Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

QUAN điểm của hồ CHÍ MINH về CHỐNG THAM NHŨNG và sự vận DỤNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.32 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG VIỆC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

Lê Thị Thúy Hương

Trần Thị Loan Hương
MSSV: 6086458

CẦN THƠ – 5/2012
MỤC LỤC

1


Trang
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài................................................................5


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.................................................................5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài...................................................5
5. Kết cấu của đề tài.............................................................................................................6
Chương 1...............................................................................................................................7
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM Ô..........................................7
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ THAM Ô..................................7
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tham ô..............................................................8
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM Ô.................................12
1.2.1. Tầm quan trọng của chống tham ô...................................................................12
1.2.2. Biện pháp chống tham ô....................................................................................13
1.3. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG
..........................................................................................................................................16
Chương 2.............................................................................................................................20
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.....................................................20
2.1 .THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...............................20
2.1.1. Khái niệm tham nhũng.....................................................................................20
2.1.2. Những biểu hiện của tham nhũng ở Việt Nam..................................................23
2.1.3. Quy mô, tính chất và mức độ của tham nhũng ở Việt Nam hiện nay...............28
2.1.4. Những nguyên nhân cơ bản của tham nhũng ở Việt Nam hiện nay..................29
2.2. THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..35
2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tham nhũng
......................................................................................................................................35
2.2.3. Một số hạn chế trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện
nay................................................................................................................................42
2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế......................................................................45
KẾT LUẬN.........................................................................................................................54

2



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Từ điển xã hội học, tham là tham ô mà tham ô là ăn cắp của công làm của tư,
đục khoét của nhân dân, tiêu ít mà khai nhiều, tham ô là trộm cướp; nhũng là nhũng
nhiễu. Đồng thời,tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền lực của những người có chức,
có quyền để mưu lợi cho cá nhân mình. Là một hiện tượng xã hội tiêu cực, tham nhũng
đã xuất hiện từ lâu gắn liền với sự hình thành xã hội có giai cấp và sự ra đời, phát triển
của bộ máy nhà nước. Hiện tượng này đang ngày càng phát triển với mức độ đặc biệt
nguy hiểm. Tham ô và tham nhũng có điểm giống nhau là đều xuất phát từ lợi ích các
nhân, chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến lợi ích người khác. Đều làm hại đến lợi ích
chung, lợi ích của nhà nước, của chính phủ. Tuy nhiên, tham ô có phạm vi hẹp hơn
tham nhũng vì tham ô là một trong những hành vi của tham nhũng.
Không chỉ hôm nay mà ngay từ xa xưa, tệ tham nhũng luôn được ông cha ta xem
đó là quốc nạn, là kẻ thù làm suy vong dân tộc. Hồ Chí Minh là người sáng lập và
rèn luyện Đảng ta, là người sáng lập ra nhà nước Việt Nam hiện đại. Người rất chú
ý đến việc giáo dục cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập đến việc chống các bệnh
quan liêu, tham ô, lãng phí. Những bệnh này được Người diễn đạt trong thuật ngữ
cổ hơn đó là “bất liêm”, mà ngày nay chúng ta gọi là tham nhũng. Ngày 26/01/1946,
Người viết Quốc lệnh thể hiện quyết tâm của mình trong việc xử lý những hành vi
trộm cắp của công. Đầu tháng 12/1946, Người gửi đến các Bộ trưởng Thông tư 22 về
việc bài trừ nạn hối lộ và lạm dụng tiền công quỹ. Bên cạnh đó, Người còn viết rất
nhiều bài báo, tạp chí, thơ ca nhằm lên án và đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng.
Đặc biệt, trong hơn 25 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn
về phát triển kinh tế, nhiều hành vi tham nhũng, tiêu cực cũng phát sinh và phát
triển, gây nguy hại cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do nhận thức được
tác hại và nguy cơ của tệ tham nhũng, nên ngay từ ngày giành được chính quyền về
tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực. Mới đây tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011) đã nhấn


3


mạnh “Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này” [9, tr.325] thể hiện quyết
tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. Hoạt động phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được
những kết quả đáng kể, phát hiện nhiều vụ án tham nhũng có quy mô lớn như: các
vụ quản lý đất đai ở huyện đảo Phú Quốc, Đồ Sơn; vụ Năm Cam và đồng bọn ở
Thành phố Hồ Chí Minh; vụ PMU 18 ở Bộ giao thông vận tải. Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tại nhiều hạn chế lớn như: đối tượng vi phạm giữ chức vụ cao ngày càng nhiều;
một số cán bộ, đảng viên còn câu kết, đồng loã với những phần tử xấu ngoài xã hội
hình thành đường dây phạm tội mang tính chất nguy hiểm nghiêm trọng; đục khoét
tài sản nhà nước, làm hư hỏng bộ máy công quyền; cán bộ, đảng viên vi phạm nhiều
nhưng lại xử lý ít vì sợ làm mất uy tín của Đảng; gây rối loạn, mất đoàn kết. Bên
cạnh đó, thực tế cho thấy khi phát hiện ra vụ án tham nhũng nghiêm trọng thì lập
tức hô hào phát động chiến dịch rồi sau đó bị chìm vào quên lãng cho đến khi vụ
việc tiếp theo xảy ra; chưa phát huy mạnh mẽ vai trò của nhân dân trong phòng,
chống tham nhũng. Chính vì những hạn chế đó làm cho công tác phòng, chống
tham nhũng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước và toàn dân ta coi việc
phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, gắn liền với nhiệm
vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Để hưởng ứng và góp phần vào sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân trong
việc thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, tác
giả chọn đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và sự vận
dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc phòng, chống tham nhũng hiện
nay” làm luận văn tốt nghiệp đại học.

4



2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận chung về tham nhũng theo quan điểm của Hồ Chí
Minh; sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong hoạt động phòng, chống tham
nhũng; đồng thời đề xuất các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ
- Phân tích, khái quát những vấn đề lý luận chung về tham nhũng và hoạt động
phòng chống tham nhũng theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
- Tìm hiểu, phân tích, đánh giá về thực trạng đấu tranh phòng, chống tham
nhũng ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất những nhóm giải pháp cơ bản về phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về tham ô, chống tham ô
- Thực trạng phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Làm rõ kết quả và ý nghĩa của cuộc đấu tranh chống tham ô dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước ta vào
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng từ năm 2001 đến năm 2012.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1 Cơ sở lý luận
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng.

5



4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn chủ yếu sử
dụng phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương và 6 tiết.

6


Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM Ô
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ THAM Ô

1.1.1. Khái niệm tham ô
Theo Đại từ điển tiếng việt: “Tham ô là lợi dụng quyền hành để lấy của công làm
của riêng. Bên cạnh đó, còn tồn tại tham ô tài sản là làm thất thoát tài sản của tập thể
do tư túi hoặc chi dùng bừa bãi, thiếu tính toán hợp lý, tiết kiệm” [22, tr.1523].
Theo Từ điển xã hội học, “Tham là tham ô mà tham ô là ăn cắp của công làm
của tư, đục khoét của nhân dân, tiêu ít mà khai nhiều, tham ô là trộm cướp; nhũng là
nhũng nhiễu. Tính chất phức tạp của nền kinh tế thị trường nảy sinh ngày càng
nhiều và đa dạng các khuôn mặt tham nhũng qua các hành vi chiếm đoạt lao động
của người khác; tạo ra khó khăn để giúp đỡ nhằm thu lợi bất chính, hoặc tạo ra một
sân chơi để bên này làm ngơ cho bên kia nhận phần lợi cho mình” [16, tr.308].
Theo Từ điển pháp luật hình sự, “Một trong những hành vi của tham nhũng là
tham ô tài sản: Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có
trách nhiệm quản lý. Tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sở
hữu của người khác. Người có thể thực hiện hành vi tham ô phải là người có trách

nhiệm quản lý tài sản. Họ có thể là người có chức vụ nhất định như: Thủ trưởng cơ
quan, Chánh văn phòng, Giám đốc xí nghiệp, Trưởng phòng tài vụ hoặc là người có
quyền hạn nhất định do đảm nhiệm công tác nhất định liên quan đến quản lý tài sản
như: thủ kho, thủ quỹ, kế toán. Hình phạt quy định cho tội này có mức cao nhất là
tử hình” [10, tr.228-229].
Theo Từ điển Hồ Chí Minh sơ giản, đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: ăn
cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, ăn bớt của bộ đội, tiêu ít mà khai
nhiều, lợi dụng của chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình
cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: ăn cắp của công, khai

7


gian, lậu thuế. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ
thù của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ.
Dù hiểu tham ô theo khía cạnh nào thì mọi người và Hồ Chí Minh đều công
nhận tham ô là hành động xấu xa, làm hại xã hội. Do đó, Đảng, Nhà nước và toàn
dân phải quyết tâm phòng, chống tệ nạn tham ô.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tham ô
1.1.2.1. Hồ Chí Minh quan tâm sớm về vấn đề chống tham ô trong cách
mạng Việt Nam
Ngay từ những năm 1925, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến tham ô, tham
nhũng. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Người dùng cả chương VI để
nói về Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị. Hơn ai hết, Người nhận thức rõ về nguy
cơ của tham ô, tham nhũng đối với sự tồn vong của một chế độ. Năm 1925-1927, tại
Quảng Châu – Trung Quốc, khi trực tiếp huấn luyện cho các lớp cán bộ đầu tiên của
cách mạng Việt Nam, Người khuyên răn tất cả mọi người phải sống trong sạch, lành
mạnh và không xem trọng vật chất. Người viết rằng: “Vị công vong tư, không hiếu
danh, ít lòng tham muốn về vật chất” [13, tr.260].
Bên cạnh việc thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt để đối phó

với từng kẻ thù, nhằm giữ vững độc lập và chủ quyền dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn bắt tay ngay vào việc xây dựng và củng cố nhà nước cách mạng. Mặc dù
bận trăm công ngàn việc, Người vẫn luôn luôn chú trọng đến việc làm trong sạch
đội ngũ cán bộ Chính phủ. Ngày 5/01/1946 Thông tư số 22 đã được Bộ trưởng Bộ
quốc gia giáo dục sao làm nhiều bản gửi Giám đốc các ban và các sở trực thuộc.
Bản sao gửi Giám đốc Sở lưu trữ công văn hiện đang được bảo quản tại Trung tâm
lưu trữ quốc gia I. Đầu tháng 12/1946, Người gửi đến các vị Bộ trưởng Thông tư số
22 về việc bài trừ nạn hối lộ và lạm dụng tiền công quỹ. Trải qua hơn 50 năm,
Thông tư này vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn.
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ, là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc ở
thế kỷ 20, đồng thời cũng là lãnh tụ, là chiến sĩ tiên phong chống tham nhũng. Hiếm
có một lãnh tụ nào, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình lại kiên trì,

8


liên tục và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng như Hồ Chí Minh. Điều đó được
thể hiện như ngay từ ngày đầu xây dựng chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã rất quan tâm đến vấn đề chống tham ô. Sau khi miền Bắc tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi nhiều thư đến ủy ban nhân dân các
kỳ, tỉnh, huyện và làng. Người phê bình những cán bộ cậy thế, hủ hóa, tư túi, tư
túng, óc bè phái, óc hẹp hòi. Người đã chỉ ra nguyên nhân và tác hại của bệnh tham
ô và cảnh cáo ai vi phạm những lỗi lầm này, thì phải hết sức sữa chữa; nếu không tự
sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung.
1.1.2.2. Những biểu hiện của tham ô
Theo Hồ Chí Minh, tham ô là phạm trù để chỉ những hành vi xấu xa của con
người. Tham ô được biểu hiện rất đa dạng như trộm cắp của công, đục khoét, ích
kỷ, hẹp hòi, thiếu trung thực. Tham ô được diễn ra dưới nhiều hình thức, mức độ
khác nhau. Theo Người, trái với tham ô là liêm , vậy hành động “bất liêm” là những
biểu hiện của tham ô. Người đã chỉ ra một loạt hành vi bất liêm dưới đây:

Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên là bất
liêm. Người cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút lót, hoặc
trộm của công làm của tư. Người buôn bán, mua 1 bán 10, hoặc mua gian
bán lậu chợ đen chợ đỏ, tích trữ đầu cơ. Người có tiền, cho vay cắt cổ, bóp
hầu bóp họng đồng bào. Người cày ruộng không ra công đào mương mà
lấy cắp nước ruộng của láng giềng. Người làm nghề (bất cứ nghề gì) nhân
lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào. Người cờ bạc chỉ mong xoay của
người làm của mình. Đều là tham lam, đều là bất liêm. Dìm người giỏi để
giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm). Gặp việc phải mà
sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lạo. Gặp giặc mà
rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử. đều làm trái với chữ liêm. Do
bất liêm mà đi đến tội ác là trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay
gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp [12, tr.460-461].
Tham ô là do tha hoá quyền lực của nhà nước, do thiếu dân chủ. Theo Hồ Chí
Minh, tham ô xuất phát từ hai phía, từ phía cán bộ công chức nhà nước mắc bệnh
quan liêu mệnh lệnh như: xa nhân dân; không yêu nhân dân; thậm chí còn lừa phỉnh

9


dân và doạ nạt dân. Đây là những cán bộ công chức có lối sống và đạo đức bị tha
hoá, không nghĩ đến dân, đến người khác, chỉ biết cho bản thân, sống vì lợi ích cá
nhân nên ích kỷ, hẹp hòi. Do đó, những cán bộ công chức này là những người tham
lam và bất liêm, dẫn đến tội ác trộm cắp. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã vạch trần những
hành động bất liêm tức là những hành động tham ô dưới nhiều hình thức khác nhau,
trong đó có hình thức gián tiếp. Người viết:
Nói đến tham ô, có người chỉ nghĩ đến ăn cắp của công làm của tư mà không
thấy tham ô gián tiếp. Thí dụ, một cán bộ, Chính phủ, nhân dân, trả lương
hàng tháng đều cho, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này trông núi
nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân [14, tr.463].

Ngoài ra, biểu hiện của tham ô cũng tồn tại ở người dân. Người nói, quan tham
vì dân dại, nếu dân hiểu biết không chịu đút lót, thì quan dù không liêm cũng phải
hoá ra liêm. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ
để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm, tránh tình trạng tham ô trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Dù tham ô diễn ra ở bất cứ hình thức nào, phạm vi nào, lĩnh vực nào thì
Hồ Chí Minh đều kiên quyết đấu tranh chống tham ô. Những giá trị về tư tưởng
chống tham ô của Người vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay và được toàn Đảng,
toàn dân tuyên truyền và vận dụng. Chính vì vậy, hiện nay mỗi người dân đều sống,
học tập và làm việc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến tham ô
Đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một trong những nguyên nhân trực
tiếp của bệnh tham ô là bệnh quan liêu, biểu hiện ở chỗ cá nhân và cơ quan lãnh
đạo, cơ quan quản lý từ cấp trên đến cấp dưới không sát sao công việc thực tế,
không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng, không bám sát các
vấn đề, không kiểm tra đến nơi đến chốn. Cụ thể là:
“Vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có
mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng,
có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha
hồ tham ô, lãng phí” [14, tr.490].
Bên cạnh đó, Người còn nói:

10


Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không điều tra, nghiên cứu đến
nơi đến chốn những công việc cần phải làm, việc gì cũng nắm không vững,
chỉ đạo một cách đại khái, chung chung. Quan liêu là xa rời quần chúng,
không đi sâu đi sát, không hiểu rõ lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ
mình. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Sợ phê bình và tự phê bình.
Tác phong của những ông quan liêu là thiếu dân chủ, không giữ đúng

nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách. Vì vậy, bệnh quan liêu là
nguồn gốc sinh ra lãng phí, tham ô. Kinh nghiệm chứng tỏ rằng: ở đâu có
bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí; nơi nào bệnh quan liêu
càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô. Cho nên muốn triệt để
chống tham ô, lãng phí thì phải kiên quyết chống nguồn gốc của nó là bệnh
quan liêu [15, tr.574].
Theo Hồ Chí Minh nguyên nhân tiếp theo dẫn đến tham ô là do:
Chủ nghĩa cá nhân là tư tưởng ích kỷ, hẹp hòi, chỉ nghĩ đến mình mà không
nghĩ đến người khác, chỉ chăm lo lợi ích riêng mà không lo lợi ích chung.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm:
quan liêu, tham ô, nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những
người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị
cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích giai cấp, nhân dân. Do vậy
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là đấu tranh chống tham ô. [19, tr.390]
1.1.2.4. Tác hại to lớn của tham ô
Tham ô theo Chủ tịch hồ Chí Minh có nhiều tác hại. Đầu tiên, nó là kẻ thù của
nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. Đây là kẻ thù nguy hiểm, vì nó không mang
gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, làm hỏng công việc của ta.
Tham ô là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công
cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí
khắc khổ của cán bộ ta.
Ngoài ra, tham ô còn có tác hại là phá hoại đạo đức cách mạng của ta. Tham ô,
là tội ác. Để kháng chiến thắng lợi, để xây dựng nước nhà, chiến sĩ thì hy sinh
xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để đóng góp. Mà những kẻ tham

11


ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải
của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật

thám [1, tr.17].
Theo con số đã nắm được từ năm 1958 đến 1961thì những vụ tham ô đã
làm hao tổn của Nhà nước hàng triệu đồng. Hiện nay có nơi, những người
tham ô đã tự giác thật thà nhận lỗi và hứa quyết tâm sửa chữa. Số lãng phí
rất lớn. Gần đây, một số nhà máy và công trường đã bắt đầu cố gắng sửa
chữa. Tuy vậy trong mấy năm nay đã lãng phí hàng chục triệu đồng. Với số
tiền bạc, của cải bị tham ô, lãng phí đó có thể làm được: hoặc 10 công trình
thủy lợi như Bắc – Hưng – Hải, hoặc 5 nhà máy cơ khí trung quy mô, hoặc
mấy ngôi nhà 4 tầng cho một vạn người ở. Tiền bạc, của cải đó là do nhân
dân ta đóng góp, cũng có phần do các nước anh em giúp đỡ. Để hao hụt vì
tham ô, lãng phí là không biết thương tiếc mồ hôi nước mắt của nhân dân
ta, không biết quý trọng sự giúp đỡ chí tình của nhân dân các nước anh em.
Cho nên chúng ta, tất cả những cán bộ phụ trách của Đảng và Chính phủ,
phải thật thà tự phê bình, nhận khuyết điểm và làm gương mẫu sửa chữa
trong cuộc vận động này [15, tr.574-575].
Người coi bọn tham nhũng là kẻ địch, là giặc nội xâm, hoặc ngang hàng với kẻ
phản quốc. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay cuộc đấu tranh phòng, chống
tham ô, tham nhũng là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM Ô

1.2.1. Tầm quan trọng của chống tham ô
Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô vốn là căn bệnh của chế độ thực dân phong kiến
để lại, tuy chúng ta đã lật đổ được chính quyền cũ song những nọc xấu của nó vẫn
bám theo tiến trình chúng ta xây dựng chế độ mới. Đó là một xã hội tốt đẹp và mọi
người đều được hưởng công bằng, tự do, hạnh phúc. Tuy nhiên, tham ô vẫn luôn
tồn tại và diễn ra cả trong cán bộ và nhân dân. Đó là những người dối trên, lừa dưới,
lợi dụng những sơ hở của tổ chức, pháp luật, chính sách để thu lợi bất chính cho cá
nhân. Đây là tệ nạn nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến sự nghiệp xây dựng và phát

12



triển của đất nước. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã kiên quyết chống tham ô, Người
còn kêu gọi cả nước cùng nhau chung tay phòng chống tham ô, quyết tâm vạch trần
và xử lý nghiêm minh những người vi phạm, khuyến mọi cán bộ, công chức phê
bình và tự phê bình, rèn luyện đạo đức. Vì:
Chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta là rất tốt đẹp, mạnh mẽ, vững như một
người khổng lồ có sức khỏe dồi dào. Tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là cái xấu
xa do xã hội cũ để lại, như cái ung nhọt còn sót lại trên thân thể của người
khổng lồ. Công khai và mạnh dạn gạt bỏ cho sạch những ung nhọt ấy thì thân
thể càng mạnh khỏe thêm. Cho nên, vạch những tệ hại nói trên để sửa chữa,
chúng ta không sợ kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền [12, tr.260].
1.2.2. Biện pháp chống tham ô
Theo Hồ Chí Minh để chống tham ô có rất nhiều biện pháp. Cụ thể là:
Biện pháp thứ nhất, làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng quét
sạch chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh yêu cầu trước hết cần nhận thức chung và quyết tâm chống tham ô,
lãng phí, quan liêu cũng quan trọng và cần líp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây
là mặt trận tư tưởng và chính trị. Cũng như ở các mặt trận khác, muốn thắng ở mặt
trận này, phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, phải có lãnh đạo và trung kiên. Đây là
cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và
cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm liêm, chính, chí công, vô tư và kẻ địch
là tham ô, lãng phí, quan liêu. Trong tác phẩm Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu, Hồ Chí Minh nêu cách thức tổ chức như sau:
Bước đầu: là đánh thông tư tưởng. Phải khai hội đủ mặt mọi người trong
cơ quan, đơn vị, trường học để giải thích rõ ràng, cho mọi người đều hiểu:
tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho dân, cho nước như thế nào? Vì sao
phải chống những nạn ấy? Để sửa chữa những ý nghĩ sai lầm, như: tham ô
là có tội, song lãng phí chỉ là một khuyết điểm. Những người có công với
cách mạng, thì tham ô, lãng phí chút đỉnh, cũng nên tha thứ cho họ. Nước

ta nghèo không có gì mà tiết kiệm; cơ quan ta không có gì mà lãng phí.

13


Không phải cơ quan kinh tế tài chính, thì không có gì mà tham ô, lãng phí.
Để yên định những lo ngại không đúng, như: một sự nhịn, chín sự lành;
kiểm thảo lẫn nhau làm gì. Tự nhận sai lầm sợ mất thể diện, mất uy tín, sợ
bị phạt. Chỉ trích lỗi của người khác sẽ mất đoàn kết. Ai tham ô, lãng phí
mặc ai, mình không tham ô, lãng phí thì thôi. Nói thật mất lòng, sẽ bị bầu
bạn ghét, bị cấp trên trù [14, tr.491].
Biện pháp thứ hai, phải kết hợp giữa xây và chống. Có thể ví xây và chống như
hai bánh xe vững chắc. Chống triệt để bảo đảm cho công việc xây thành công. Xây
phát triển mạnh mẽ thì đối tượng chống sẽ được xóa bỏ tận gốc.
Để đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, Đảng và Chính phủ đã quyết định bắt
đầu tiến hành hai cuộc vận động lớn: một là cuộc vận động nâng cao tinh thần trách
nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu. Gọi tắt là “3 xây, 3 chống”.
Muốn xây dựng một xã hội mới và tốt đẹp, thì cần phải tiêu diệt những thói hư,
tật xấu của xã hội cũ còn sót lại. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi
dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo
đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân,
phục vụ cách mạng.
Số đông cán bộ, đảng viên, đoàn viên, công nhân, viên chức ta đều tận tụy và
trong sạch. Cho nên chúng ta đã thu được những thành tích trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong hàng ngũ ta vẫn còn một số người không tốt.
Họ tham ô và lãng phí của nhà nước và của nhân dân. Vì vậy chúng ta phải thực
hiện tốt công tác chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
Biện pháp thứ ba, huy động lực lượng toàn dân chống tham ô

Phải đồng tâm nhất trí, mạnh bạo xung phong, huy động được sự tham gia của
nhân dân. Nhân dân và báo chí rất quan trọng. Báo chí phải nêu những việc kiểu
mẫu, đăng những lời phê bình của quần chúng; làm cho mọi người thấy rõ tham ô,
lãng phí, quan liêu là tội ác. Hơn nữa, thông qua báo chí cần phổ biến cho mọi

14


người dân hiểu rõ về tham ô và chống tham ô. Từ đó, mọi người dân có thể tổ chức
lại với nhau để nghiên cứu sâu hơn về vấn đề chống tham như Hồ Chí Minh từng nói:
Khi mọi ngươì đã hiểu thì chia thành từng tổ để nghiên cứu tài liệu: những
lời dạy của Lênin, Xtalin nói về tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu. Tài liệu của Đảng lao động, chính sách của Đảng và Chính phủ. Các
tài liệu nói về cần, kiệm, liêm, chính, sửa đổi lối làm việc. Các tổ vừa
nghiên cứu vừa thật thà tự kiểm thảo và giúp nhau kiểm thảo [14, tr.491].
Biện pháp thứ tư, thực hiện tự phê bình và phê bình
Các ban thanh tra phải chú ý kiểm tra chống lãng phí, tham ô, chống bệnh quan
liêu, mệnh lệnh. Làm nghiêm chỉnh, kịp thời trong các công tác xét các vụ khiếu
nại, tố giác. Phải làm thường xuyên nhiệm vụ chống tham ô, lãng phí, quan liêu:
Vì quan liêu, tham ô, lãng phí có hại cho nhân dân, cho Chính phủ, cho
đoàn thể và cho kiến quốc, nên mọi người có quyền và nghĩa vụ phải
chống. Bước đầu thì chống bằng cách kiểm thảo và phê bình. Gần đây
nhân dân và báo chí đã bắt đầu (tuy còn e dè, thưa thớt) phê bình. Song
những tổ chức hoặc cơ quan bị phê bình thì im lìm, không đăng báo phê
bình, không tìm cách sửa chữa. Đó là thái độ bưng mắt, bắt chim, thái độ
giấu bệnh, sợ thuốc, một thái độ không thật thà, không đứng đắn. Mong
những ai, những cơ quan nào đã được nhân dân hoặc báo chí phê bình thì
thật thà tự phê bình trước nhân dân, trên báo chí [14, tr.534].
Biện pháp thứ năm, phải công khai, dân chủ, minh bạch.
Trong kiểm thảo thực hiện nguyên tắc: cán bộ, đảng viên ở địa vị càng cao thì

càng phải giữ đúng kỷ luật của đảng, càng phải làm gương dân chủ, mạnh dạn, thật
thà tự kiểm thảo. Thật thà báo cáo tình hình của đơn vị mình cho mọi người trong
toàn đơn vị, toàn ngành biết rõ. Phải kiên quyết nhổ cỏ. Nắm vững trọng điểm, làm
từng bước từ cấp trên đến cấp dưới, từ bộ phận chính đến bộ phận phụ. Trong
phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là chính, trừng phạt là phụ.
Có khen thưởng, có kỷ luật, thưởng phạt nghiêm minh (cả người ngăn cản, đe dọa
những người kiểm thảo mình; người thấy tội không nêu ra cũng có tội). Coi trọng tự
phê bình và phê bình, chống thói ngăn cản quần chúng phê bình. Nhận thức đúng

15


chi bộ là một tổ chức lãnh đạo chính trị, chứ không phải là một tổ chức hành chính.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh yêu cầu chống tham ô, lãng phí, quan liêu phải được
tiến hành trước hết và trực tiếp ở cơ sở, cơ quan, đơn vị. Cụ thể là:
Đơn vị hoặc cơ quan khai hội kiểm thảo chung để giải quyết các vấn đề,
giải thích các thắc mắc, sửa chữa những khuyết điểm trong phong trào
kiểm thảo, khen ngợi những người đã thành thật tự kiểm thảo, khuyến
khích những người còn ngập ngừng e ngại, đặt chương trình chung cho đơn
vị (chương trình mở rộng kiểm thảo, tăng năng suất) và bầu cử ban lãnh
đạo phong trào. Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo
dục là chính, trừng phạt là phụ, có nghĩa là: Ai kiểm thảo đúng những
người khác, sẽ được khen thưởng. Ai có lỗi mà thật thà tự kiểm thảo, thì lỗi
nhẹ sẽ được tha thứ, lỗi nặng sẽ được xử nhẹ hoặc lấy công chuộc tội (trừ
những tội lỗi đặc biệt năng). Ai có lỗi mà không thật thà nói ra, sẽ bị kỷ
luật. Ai ngăn cản, đe dọa những người kiểm thảo mình, sẽ bị kỷ luật [14,
tr.492-493].
Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm
chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi,
kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn

quốc. Đó là một nhiệm vụ quan trọng trong mỗi người chúng ta.” [14, tr.534].
1.3. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG

Theo Hồ Chí Minh, tham ô là hiện tượng xã hội nảy sinh từ rất sớm, nó xuất
hiện trong chế độ ta ngay từ khi Đảng mới cầm quyền, Người coi tham ô là một
trong những “căn bệnh” nguy hiểm gây ra bao tác hại khôn lường nếu không sớm
phát hiện và phòng trừ. Hồ Chí Minh cho rằng, đấu tranh chống tham ô là một
nhiệm vụ cần kíp, quan trọng không kém đánh giặt ngoài mặt trận. Để đấu tranh
chống tham ô đi đến kết quả tốt Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải chống từ bên
trong, phải tiệt trừ tận gốc những tư tưởng và hành động tham ô. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh đã quyết tâm phòng, chống tham ô và đã đạt được những kết quả đáng kể.
Điều đó được thể hiện rõ thông qua những vụ án tham ô lớn mà Người mà xử lý.

16


Tiêu biểu là Vụ án Trần Dụ Châu, là vụ án tham nhũng nổi tiếng những năm 50
của thế kỷ trước. Vụ này đã được nhà báo Hồng Hà viết trong loạt bài phóng sự
điều tra đăng 6 kỳ liền, từ ngày 20/9/1950, trên báo Cứu Quốc, cơ quan tuyên
truyền, cổ động, tranh đấu của Trung ương Mặt trận Liên Việt và Tổng bộ Việt
Minh, xuất bản hàng ngày. Đây là một bài học về kiên quyết chống tham nhũng
trong bất cứ thời kỳ nào.
Trần Dụ Châu ngồi khai trước các cơ quan pháp luật. Sinh năm 1906 tại một
tỉnh miền Trung, Châu bước vào đời bằng đi làm thư ký toà sứ Pháp. Thấy Châu
vừa đi làm, vừa viết báo Thanh – Nghệ – Tĩnh, e lộ chuyện công sở, toà sứ cho
Châu thôi việc. Châu chuyển sang làm nhân viên quận Hỏa xa Bắc Trung Kỳ. Nhật
đảo chính Pháp ở Đông Dương tháng 3/1945, Châu được cử làm Trưởng phòng Kế
toán Hỏa xa Bắc Trung Kỳ. Nhờ quen biết người Nhật Bản, Châu lấy được một kho
vải ở huyện Đức Phong, bán đi có tiền tậu một biệt thự ở Đà Lạt. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 bùng nổ, Châu hiến cho Nhà nước một phần tài sản của mình, rồi

hoạt động trong Uỷ ban Công sở Nha Hỏa xa Việt Nam và Hội Công nhân Cứu
quốc Hỏa xa. Ngày toàn quốc kháng chiến, Châu ra Bắc, được giao việc chạy một
kho hàng lớn hơn ngàn tấn gạo, muối ở Vân Đình, Hà Đông, đưa lên Việt Bắc cho
bộ đội. Là người tháo vát, năng động, có đầu óc kinh doanh, Châu được vào làm ở
Cục Quân Nhu. Sau một thời gian làm tốt việc cung cấp lương thực, trang bị cho bộ
đội, Châu được phong tặng quân hàm Đại tá, làm giám đốc Nha Quân Nhu. Lúc đó,
Cục Quân Nhu chỉ phụ trách việc quản lý, quản trị, còn Nha Quân Nhu mới có
nhiệm vụ trực tiếp sản xuất quân trang, quân dụng. Có địa vị cao, quyền hành rộng,
nắm trong tay hàng trăm triệu đồng, cơ chế kiểm tra, kiểm soát lại lỏng lẻo, không
biết tự kiềm chế, Châu đi dần vào con đường sa ngã. Châu lấy cắp của công quỹ
một số tiền lớn: 57.959 đồng Việt Nam, 149 đôla Mỹ, các tài sản khác trị giá
143.900 đồng Việt Nam. Giá gạo ở Thái Nguyên – Bắc Cạn năm 1950 là 50
đồng/một kg, còn chiến sĩ ta mỗi ngày chỉ được cấp vài lạng gạo và hơn 10 đồng
tiền thức ăn. Ngoài ra, Châu còn nhận hối lộ khá nhiều tiền, chuyên quyền, độc
đoán, sống sa đoạ, đồi trụy. Uỷ ban Tiếp liệu Thu - Đông 49, các kho số 1, 4, 10
thường xuyên nộp cho Châu tiền tiêu, rượu, đồ hộp, hải sản khô, thuốc lá, quần áo,

17


chăn len... Tuyển người, thải người theo sở thích cá nhân, vung tiền bao gái; có lần
dùng ôtô công đưa gái đi chơi ở Bắc Cạn. Châu dan díu với một nữ nhân viên xinh
đẹp, bổ nhiệm làm bí thư văn phòng của Nha, làm việc cùng buồng, ăn ở cùng nhà
với Châu. Các cán bộ điều tra có trong tay cuốn nhật ký của nữ bí thư văn phòng
cùng gần 100 kiểu ảnh lãng mạn chụp với Châu. Giữa lúc nữ bí thư đi dự lớp huấn
luyện thì Châu đưa từ Phú Thọ về cơ quan một cô gái giới thiệu là em nuôi, suốt
ngày ở trong buồng riêng của Châu. Nữ bí thư từ lớp học về bất chợt bắt gặp và đã
xảy ra một cuộc đánh ghen ầm ĩ.
Để đền nợ cho quân đội; để làm gương cho cán bộ và nhân dân; để cảnh tỉnh
những kẻ đang miệt mài nghĩ những phương kế xoay tiền của Chính phủ; để xử tử

vắng mặt những lũ bầy ra mưu nọ kế kia, lừa trên bịp dưới; để trừ hết loài mọt quỹ,
tham ô; để làm bài học cho những ai đang trục lợi kháng chiến, đang cậy quyền, cậy
thế để loè bịp nhân dân. Trần Dụ Châu can tội ăn cắp công quỹ, nhận hối lộ, phá
hoại công cuộc kháng chiến bị xử tử hình; tịch thu ba phần tư tài sản.
Tiếp theo là vụ án của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Trương Việt Hùng. Trong hệ
thống hồ sơ của Bộ Công an hiện vẫn còn đang lưu giữ tập hồ sơ về một vụ trọng án
đã gây xôn xao dư luận vào giữa những năm của thập kỷ 60 (thế kỷ XX). Mặc dù đã
40 năm trôi đi, nhưng đến giờ, nhiều người vẫn còn nhớ đến những chi tiết của vụ
án này. Thủ phạm vụ trọng án ấy chính là Trương Việt Hùng, Thứ trưởng Bộ Nông
nghiệp lúc bấy giờ.
Khoảng 3h sáng ngày 16/8/1964, bà con cô bác và các nhân viên y tế Bệnh viện
tỉnh Quảng Ninh ngậm ngùi thương tiếc tiễn đưa bà Nguyễn Thị Cận, một phụ nữ
nhân hậu, đoan trang vừa từ Hà Nội đến nghỉ mát tại khu điều dưỡng Bãi Cháy, tỉnh
Quảng Ninh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Theo sát quan tài của người đàn bà xấu số ấy, người ta thấy sự hiện diện của ông
Trương Việt Hùng, lúc đó là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và là chồng bà Cận. Việc
bà Cận chết đột ngột quả thật như một dòng điện nhanh chóng lan tỏa và gây bất
ngờ ở khu vực Bãi Cháy, bởi buổi tối hôm trước, nhiều người vẫn còn thấy bà khoẻ
mạnh. Vậy mà bây giờ đã vội vã đi về cõi vĩnh hằng. Qua điều tra, Ban chuyên án
đã kết luận bà Nguyễn Thị Cận bị đầu độc bằng chất độc và cho bắt khẩn cấp

18


Trương Việt Hùng. Trước những bằng chứng không thể chối cãi, Trương Việt Hùng
đã cúi đầu nhận tội giết vợ để lấy Vũ Thị Tuyết Ng. Ông ta còn khai vì muốn lấy
Ng. làm vợ nên ngay từ năm 1960, đã có mưu đồ giết vợ. Năm 1961, y dùng thuốc
chuột bỏ vào thuốc Bắc cho bà Cận uống. Sau khi uống thuốc, bà Cận trúng độc sùi
bọt mép, cấm khẩu, chân tay co quắp phải đưa vào Bệnh viện Bạch Mai cấp cứu
mới thoát chết. Nhưng vụ đầu độc này vẫn chưa bị bại lộ. Trước một đối tượng có

bề dày công tác, lại giữ một trọng trách trong hệ thống cơ quan Nhà nước, thủ đoạn
gây án vừa tinh vi, vừa xảo quyệt với mục đích đánh lừa dư luận và các cơ quan bảo
vệ pháp luật; nhưng bằng trí tuệ và bản lĩnh của mình, dưới sự chỉ đạo sát sao của
Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn, các điều tra viên ngày ấy đã nhanh chóng
làm rõ bản chất vụ án, khởi tố, xét xử. Hồ Chí Minh đã xử tử hình đối với Đại tá
Trần Dụ Châu và Thứ trưởng Bộ nông nghiệp Trương Việt Hùng, nhưng có mấy ai
hiểu được nỗi lòng của Người. Đây là hai nhân vật có chức vụ quan trọng và có
nhiều đóng góp lớn cho nước nhà. Đã cống hiến sức lực và lập được nhiều công
lớn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh luôn trăn trở, boăn khoăn không biết xử trí như thế
nào cho hợp lý. Đến cuối cùng, Hồ Chí Minh vô cùng đau xót và quyết định thà
chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt. Có như vậy mới làm gương cho những cán
bộ, công chức, toàn thể đảng viên và giữ vững kỷ luật kỷ cương. Qua việc xử lý
nghiêm minh các vụ án tham nhũng lớn chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh là người
chí công vô tư và là người đi đầu trong công tác phòng chống tham ô. Quan điểm
Hồ Chí Minh về tham ô và phòng, chống tham ô là một hệ thống các quan điểm
khoa học và sáng tạo. Có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng nước
ta. Thực hiện tốt đấu tranh chống tham ô trong thời đại Hồ Chí Minh, đã góp phần
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với tiến trình
cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, quan điểm và tấm gương của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tham ô vẫn đang tiếp tục được thực
hiện. Những chỉ dẫn của Người luôn có ý nghĩa lịch sử và giá trị thực tiễn sâu sắc.

19


Chương 2
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC
PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 .THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


2.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một phạm trù lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước
và tồn tại song song cùng với sự phát triển của Nhà nước. Lịch sử Nhà nước từ khi
xuất hiện đến nay cho thấy, tham nhũng như một khuyết tật bẩm sinh của “quyền
lực”, là loại tội phạm cực kỳ nguy hiểm bởi tính chất và hậu quả do nó gây ra. Việt
Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới coi tham nhũng là một quốc nạn cần phải
chủ động phòng ngừa và kiên quyết trừng trị bằng nhiều biện pháp mạnh mẽ. Vì vậy,
để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tham nhũng đòi hỏi chúng ta phải hiểu rõ
tham nhũng là gì? Những đặc điểm nhận dạng những hành vi tham nhũng, nguyên
nhân và hậu quả do nó gây ra. Trong đó việc xác định chính xác khái niệm tham
nhũng là vô cùng quan trọng. Vậy tham nhũng là gì? Thuật ngữ tham nhũng xuất
hiện từ bao giờ? Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Thuật ngữ tham nhũng bắt nguồn từ tiếng Latinh Rumpese (động từ) với nghĩa
là bẻ gãy, vi phạm hoặc sai lệch. Trong tiếng Anh, tham nhũng được gọi là
Corruption xuất phát từ động từ Corrupt nghĩa là bị đút lót, bị mua chuộc, đồi bại
[20, tr.20], nhằm chỉ các quan chức Nhà nước đã vi phạm luân thường, đạo lý xã
hội hoặc các luật lệ để tìm kiếm nguồn lợi cho bản thân, gia đình, bạn bè, đảng phái
hay các nhóm người có liên quan. Thuật ngữ tham nhũng theo cách hiểu thông
thường hiện nay là để chỉ những hành vi tiêu cực của những cá nhân, tổ chức có quyền
lực lợi dụng chức quyền chiếm đoạt tài sản, tiền của nhà nước, tổ chức và của công dân
để thỏa mãn lòng tham, tính vụ lợi của cá nhân; là sự kết hợp giữa quyền lực và lòng
ham muốn lợi ích cá nhân do những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định cụ thể tác động
như cơ chế, chính sách, pháp luật, đạo đức. Bên cạnh thuật ngữ tham nhũng là tham ô,
tham ô và tham nhũng có điểm giống nhau là đều xuất phát từ lợi ích các nhân, chỉ

20


nghĩ đến mình mà không nghĩ đến lợi ích người khác. Đều làm hại đến lợi ích chung,
lợi ích của nhà nước, của chính phủ. Tuy nhiên, tham ô có phạm vi hẹp hơn tham

nhũng vì tham ô là một trong những hành vi của tham nhũng.
Xuất phát từ những điều kiện, đặc thù riêng, các quốc gia có sự khác nhau về truyền
thống lịch sử, đặc điểm văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình tham nhũng… nên
quan niệm về tham nhũng có khác nhau. Chẳng hạn:
Ở Áo cho rằng:“tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột” [16, tr.1112]. Từ điển Bách khoa Thụy Sĩ: “tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ
chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước, đó là hành vi phạm pháp
để phục vụ lợi ích cá nhân” [16, tr.11-12].
Luật hình sự Trung Quốc quy định rõ tội phạm tham nhũng và khung hình phạt,
Luật giám sát hành chính coi tham nhũng là hiện tượng hủ bại và chống tham nhũng là
chống hủ bại. Luật chống tham nhũng của Malaysia quy định tham nhũng là việc
“công chức nhận quà biếu có giá trị bất hợp pháp để đánh đổi lấy việc bản thân thực
hiện một hành vi dựa trên quyền lực, chức vụ của mình”, “người có chức quyền nhận
quà biếu bất hợp pháp như một khoản thù lao cho việc người đó lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, thực hiện một hành vi có lợi hoặc có hại cho một người khác [16, tr.11-12].
Cách định nghĩa này có tính tổng hợp và đúc kết được những yếu tố hợp lý, xác
thực; nó khẳng định toàn bộ hành vi tham nhũng của con người xuất phát từ lòng
ham muốn vật chất của chính những người có chức phận hoặc thế lực nằm trong hệ
thống chính trị của mỗi quốc gia; tham nhũng là yếu tố luôn tiềm ẩn ở mọi Nhà
nước, khi có cơ hội hoặc không bị kiểm soát là có thể nảy sinh và phát triển.
Ở Việt Nam, câu thành ngữ “quan” tham, “lại” nhũng đã khái quát nhận thức của
nhân dân ta về tham nhũng trong các triều đại phong kiến trước đây (quan thì tham
lam, lại thì nhũng nhiễu… vơ vét của công, sách nhiễu lấy của dân về làm của riêng).
Trong quá trình triển khai thực hiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay,
chúng ta đã ngày càng nhận diện đầy đủ hơn về tham nhũng trên cơ sở khoa học và
thực tiễn. Theo từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học thì “tham nhũng là lợi
dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân và lấy của [21, tr.878].

21



Còn theo Luật phòng, chống tham nhũng vừa được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2005 tại Điều 1 khoản 2 thì: tham nhũng là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Theo Từ điển pháp luật hình sự, tham nhũng là “hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập
thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức” [10, tr.226].
Như vậy là hiện nay, đang tồn tại nhiều cách hiểu, cách xác định khác nhau về
khái niệm tham nhũng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu ta thấy rằng hầu hết các ý kiến
đều thống nhất ở một điểm là: tham nhũng chỉ do những người có chức vụ, quyền
hạn thực hiện với điều kiện là họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi.
Những người có thể tham nhũng chủ yếu là cán bộ, công chức nhà nước, nhưng
cũng có thể là cán bộ, nhân viên của các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế… có
chức vụ, quyền hạn. Những lợi ích mà họ có được từ tham nhũng chủ yếu là lợi ích
vật chất, nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần, lợi ích chính trị hoặc các loại lợi ích
khác mà họ mong muốn đạt được.
Trên cơ sở tìm hiểu và kế thừa các quan niệm về tham nhũng của nhiều nước
trên thế giới cũng như của một số học giả trong và ngoài nước, chúng ta có thể thấy
rằng quan niệm phổ biến nhất hiện nay coi tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, nhận hối lộ hoặc
cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi. Hành vi tham nhũng thường được biểu
hiện bằng việc các công chức nhà nước cố ý làm trái các quy định pháp luật trong
chấp hành chức trách, công vụ được giao hoặc không thực hiện chức trách, công vụ
được giao. Những biểu hiện tập trung và điển hình nhất là ở hành vi tham ô và nhận
hối lộ. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì hành vi tham nhũng không những chỉ xảy ra ở
khu vực nhà nước mà còn xảy ra trong khu vực tư nhân. Tuy nhiên trong khuôn khổ
đề tài nghiên cứu này chúng ta chỉ xem xét tham nhũng trong khu vực công - khu
vực Nhà nước.

22



2.1.2. Những biểu hiện của tham nhũng ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, tệ nạn tham nhũng đang diễn ra
ngày càng phức tạp với những hình thức, thủ đoạn tinh vi. Chúng tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau có những dạng mà khi nhìn hiện tượng bề ngoài thì đó là một hoạt
động bình thường có khi còn có người cho rằng đó là tốt nhưng thực chất bên trong
đó là tham nhũng. Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng hiện nay ở Việt Nam ta tham
nhũng đang tồn tại dưới một số dạng phổ biến cụ thể như sau: [4, tr.23-24].
2.1.2.1. Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng
Trục lợi từ các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Đây là dạng tham nhũng liên quan
đến cán bộ lãnh đạo các ban ngành, địa phương lợi dụng chức quyền để xét duyệt các
dự án, đề án cho các chủ đầu tư. Dạng tham nhũng này thường có quy mô lớn và diễn
ra phổ biến làm thất thoát lớn tài sản của quốc gia như các vụ án Mường Tè, Nguyễn
Đức Chi và mới đây là vụ PMU18…
Thực tế cho thấy, tỷ lệ thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn,
trung bình từ 10-20%, cá biệt có công trình lên tới trên 30%. Nhiều công
trình xây dựng chất lượng kém, thậm chí chưa nghiệm thu đã hư hỏng, chưa
đưa vào sử dụng hoặc ngay sau khi sử dụng đã xuống cấp như Nhà hát chèo
Hà Nội, đường cầu dẫn Hoàng Long (Thanh Hoá), cầu Rào (Hải Phòng),
hầm chui Văn Thánh. Những thủ đoạn tham nhũng phổ biến trong khâu kết
thúc công trình xây dựng là: khai tăng giá trị, khối lượng, chủng loại nguyên
vật liệu, giá trị san lấp, thi công; thực hiện chi phí cho ban quản lý, chi phí tư
vấn vượt tỷ lệ, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng sai quy định; sử dụng vốn
sai mục đích [18, tr.71-75].
2.1.2.2. Trong lĩnh vực quản lý đất đai
Mua bán phi pháp thông tin, bí mật quốc gia để trục lợi. Những thông tin, bí mật
quốc gia thường bị mua bán để trục lợi thường là các thông tin về chính sách kinh tế
của Đảng và Nhà nước, thông tin về quy hoạch đất đai cho các khu công nghiệp, khu
đô thị mới, cầu đường giao thông sẽ xây dựng…


23


Chia chác đất đai, công thổ cho mình và những người thân đứng tên. Đây cũng là
một dạng tham nhũng có quy mô lớn và phổ biến, liên quan đến nhiều cán bộ lãnh
đạo, cán bộ địa chính ở các địa phương, dẫn tới tình trạng đất công đang bị tư nhân
hóa rất nhanh ở nước ta. Thời gian qua chúng ta đã phát hiện và xử lý nhiều vụ như
vụ ở thị xã Đồ Sơn (Hải Phòng), vụ đất đai ở Phú Quốc (Kiên Giang)…
2.1.2.3. Trong các doanh nghiệp
Tham nhũng trong doanh nghiệp nhà nước, ở nước ta doanh nghiệp nhà nước
chiếm tỷ trọng lớn, nắm giữ một tài sản rất lớn, sử dụng một số lượng lớn lao động
ưu tú được đào tạo, sử dụng phần lớn tài nguyên của đất nước, song hiệu quả kinh
tế rất thấp. Thực tế hiện nay, nếu một người nào đó trong bộ máy quản lý doanh
nghiệp nhà nước có ô dù đủ mạnh thì người đó có thể lạm dụng, tham nhũng ở mức
độ nhất định mà nguy cơ bị xử lý tương đối thấp. Sự can thiệp ngoài luật pháp và
trên luật pháp là nguồn gốc của tình trạng các thể chế giám sát bị vô hiệu hoá, các
tiêu cực có thể diễn ra kéo dài mà không bị phát hiện hoặc xử lý. Không ít trường
hợp đã hạ cánh an toàn. Có thể nhận định: tỷ lệ các vụ tham nhũng trong doanh
nghiệp nhà nước bị phát hiện còn thấp và tâm lý cho rằng, trong tình trạng tranh tối
tranh sáng hiện nay, không ai tranh thủ thì là người dại [18, tr.59-60].
Tham nhũng trong doanh nghiệp nhà nước độc quyền, độc quyền cũng là một
trong những nguyên nhân của nạn tham nhũng. Ở Việt Nam hiện nay, chi phí đầu tư
và vận hành các dịch vụ độc quyền đều cao khác thường so với mức trung bình
trong khu vực, ttrong khi chất lượng dịch vụ đều thấp hơn: từ điện, điện thoại cố
định, Internet đến dịch vụ cảng, chất lượng điện. Báo cáo Kiểm toán nhà nước năm
2006 được công bố công khai cho thấy sai phạm có tính hệ thống, kéo dài nghiêm
trọng ở tất cả các Tổng công ty nhà nước về hạch toán, chi tiêu, lập quỹ trái phép,
các vụ tham nhũng lớn đã được phát hiện ở các ngành dầu khí, hàng không, viễn
thông, giao thông. Nhờ vị thế độc quyền trên những vị trí chỉ huy hay chiến lược
của nền kinh tế nên các tập đoàn độc quyền có quyền lực rất lớn về kinh tế. Không

những thu nhập chính thức của họ rất cao, các chế độ khác như đi nước ngoài, hội
nghị cũng cao hơn mức bình thường mà những sai phạm nghiêm trọng trong đầu tư
rất ít bị phát hiện và khi bị phát hiện thì vẫn hạ cánh an toàn [18, tr.60].

24


Cấu kết giữa doanh nghiệp tư nhân và một số quan chức hoặc chính quyền, ở
Việt Nam, nhiều doanh nghiệp tư nhân sống và phát triển dựa vào các mối quan hệ
với chính quyền, sẵn sàng chi tiền đút lót để đạt được phi vụ khinh doanh. Trong
không ít trường hợp, doanh nghiệp tư nhân đã hối lộ để có đất, có giấy phép để hoạt
động khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên, thoả thuận với cơ quan thuế, hản
quan, nhận bảo kê cho các hoạt động nhạy cảm. Các doanh nghiệp tư nhân vừa là
các nạn nhân vừa là tòng phạm hoặc thủ phạm trong hoạt động hối lộ. Một mặt học
tố cáo về nhũng nhiễu, tham nhũng và đóng góp tích cực vào chống tham nhũng khi
có cơ hội an toàn; mặt khác, vì miếng cơm manh áo hay vì lợi nhuận, họ khuất
phục, hợp tác, thậm chí chủ động hối lộ chính quyền hoặc quan chức để được nhận
lợi nhuận lớn [18, tr.67-68].
2.1.2.4. Trong quản lý sử dụng ngân sách nhà nước
Lợi dụng chức quyền để ký bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay tiền nhà nước, số
tiền vay bị chi sai mục đích dẫn đến thất thoát tài sản của nhà nước, vụ án Lã Thị
Kim Oanh là một điển hình. Nâng, gửi giá, ăn phần trăm trong các dự án mua thiết
bị máy móc. Dạng tham nhũng này phổ biến trong những dự án nhập khẩu thiết bị,
máy móc cho các doanh nghiệp nhà nước, các dự án mua thiết bị cho các cơ sở
nghiên cứu, giảng dạy, các dự án tin học hóa từ trung ương đến địa phương. Trục
lợi trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhiều tài sản nhà nước đã và
đang bị hóa phép trước khi cổ phần hóa, nhiều công ty, xí nghiệp nhà nước được
đánh giá tài sản chỉ bằng 1/5 hay 1/10 giá trị thực tế. Sau khi cổ phần hóa, cổ phiếu
được chuyển nhượng với giá gấp nhiều lần giá gốc. Đây là con đường hợp thức hóa
tài sản nhà nước thành tài sản tư nhân. Tham nhũng bằng cơ chế. Dùng cơ chế lãnh

đạo thông qua những quy định không công bằng để thanh lý và hợp pháp hóa tài sản
công cho một nhóm người có chức có quyền được hưởng lợi. Điển hình là việc
thanh lý các biệt thự, villa của Nhà nước cho một số cá nhân có chức, có quyền.
Đây là dạng tham nhũng kép vì người tham nhũng không những được chia tài sản
lớn giá trị hàng tỷ đồng chỉ với giá tượng trưng mà lại không phải nộp bất kỳ khoản
thuế thu nhập nào đối với những tài sản này.

25


×