất hiện, muốn
đốt cháy giai đoạn, tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản từ một nền kinh tế mà nhiều
yếu tố làm tiền đề cho chế độ xã hội ấy còn thiếu hoặc chưa chín muồi. Tình hình
đó đã thực sự làm suy yếu cơ sở kinh tế và xã hội của nước Cộng hoà trẻ tuổi, đe
doạ trực tiếp thành quả của cách mạng Tháng Mười. [15].

14



Điều kỳ diệu là, sau hơn 3 năm thực hiện NEP, nước Nga Xô viết đã thoát
khỏi khủng hoảng, thành quả của cách mạng được giữ vững, công cuộc xây dựng
đất nước theo những yêu cầu của các quy luật khách quan mà NEP đã thể nghiệm
thành công, được tiếp tục triển khai với tính cách là một chiến lược phát triển. Đã
85 năm trôi qua kể từ mùa xuân năm 1921, NEP của V.I. Lê-nin vẫn nóng hổi tính
thời sự, bởi nó đã được vận dụng sáng tạo và thành công ở Việt Nam và một số
nước khác. Đối với những đảng mác-xít chân chính, NEP thực sự là một chính
sách mà giá trị của nó vượt giới hạn về thời gian và không gian - một giá trị mang
tính thời đại. [14].
1.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về nông dân và vai trò của nông dân:

Xuất phát từ đặc điểm nước ta và phong trào nông dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về vấn đề nông dân
và liên minh công nông trong điều kiện nước ta. Năm 1925, trong cuốn “Đường
cách mệnh”, Người viết: “Công nông là gốc cách mệnh”, “công nông là chủ cách
mệnh”. Khi Đảng Cộng Việt Nam thành lập, trong cương lĩnh đầu tiên do Người
khởi thảo: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo, phải hết sức lãnh
đạo cho dân cày nghèo để làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến”. Còn “Phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ đứng trung lập”.1 [16].
Trong đường lối cải cách ruộng đất (1953), Người chỉ rõ: “Dựa hẳn vào bần
cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, tiêu diệt chế độ
bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng
chiến”2. Trong thời kỳ vận động nông dân vào con đường hợp tác xã Hồ chủ tịch
nêu rõ đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn là “dựa hẳn vào bần nông và trung
nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông”3. Hồ Chí Minh luôn đánh giá
nông dân là một lực lượng cách mạng to lớn không chỉ trong cách mạng dân tộc dân

chủ mà cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Người
viết: “Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Đảng ta thấy rõ trong điều kiện một nước
nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân,
cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng dân tộc là cách mạng của nông dân do

15


giai cấp công nhân lãnh đạo và chính quyền nhân dân thực chất là chính quyền của
công nông. Vì vậy, trải qua các thời Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn
vấn đề nông dân, củng cố liên minh công nông. [11, tr. 23].
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nông dân Việt Nam là một trong
những cơ sở quan trọng để Người xác định và hoàn chỉnh đường lối cách mạng vô
sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế chậm phát triển đi lên xây dựng
Chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Hồ Chí Minh: “Cách mạng vô sản không thể thắng
lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng
không được quần chúng nhân dân ủng hộ tích cực”1.
Ở Việt Nam hơn 90% dân số là nông dân. Với quan niệm “muốn bốc thuốc,
trước hết phải biết bệnh”, Hồ Chí Minh đã có cách tiếp cận, đánh giá về vấn đề
nông dân nói chung, đặc điểm và vai trò của họ trong cách mạng. Từ thế kỷ XVIII
chiến tranh nhân dân đặc biệt trở nên sôi động ở Việt Nam, đã tác động mạnh mẽ
đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó, mô hình công xã bị tác động mạnh mẽ.
Các triều đại phong kiến tiếp tục duy trì tổ chức công xã bằng việc hủy bỏ chế độ
phân cấp ruộng đất cho đại thần và hoàng tộc, thay vào đó là ban cấp bổng lộc dưới
hình thức thu tô thuế làng xã. Mô tả chế độ phong kiến và tình cảnh nông dân Việt
Nam trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh viết: “Chế độ phong kiến tức là chế độ địa chủ
bóc lột nông dân”. Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, công cụ làm của
riêng nhưng họ không cày cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng của địa chủ, phải
nộp tô cho địa chủ. Nông dân không khác gì nô lệ.
Việt Nam là một nước nông nghiệp tồn tại và phát triển trên cơ sở của

phương thức sản xuất Châu Á. Đồng thời toàn bộ lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ với những cuộc đấu tranh chống xâm
lược. Yêu cầu của việc tự bảo vệ trước nguy cơ thôn tính và đồng hóa đã buộc mọi
thành viên phải cố kết với nhau. Tính cộng đồng vì thế rất mạnh mẽ. Lịch sử dựng
nước và giữ nước của cha ông truyền cho con cháu tính cảnh giác, chống cự lại
trước bất kỳ sự xâm phạm nào. Mặt khác, tinh thần cộng đồng đó đã được bổ sung
và làm sâu sắc thêm bởi những công xã nông thôn được tổ chức trên cơ sở những
quan hệ huyết thống và chế độ sở hữu công cộng về ruộng đất. Mô tả nguyên tắc sở

16


hữu công cộng và chủ nghĩa bình quân về ruộng đất – đặc trưng cơ bản của phương
thức sản xuất châu Á, Hồ Chí Minh viết: “Người châu Á tuy bị người phương Tây
coi là lạc hậu – vẫn hiểu rõ hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiện
tại”. Và đây là lý do: Gần 5000 năm trước đây, Hoàng đế (2679 trước C.N) đã áp
dụng chế độ tỉnh điền: ông chia đất đai trồng trọt theo hai đường dọc và hai đường
ngang. Như vậy sẽ có 9 phần bằng nhau. Người cày ruộng được lĩnh mỗi người một
phần trong 8 miếng, miếng ở giữa tất cả đều cùng làm và sản phẩm được sử dụng
vào việc công ích.
Sự sâu sắc của Hồ Chí Minh về phương thức sản xuất châu Á là ở chổ Người
chỉ rõ bản chất và hậu quả của chế độ công điền công thổ, chế độ bình quân với
công xã nông thôn tồn tại trong lòng chế độ phong kiến Việt Nam đã làm cho cuộc
đấu tranh giai cấp ở đây không gay go và quyết liệt như ở phương Tây. Trong “Báo
cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ” năm 1924, Người viết: “ Cho nên nếu nông
dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn. Nếu nông dân
chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa
hoa. Nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết
công cụ để bóc lột của họ là máy móc, người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng
có tờrớt, người thì nhẫn nhục chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham

lam của mình. Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể
chối cải được”. Song sự xung đột trực tiếp về “ quyền lực của quan lại được cân
bằng bằng tính tự trị của xã thôn” làm cho “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống như ở phương Tây”. Hồ Chí Minh viết: “ An nam chưa bao giờ có tăng lữ và
thuế mười phần trăm. Hoàng đế trị vì nhưng chẳng lo cai trị gì. Tất nhiên là đã có
quan lại rồi. Nhưng có thể so sánh với chúa phong kiến không? Không.Trước hết
quan lại được tuyển lựa theo con đường dân chủ: con đường thi cử phải mở rộng
cho mọi người và mọi người có thể chuẩn bị thi mà chẳng tốn kém gì. Hơn nữa,
quyền lực quan lại được cân bằng bằng tính tự trị của xã thôn”.
Từ việc xem xét vấn đề nông dân trong xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
xác định: “Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội cũ thì cách mạng Việt Nam
phải chia làm hai bước, bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực

17


hiện “người cày có ruộng” xây dựng chính trị và xã hội dân chủ mới… Bước thứ
hai là tiến lên Chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Như
vậy, theo Hồ Chí Minh, nội dung kinh tế ở bước thứ nhất của con đường cách mạng
Việt Nam là đem lại ruộng đất cho nông dân và xây dựng kinh tế dân chủ mới.
Vào những năm 30 và 40 của thế kỷ XX, Đảng ta đứng đầu là Hồ Chí Minh
đã nắm bắt được mâu thuẫn trong kinh tế xã hội Việt Nam, nắm bắt được ước vọng
bao đời của nông dân là có “vuông đất cắm dùi” bằng việc đưa ra khẩu hiệu “người
cày có ruộng”. Nghĩa là thực hiện việc xóa bỏ sở hữu lớn của địa chủ tư bản và chia
ruộng đất cho nông dân. Khẩu hiệu chiến lược “người cày có ruộng” đã phát huy
sức mạnh của nó, tập hợp lực lượng nông dân thành “gốc cách mạng”, “thành động
lực cách mạng” trong cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cách
mạng tháng Tám năm 1945 mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam – kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nông dân Việt Nam góp phần to lớn
vào thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Bằng lực lượng toàn dân đánh giặc, trong

đó quân đội mà tuyệt đại đa số là nông dân mặc áo lính, giữ vai trò quyết định.
Nhiệm vụ “người cày có ruộng” thực hiện rãi ra trong kháng chiến là một quyết
sách đúng đắn và sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề giải phóng nhân dân cần được đặt ra
trên cả ba phương diện: nông dân phải được sống trong môi trường xã hội tốt đẹp,
đồng thời phải được đáp ứng những đòi hỏi vật chất ngày càng cao. Ở Việt Nam –
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, một nước nông nghiệp kém phát triển sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, việc giải phóng nhân dân không tách rời và không nằm
ngoài công cuộc giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Phương châm của Hồ Chí
Minh “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Số lượng đông đảo giai cấp nông dân là
nguồn nhân lực dồi dào của công cuộc dựng nước và giữ nước:
-

Tăng gia sản xuất để nuôi bộ đội, nuôi công nhân cũng chính là nông dân

- Công việc tiêu khổ kháng chiến, công việc sửa chữa đường sá, giao thông
vận tải phần lớn do nông dân.

18


Như Hồ Chí Minh đã khái quát “nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân
tộc. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt
phải dựa vào lực lượng của nông dân”.
Theo Hồ Chí Minh: Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng
nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hi sinh”.
Từ ba yếu tố trên tổng hợp thành chất cách mạng của giai cấp nông dân Việt
Nam. Song do những đặc điểm và bản chất giai cấp mà nông dân với số lượng và
chất lượng ấy vẫn không thể làm một cuộc cách mạng để tự giải phóng mình. Giai
cấp tư sản ở một số nước Châu Âu đã biết lợi dụng nông dân, lôi kéo họ tham gia

vào cuộc cách mạng tư sản, dùng họ làm lực lượng đập phá lâu đài phong kiến.
Cách mạng thắng lợi nhưng nông dân vẫn bị bóc lột áp bức.
Thống nhất với các nhà kinh điển mác xít, Hồ Chí Minh cho rằng giai cấp
nông dân Việt Nam muốn được giải phóng chỉ có đi theo giai cấp công nhân, chiến
đấu với lá cờ đỏ búa liềm của giai cấp công nhân và làm “một đồng minh rất trung
thành của giai cấp công nhân” và công nhân làm gốc, làm người chủ cách mạng.
Khi đó, sức nông dân mới mạnh và cũng chỉ mạnh khi nó được tổ chức lại và đặt
trong các tổ chức cách mạng. Để duy trì sức mạnh của nông dân, theo Người phải:
“Tổ chức nông dân thật chặt chẽ. Đoàn kết nông dân thật khăng khít. Huấn luyện
nông dân thật giác ngộ. Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nhân
dân, của Tổ quốc”. Điều này đồng nghĩa với việc đưa nông dân vào các tổ chức,
đoàn kết họ trong nông hội. Nông hội (hội nông) – theo đánh giá của Hồ Chí Minh
“là một cái nền cách mệnh của dân ta”. Bởi lẽ, có hội hè rồi tức là có tình thân ái,
sau thì khuyên nhau học hành. Đã biết “cách mệnh” tinh thần, “cách mệnh kinh tế”
thì “cách mệnh chính trị cũng không xa”.
Theo Hồ Chí Minh giai cấp nông dân là cộng đồng những người lao động,
sản xuất nhỏ trong nông nghiệp gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp, đều có đặc điểm
chung là người lao động – nhân tố chủ yếu của lực lượng sản xuất và là người tư
hữu nhỏ. Từ nông dân Pháp, Đức đến nông dân Nga, Hungari, từ nông dân Ấn Độ,
Trung Quốc, Đông Dương đến nông dân Xyri, Bănglađét không nằm ngoài những
đặc điểm chung đó. Cái khác nhau ở trình độ nông dân được biểu hiện ra rằng

19


phương thức sản xuất nông nghiệp cổ truyền hay tiên tiến, năng suất lao động thấp
hay cao, kỹ thuật lạc hậu hay hiện đại, do công nghiệp tác động vào nông nghiệp
đến mức độ nào.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao giai cấp nông dân với tư cách là lực lượng
cách mạng khi được tổ chức lại. Đây là quan điểm thống nhất với những nguyên lý

mác xít về vai trò của quần chúng trong cách mạng. Không dừng lại ở việc xác định
vai trò lực lượng cách mạng chung chung, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, giai cấp nông
dân Việt Nam trong cuộc cách mạng dân chủ mới, đánh đổ phong kiến, do giai cấp
công nhân lãnh đạo giữ vị trí “chủ cách mạng”, “gốc cách mạng”, và “động lực cách
mạng”. Bởi lẽ, “vì áp bức mà sinh ra cách mạng, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng
thì lòng cách mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết”. Nông dân bị nhiều tròng
áp bức, nông dân là lực lượng đông nhất, chiếm hơn 95% dân cư. Khi đã được giác
ngộ, nông dân gan gốc, dũng cảm có quyết tâm cao: “Nếu thua thì chỉ mất một cái
kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới”, “ thà chết tự do còn sống làm nô lệ”.
Hồ Chí Minh luôn nhìn giai cấp nông dân trong mối quan hệ khăng khít với
giai cấp công nhân trong công cuộc giải phóng. Người khẳng định: “ Chỉ có giai cấp
công nhân lãnh đạo thì nông dân mới được giải phóng”. Cũng chỉ có thắt chặt liên
minh với nông dân thì giai cấp nông dân mới lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Từ
đó, ta thấy sức mạnh của nông dân được chứng minh qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ.
Trong sự nghiệp đổi mới, mục tiêu “ người cày có ruộng” được thực hiện
dưới hình thức giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân đã tạo ra lực lượng sản
xuất mới trong nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế Việt Nam.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một nước khi bước vào thời
kỳ quá độ với đặc trưng kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ; một nước mà tính chất
của nền kinh tế tiểu nông còn tiểu nông hơn cả nước Nga năm 1921; một nước mà
khi cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra với những điều kiện bên trong và quốc tế
vừa có nhiều khác biệt, vừa có nhiều điểm tương đồng, lại vừa có điểm phức tạp
hơn so với nước Nga Xô viết sau nội chiến. Những gì diễn ra sau năm 1975 và
đỉnh điểm là những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, vừa khẳng định những

20


nét đặc thù của cách mạng Việt Nam đòi hỏi cần có nhận thức lý luận để vận dụng

NEP, vừa chỉ ra cơ sở thực tiễn cho phép Đảng và Nhà nước ta vận dụng NEP. Từ
những nội dung kinh tế và chính trị của công cuộc đổi mới xét cả về lý luận và
thực tiễn có thể thấy, về thực chất và về cơ bản, Đảng ta đã vận dụng hết sức sáng
tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin. Những thành tựu chúng ta đã đạt được
qua 20 năm đổi mới cho thấy ít nhất hai vấn đề:
Một là, NEP thực sự mang giá trị thời đại. Thực tiễn của chính sách mở cửa,
đổi mới ở Việt Nam, cải cách của Trung Quốc, thêm một bằng chứng xác thực
bác bỏ những quan điểm sai trái về sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Hai là, cũng như NEP, đổi mới ở Việt Nam là một sự nghiệp cách mạng,
muốn tiếp tục giành được những thành tựu mới, phải kiên định về nguyên tắc,
nhưng phải rất sáng tạo và mềm dẻo trong tổ chức thực tiễn.
Để sự nghiệp đổi mới của đất nước tiếp tục tiến lên, thu được những thành
tựu to lớn hơn nữa, nhằm "phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát
triển" như tinh thần dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng chuẩn bị trình Đại hội X, đã xác định, hướng tới mục tiêu đến năm 2020
nước ta "cơ bản trở thành nước công nghiệp". Khi tiếp cận vấn đề dưới góc độ
NEP là một giá trị mang tính thời đại cùng với tính cách mạng và khoa học thể
hiện trong các nội dung của NEP, sẽ thấy NEP có tầm quan trọng đặc biệt đối với
sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Với ý nghĩa đó, sự nghiệp đổi mới đòi hỏi sự chỉ đạo
của Đảng và đặc biệt là sự quản lý của Nhà nước thời gian tới cần có sự tập trung
vào các vấn đề lớn mà theo tinh thần của NEP nhất định không được coi nhẹ. Có
thể nêu lên ba vấn đề gồm:
Thứ nhất, thông qua biện pháp "tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường", sử dụng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như một phương
tiện để thiết lập quan hệ kinh tế chặt chẽ và bền vững giữa nhà nước với nông
dân. Mô hình "liên kết bốn nhà", cần được tổng kết chu đáo để rút ra những kết

21



luận lý luận và các kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn. Đây chính là biện pháp khả thi
hiện nay để củng cố liên minh công nông về kinh tế.
Thứ hai, bằng những biện pháp tích cực và cụ thể đẩy mạnh hơn nữa quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; đổi mới chính sách
thu hút đầu tư để gọi được nhiều vốn FDI cho lĩnh vực này. Thực hiện tốt việc áp
dụng hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nông nghiệp, nông thôn chính là
con đường ngắn nhất và cũng hiệu quả nhất để đảm bảo tính bền vững cả về kinh
tế và chính trị mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và
nông thôn.
Thứ ba, thực hiện những giải pháp quyết liệt và mang tính đột phá hơn
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phải có những biện pháp
mang tính cơ bản hơn để tẩy trừ tệ quan liêu, nạn tham nhũng từ gốc. Vì sự trong
sạch của bộ máy nhà nước và đời sống xã hội, đồng thời để đẩy nhanh chiến lược
phát triển, nếu cần thiết, không loại trừ việc dùng những biện pháp mạnh tay và
kiên quyết mang tính phổ biến hơn hiện nay. Những tư tưởng của V.I. Lê-nin từ
NEP đòi hỏi quy tụ lòng dân bằng con đường pháp trị là biện pháp cần được gia
tăng hơn nữa, để cùng với các biện pháp giáo dục, kiểm kê kiểm soát, thanh tra,
kiểm tra giám sát của hệ thống chính trị và nhân dân trong việc xây dựng Nhà
nước của dân, do dân và vì dân không có tệ quan liêu và nạn tham nhũng. [14].
1.3.

Vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

Nông dân nước ta là giai cấp đông đảo nhất, là lực lượng to lớn nhất đã xây
đắp nên lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong suốt quá trình cách
mạng, giai cấp nông dân nước ta luôn luôn một lòng son sắc theo Đảng, nêu cao
tinh thần yêu nước, truyền thống lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, vượt qua
khó khăn thách thức, góp phần to lớn cùng toàn dân hoàn thành vẻ vang sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước

ta chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Đến nay, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nông nghiệp,
nông dân và nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và khá toàn

22


diện. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng
hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; bảo đảm vững chắc an ninh lương
thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trí cao trên thế giới. Kinh tế
nông thôn chuyển dịch theo hướng nông nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức
tổ chức sản xuất tiếp tục được đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng
cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của
dân cư hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo
đạt được những kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng
cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao. Người
nông dân có nhiều điều kiện, cơ hội làm giàu cho gia đình, cho quê hương, đất
nước.
Nông dân có với vai trò là chủ thể và là lực lượng nòng cốt, chủ công của sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Muốn phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh
tế nông thôn phải khơi dậy, phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo của
nông dân, đem lại lợi ích thực sự cho họ, tức là phải đưa vào nông nghiệp, nông
thôn.
Qua các giai đoạn cách mạng của nước ta, nông dân luôn là lực lượng hùng
hậu nhất đi theo Đảng, đóng góp vô cùng to lớn về tinh thần và sức lực, tính mạng
và của cải, vượt qua muôn vàn hy sinh, gian khổ, góp phần làm nên những trang sử
vẻ vang của dân tộc. Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều khẳng định
tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy,

Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng,
coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo
vệ môi trường sinh thái.
Quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nông
nghiệp, nông dân và nông thôn được thể hiện trong suốt quá trình cách mạng Việt
Nam và trong những thập niên gần đây. Đặc biệt là Nghị quyết Đại hội X của Đảng

23


đã nhấn mạnh: “ Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế
nông thôn và nâng cao đời sống nông dân”. Bởi vì, “hiện nay và trong những năm
tới vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng”2. Vì vậy “phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa
dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh
tranh cao” 3. [2,tr.18].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
"Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" đã xác định:
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp – hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường
sinh thái của đất nước... Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là
một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhằm đạt đến mục tiêu không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nâng cao trình độ sản xuất của nông
dân ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng

vai trò làm chủ nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo
hướng hiện đại, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã
hội hiện đại; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã
hội Chủ nghĩa. [2,tr.19].
Báo cáo chính trị của Hội Nông dân Việt Nam trình ra Đại hội lần này đã xác
định phương hướng công tác của Hội Nông dân và phong trào nông dân trong
nhiệm kỳ tới là "Đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân vững
mạnh" là chủ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hội Nông dân
Việt Nam vững về chính trị, mạnh về tổ chức, thống nhất về hành động là trung tâm

24


và nòng cốt trong phong trào nông dân và góp phần xây dựng nông thôn mới trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; tham
gia có hiệu quả vào các công tác xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, nâng cao
đời sống, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân; góp phần
cùng cả nước thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh".

25


×