Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

TÌM HIỂU về PHÁT TRIỂN KINH tế kết hợp với xóa đói, GIẢM NGHÈO ở NÔNG THÔN TỈNH bạc LIÊU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.94 KB, 77 trang )

GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

TÌM HIỂU VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ KẾT
HỢP VỚI XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở NÔNG
THÔN TỈNH BẠC LIÊU

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS. GVC: Trần Thanh Quang

Phan Thanh Hưng
MSSV:6086457
LỚP SPGDCD K34-02

CẦN THƠ 12/2011

1


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang



SVTH: Phan Thanh Hưng

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................1

1. Lí do chọn đề tài................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................3
5. Kết cấu luận văn................................................................................................3
NỘI DUNG...........................................................................................................4
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ KẾT HỢP VỚI
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở NÔNG THÔN....................................................4
1.1. Lý luận về phát triển kinh tế và phát triển kinh tế nông thôn..........................4
1.1.1. Khái niệm về phát triển kinh tế, kinh tế nông thôn và phát triển kinh
tế nông thôn...........................................................................................................4
1.1.2. Đặc điểm, vai trò của phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta........13
1.2. Khái niệm và tiêu chí xác định đói nghèo ở nông thôn hiện nay.....................17
1.2.1. Khái niệm về đói nghèo ở nông thôn............................................17
1.2.2.Tiêu chí xác định đói nghèo ở nông thôn.......................................22
1.2.3.Tình trạng đói nghèo ở nông thôn hiện nay....................................24
1.3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói, giảm nghèo ở
nông thôn...............................................................................................................25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ KẾT HỢP VỚI XÓA
ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở NÔNG THÔN TỈNH BẠC LIÊU..............................29
2.1. Những đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của nông thôn tỉnh Bạc Liêu.....29
2.1.1. Những đặc điểm tự nhiên của nông thôn tỉnh Bạc Liêu................29
2



GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

2.1.2.Những đặc điểm về kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh Bạc Liêu.....31
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn tỉnh
Bạc Liêu.................................................................................................................33
2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế ở nông thôn Bạc Liêu......................33
2.2.2. Thực trạng đói nghèo và xóa đói giảm, nghèo ở nông thôn tỉnh Bạc
Liêu........................................................................................................................36
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
KẾT HỢP VỚI XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở NÔNG THÔN TỈNH BẠC
LIÊU
...............................................................................................................................45
3.1. Phương hướng, mục tiêu.................................................................................45
3.1.1. Phương hướng...............................................................................45
3.1.2. Mục tiêu........................................................................................46
3.2. Các giải pháp cơ bản kết hợp phát triển kinh tế với xóa đói, giảm nghèo ở nông
thôn tỉnh Bạc Liêu..................................................................................................49
3.2.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh
Bạc Liêu ................................................................................................................49
3.2.2. Gắn việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội trọng tâm của tỉnh
với xoá đói, giảm nghèo nhằm nâng cao đời sống của người dân..............................51
3.2.3. Huy động các nguồn nội lực và ngoại lực, phát huy vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước trong việc kết hợp phát triển kinh tế với xóa đói giảm nghèo
...............................................................................................................................55
3.2.4. Xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp với yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất để thực hiện phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói, giảm nghèo

bền vững ở nông thôn............................................................................................59
KẾT LUẬN..........................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sau khi nước ta hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, thì một trong
những nhiệm vụ hàng đầu là tái thiết đất nước, xây dựng nền kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, đây là công việc không dễ dàng và cũng là nhiệm vụ lâu dài. Trong quá trình
phát triển kinh tế hiện nay, nước ta phải đối mặt với không ít những khó khăn, thử
thách một trong số đó là tình trạng nghèo đói của một bộ phận nhân dân, nhất là ở
các vùng nông thôn.
Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội thì đói, nghèo vẫn đang là vấn đề
kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được
Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp
phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, nhiệm kỳ (2001-2005) đã khẳng định: “Việc tăng trưởng kinh tế phải đi
đôi với xoá đói, giảm nghèo ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, nhiệm kỳ
(2006-2010) tiếp tục nhấn mạnh:
Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều
kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn

lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết hợp chính sách Nhà
nước với sự giúp đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá
giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn. Ngăn
chặn tình trạng tái nghèo…
Tuy nhiên công cuộc phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo ở nước ta hiện
nay phải đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn, đó là do hậu quả của chiến
tranh nên xuất phát điểm của Việt Nam thuộc diện nước nghèo; thu nhập và mức
chi dùng bình quân đầu người thấp. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa thành
thị và nông thôn, giữa các vùng và các nhóm dân cư có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ
người nghèo là người dân tộc thiểu số còn cao, nguy cơ tái nghèo có thể gia tăng do
nhiều nguyên nhân như: thiên tai, dịch bệnh, biến động giá cả, tác động của hội

4


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

nhập,… Cơ hội tìm việc làm của người nghèo cũng sẽ ít hơn. Tỷ lệ hộ dân tái nghèo
ở nước ta còn lớn, xoá đói, giảm nghèo thiếu tính bền vững.
Bạc Liêu là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay vẫn là một tỉnh
nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Đặc biệt là
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân Bạc Liêu rất quan tâm đến phát
triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện nhiều chính sách và các dự án xoá đói,
giảm nghèo mang lại hiệu quả thiết thực, với sự nỗ lực của các ngành, các cấp và
bản thân của các hộ nghèo đã phấn đấu góp phần hạ thấp tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh.
Mặt khác Bạc Liêu là một tỉnh trình độ dân trí còn hạn chế, kết cấu hạ tầng còn

thấp, kinh tế phát triển chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập bình quân đầu
người còn thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo của tỉnh còn cao, theo tiêu chí mới, đến cuối năm
2010 còn 18,64% tổng số hộ toàn tỉnh, trong đó tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc
khmer còn rất cao. Theo số liệu điều tra hộ nghèo ở nông thôn chiếm tới 22,03%. Do
vậy, vấn đề đặt ra cho tỉnh Bạc Liêu trong việc kết hợp phát triển kinh tế với xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của cả nước
mà còn có vai trò thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, vươn lên tránh tụt hậu
so với các tỉnh trong khu vực, đồng thời đáp ứng yêu cầu trong tiến trình hội nhập và
phát triển. Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ có cơ sở lý
luận và thực tiễn vấn đề kết hợp phát triển kinh tế với xoá đói, giảm nghèo, trước hết
là ở nông thôn để đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tiễn của địa phương Bạc Liêu
là yêu cầu cấp thiết, cho nên tác giả đã chọn đề tài “ Tìm hiểu về phát triển kinh tế
kết hợp với xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn tỉnh Bạc Liêu” để làm luận văn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích: Tìm hiểu về thực trạng phát triển kinh tế, thực trạng đói nghèo, giải
pháp để phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói giảm nghèo ở nông thôn tỉnh Bạc
Liêu.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ cơ sở lí luận về phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói, giảm nghèo
ở nông thôn.
5


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

+ Tìm hiểu về thực trạng phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói, giảm nghèo ở
nông thôn ở tỉnh Bạc Liêu.
+ Xác định mục tiêu, phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh kết hợp

phát triển kinh tế với xóa đói giảm nghèo ở nông thôn tỉnh Bạc Liêu.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu về việc phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói giảm nghèo ở nông
thôn tỉnh Bạc Liêu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Sự phát triển kinh tế nông thôn, thực trạng nghèo đói ở nông thôn Bạc Liêu
từ năm 2000 tới nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu mà tôi chủ yếu sử dụng trong đề tài này là dựa vào
việc sưu tầm tài liệu có liên quan đến việc phát triển kinh tế, thực trạng đói nghèo
của nông thôn Bạc Liêu, trên cơ sở đọc tham khảo, sau đó dùng một số phương
pháp như chứng minh, so sánh, tổng hợp, phân tích,...Bên cạnh đó tham khảo thêm
một số Website.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liêu tham khảo, nội dung luận
văn của tôi gồm có 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói giảm
nghèo ở nông thôn.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn tỉnh Bạc Liêu.
Chương 3: Phương hướng và giải phát phát triển kinh tế kết hợp với xóa đói
giảm nghèo ở nông thôn tỉnh Bạc Liêu.

6


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ KẾT HỢP
VỚI XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở NÔNG THÔN
1.1. Lý luận về phát triển kinh tế và phát triển kinh tế nông thôn
1.1.1. Khái niệm về phát triển kinh tế, kinh tế nông thôn và phát
triển kinh tế nông thôn.
1.1.1.1. Khái niệm về phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là một khái niệm có liên quan đến tăng trưởng kinh tế. Vì
vậy muốn hiểu rõ về khái niệm phát triển kinh tế trước hết phải tìm hiểu về tăng
trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm mang tính định lượng, được biểu hiện
bằng một trong hai cách:
Cách 1: Sự tăng thực tế của tổng sản phẩm quốc dân GDP, hay sản phẩm
quốc dân ròng NNP trong một thời kỳ nhất định.
Cách 2: Sự tăng thực tế theo đầu người của GNP; GDP hay GNP trong một
thời kỳ nhất định.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Phát
triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng
kinh tế cùng với những thay đổi về chất đối với nền kinh tế (như phúc lợi xã hội,
tuổi thọ,...) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng khu vực sơ khai tăng
tỷ trọng khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện
mọi mặt nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời
gian nhất định, nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc
hơn.[1]
1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế nông thôn và phát triển kinh tế
nông thôn
Để hiểu rõ hơn về kinh tế nông thôn thì trước hết chúng ta cần biết nông
thôn là gì?. Cho đến nay có thể nói chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn
được chấp nhận một cách rộng rãi.


7


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

Khi bàn về định nghĩa nông thôn, người ta thường so sánh nông thôn với
thành thị. Có ý kiến cho rằng, khi xem xét nông thôn dùng chỉ tiêu mật độ dân số,
số lượng dân cư. Thông thường nông thôn có mật độ dân số, số lượng dân cư thấp
hơn thành thị. Song chỉ tiêu này khác nhau giữa các nước và ngay trong một nước,
giữa các vùng nông thôn cũng không giống nhau. Theo ngân hàng thế giới (2008)
thì: vùng nông thôn có thể được định nghĩa bởi quy mô định cư, mật độ dân số,
khoảng cách đến những vùng thành thị, phân chia hành chính và tầm quan trọng của
công nghiệp.
Theo tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), đã đưa ra hai phương pháp
chính đễ định nghĩa nông thôn.
Thứ nhất, là sử dụng định nghĩa chính trị. Trước hết thành thị được xác định
bởi luật là tất những trung tâm của tỉnh, huyện và các vùng còn lại được định nghĩa
là nông thôn.
Thứ hai, là sử dụng mức độ tập trung dân số thành cụm quan sát được để xác
định vùng thành thị. Trong một vùng có các gia đình sống gần nhau tạo nên cộng
đồng lớn hơn một số nhất định nào đó, ví dụ 2.000 người, thì được gọi là thành thị
và khu vực còn lại được định nghĩa là nông thôn. Phương pháp này có sức thuyết
phục hơn bởi nó đưa ra một phương pháp xá định rõ ràng. Tuy nhiên giới hạn này
rất khác nhau ở từng quốc gia.[14]
Cũng có ý kiến cho rằng dùng chỉ tiêu phát triển sản xuất hàng hóa, tiếp cận
thị trường để phân biệt vùng nông thôn với đô thị. Điều này cũng chưa thật sự thỏa
đáng vì còn phụ thuộc vào cơ chế kinh tế của mỗi quốc gia. Có quan điểm cho rằng,

nông thôn là vùng ở đây nông nghiệp là chủ yếu. Quan điểm này đúng nhưng chưa
đầy đủ vì còn phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của vùng.
Chúng ta thấy rằng, nếu dùng từng chỉ tiêu riêng lẽ để so sánh nông thôn với
thành thị thì cũng có thể biểu hiện từng mặt của nông thôn nhưng chưa thể bao trùm
được khái niệm nông thôn một cách đầy đủ. Vì nông thôn bao gồm tổng hợp nhiều
mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau mà từng chỉ tiêu riêng lẻ không thể hiện lên được.
Từ đó khái niệm nông thôn có thể hiểu như sau: “Nông thôn là vùng khác với đô thị
ở chỗ, đó là nơi sống và làm việc của đại bộ phận nông dân, có mật độ dân cư thấp,

8


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

có cơ cấu hạ tầng kém phát triển hơn, có trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất
hàng hóa thấp hơn”.[11]
Từ những khái niệm cơ bản về nông thôn chúng ta có khái niệm bao quát về
kinh tế nông thôn như sau: “Kinh tế nông thôn là phức hợp những nhân tố cấu
thành các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất trong nông –
lâm – ngư nghiệp, cùng với các nghành thủ công nghiệp truyền thống, các nghành
tiểu thủ - công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành
thương nghiệp và dịch vụ,… tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng
và lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân”.[7]
Nội dung kinh tế nông thôn rộng hơn kinh tế nông nghiệp. Hiện nay, kinh tế
nông thôn còn dựa chủ yếu trên cơ sở nông nghiệp để phát triển nhưng là một sự
phát triển tổng hợp, đa nghành nghề, với những biến đổi trong phân công lao động
xã hội ngay tại khu vực nông thôn.
Kinh tế nông thôn trước hết có nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp đảm

bảo những nhu cầu lương thực cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,
sản xuất ra hàng hóa cho thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, kinh tế nông
thôn nhất thiết phải có công nghiệp gắn với nông - lâm - ngư nghiệp, trước hết là
công nghiệp chế biến. Cùng với sự phát triển của kinh tế nông thôn, công nghiệp ở
nông thôn không chỉ dừng ở công nghiệp chế biến mà còn cả những nghành công
nghiệp phục vụ đầu vào cho nông nghiệp như: công nghiệp cơ khí sửa chữa máy
móc nông nghiệp, thủy lợi,… Công nghiệp ở nông thôn bao gồm một bộ phận tiểu
thủ công nghiệp với các trình độ công nghệ khác nhau, sản xuất các hàng hóa không
có nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Như
vậy, công nghiệp nông thôn làm cho nông nghiệp và công nghiệp kết hợp ngay tại
chỗ thành cơ cấu nghành nghề.
Kinh tế nông thôn, ngoài các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp
còn có các loại hình dịch vụ: thương nghiệp, du lịch sinh thái, tín dụng, khoa học và
công nghệ, tư vấn… Các loại hình dịch vụ này cùng với các cơ sở hạ tầng ở nông
thôn (điện – đường – trường – trạm…) sẽ là những bộ phận hợp thành kinh tế nông
thôn, với sự phát triển mạnh mẽ và hợp lý của chúng là biểu hiện của trình độ phát
triển kinh tế nông thôn.
9


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

Kinh tế nông thôn là cơ sở kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế quốc dân có
bao nhiêu thành phần kinh tế thì kinh tế nông thôn cũng có bấy nhiêu. Tuy nhiên,
các thành phần kinh tế đó trong kinh tế nông thôn sẽ có những hình thức cụ thể biểu
hiện những đặc điểm riêng biệt của kinh tế nông thôn:
Trước hết, kinh tế nông thôn nhất thiết phải có thành phần kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước nói chung và nông thôn nói riêng đóng vai trò chủ đạo trong kinh

tế nông thôn. Bộ phận tiêu biểu cho kinh tế nhà nước trong nông thôn là các nông
trường quốc doanh và các trạm, trại kỹ thuật nông – lâm – ngư nghiệp, cơ sở hạ
tầng nông thôn… Nhiều cơ sở kinh tế nhà nước trong kinh tế nông thôn chỉ là một
bộ phận đại diện của kinh tế nhà nước chung như: chi nhánh ngân hàng, cửa hàng
thương nghiệp, trạm kỹ thuật… nhưng lại gắn bó hữu cơ với kinh tế nông thôn từng
vùng như là bộ phận cấu thành bên trong của nó.
Kinh tế hộ gia đình không tham gia hợp tác xã thuộc thành phần kinh tế cá
thể hoặc tiểu chủ. Kinh tế hộ gia đình là những tế bào từng bước chuyển sang cơ
cấu kinh tế hợp tác xã. Trong kinh tế nông thôn còn mở rộng ra các nghành kinh tế
ngoài nông nghiệp như: kinh doanh thương nghiệp, công nghiệp, dịch vụ…
Kinh tế hợp tác sẽ trở nên đa dạng hơn, không những trong nông nghiệp
(nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả: nông – lâm – ngư) mà cả trong công
nghiệp, thương nghiệp, tín dụng… các hình thức kinh tế hợp tác sẽ phát triển từ
thấp đến cao, hoàn chỉnh nhất là các hợp tác xã kiểu mới, tiến lên liên hiệp các hợp
tác xã kinh doanh nhiều ngành nghề. Kinh tế hợp tác xã là con đường để nông dân
và cư dân nông thôn đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và cùng với kinh tế
nhà nước trong nông thôn hợp thành nền tảng của kinh tế nông thôn theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nông thôn tất yếu cũng có thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành
phần kinh tế tư bản nhà nước. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
đòi hỏi kinh tế tư bản tư nhân ở nông thôn phải đi vào kinh tế tư bản tư nhân nhà
nước dưới những hình thức đa dạng từ thấp đến cao. Cần nhận thức rõ rằng, trong
điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường, nền kinh tế nhà nước và vai trò quản lý
Nhà nước suy yếu, buông lỏng thì ít hay nhiều đều dẩn đến sự phân hóa giàu nghèo,
xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa phát triển. Trong công nghiệp, thương nghiệp
10


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang


SVTH: Phan Thanh Hưng

dịch vụ… của kinh tế nông thôn, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ có
điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn.
Về trình độ công nghệ, kinh tế nông thôn là sự kết hợp nhiều trình độ công
nghệ khác nhau từ công nghệ truyền thống đến công nghệ nữa hiện đại và công
nghệ hiện đại.
Cùng với sự phát triển của kinh tế nông thôn, cơ cấu xã hội giai cấp - nông
thôn cũng biến đổi. Qúa trình phát triển kinh tế nông thôn là quá trình phát triển của
sự biến đổi phân công lao động xã hội ở nông thôn, chuyển đổi và đa dạng hóa
nghành nghề sản xuất và dịch vụ. Đó cũng là quá trình đô thị hóa quy mô nhỏ diễn
ra ngay tại nông thôn, làm cho sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn dần thu hẹp
lại theo một phương thức rất thực tế và phù hợp xu hướng hiện đại trong tổ chức đời
sống của các cộng đồng dân cư ở các nước hiện nay.
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nông thôn, sự phân hóa biến đổi của cơ
cấu giai cấp xã hội trong nông thôn là tất yếu. Nông thôn không chỉ còn là nơi sinh
sống của nông dân chuyên làm nông nghiệp mà trở thành địa bàn sinh sống của cư
dân nhiều ngành, nghề. Lúc đầu tỷ trọng lớn nhất của cư dân nông thôn vẫn là dân
cư làm nông nghiệp nhưng càng về sau tỷ trọng này càng được thu hẹp lại một cách
tương đối. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng vùng, từng làng, từng gia đình, thậm
chí từng con người. Điều đó sẽ dẫn đến sự thay đổi quan trọng trong đời sống văn
hóa xã hội vùng nông thôn.
Phát triển kinh tế nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn. Cơ cấu kinh tế nông thôn là quan hệ tỉ lệ giữa các
ngành, các lĩnh vực kinh tế, có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau, làm tiền đề cho nhau phát triển. Cơ cấu kinh tế đó được thể hiện cả về mặt
chất và về mặt lượng. Cơ cấu kinh tế nông thôn có vai trò to lớn, ảnh hưởng chi
phối tới đời sống vật chất tinh thần ở nông thôn.
Cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lí sẽ quyết định tốt việc khai thác và sử dụng
có hiệu quả tối ưu tài nguyên đất đai, vốn sức lao động và cả cơ sở vật chất kỷ thuật

hiện có; quyết định tốc độ phát triển kinh tế hàng hóa ở nông thôn, chuyển mạnh
kinh tế nông thôn sang kinh tế hàng hóa; quyết định khả năng xã hội hóa sản xuất

11


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

và lao động, chuyển người nông dân thuần nông sang người nông dân của cơ cấu
kinh tế mới.
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo phương hướng trên, cần phải:
Phát triển một nền nông nghiệp sinh thái, nền nông – lâm – ngư nghiệp hàng
hóa có năng suất và chất lượng cao, thể hiện:
Phát triển có hiệu quả sản xuất lương thục bằng thâm canh tăng năng suất lao
động, áp dụng thành tựu khoa học và công nghệ, thực hiện thủy lợi hóa, điện khí
hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa... Xây dựng một nền nông nghiệp lớn hiện đại, kết
hợp một cách hợp lí yêu cầu về những vùng chuyên canh tập trung bảo đảm nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến với yêu cầu một nền nông nghiệp hữu cơ, sạch, trên
cơ sở phát triển mô hình VAC truyền thống.
Phát triển các vùng chuyên canh, đa dạng hóa sự kết hợp giữa nông – lâm –
ngư nghiệp, tận dụng hiệu quả đất đai, khí hậu, sức lao động và vốn của nông dân,
ngư dân và lâm dân; làm cho đất đai sông nước, núi rừng đều có chủ và được khai
thác hợp lí nhất, đem lại hiệu quả cao về sản xuất và đời sống.
Phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa có sức cạnh tranh cao, vươn ra thị
trường nước ngoài. Sản xuất hàng hóa sẽ làm tăng thêm chất lượng sản phẩm, ứng
dụng được công nghệ sinh học, và do đó, tận thu được giá trị nông sản tăng thu
nhập cho nông dân.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đòi hỏi phải gắn liền với sự phát triển

toàn diện kinh tế – văn hóa – xã hội.
Tăng dần tỷ trọng ngành nghề và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Để phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn cần phải
đẩy mạnh sự phân công lao động xã hội trong nông thôn, phát triển mạnh mẽ các
ngành nghề truyền thống, xây dựng những cơ sở công nghiệp nông thôn.
Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp nói chung, với nhiều
trình độ công nghệ khác nhau, gắn chặt với sự phát triển của nông nghiệp và việc
phân công lao động xã hội mới ở nông thôn, chuyển tại chổ một bộ phận lao động
nông nghiệp sang lao động công nghiệp.
Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề thứ ba trong nông thôn – các dịch vụ –
để đáp ứng các nhu cầu phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của dịch vụ
12


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

chính là quá trình hoàn thiện sự phân công lao động xã hội, là quá trình phát triển
của kinh tế hàng hóa. Phát triển dịch vụ còn nâng cao mức sống của nhân dân và
yêu cầu mở cửa với bên ngoài, đồng thời còn là biện phát tạo ra việc làm ở nông
thôn.
Để phát triển dịch vụ, cần có các chính sách thỏa đáng để khuyến khích các
ngành nghề phát triển hợp lí.
Trong kinh tế nông thôn có hiện diện của các thành phần kinh tế: Nhà nước,
hợp tác, tư bản nhà nước, tiểu chủ, cá thể, tư bản tư nhân.
Để phát triển một nền kinh tế hàng hóa với tính cách là công cụ xây dựng
CNXH ở nông thôn, các thành phần kinh tế phải vận động theo hướng chung. Đó là:
kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác giữ vai trò chủ đạo và dần trở thành nền tảng
trong kinh tế nông thôn, kinh tế tư hữu nhỏ phát triển theo hướng hợp tác hóa, kinh

tế tư bản tư nhân trong nông thôn phát triển theo hướng trở thành hình thức kinh tế
tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế nông thôn. Trong cơ chế cũ, bộ phận kinh tế nông nghiệp thuộc doanh
nghiệp nhà nước đã hoạt động mang tính bao cấp, quy mô không phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội hiện thời, ít chú ý đến kinh doanh theo hiệu quả tổng hợp, tách
rời các thành phần kinh tế khác. Do đó, tác dụng của bộ phận kinh tế này rất hạn
chế, không tương ứng với đầu tư của Nhà nước.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, một số doanh nghiệp nông
nghiệp nhà nước đã phát triển khá, làm ăn có hiệu quả. Xu hướng doanh nghiệp này
chuyển sang sản xuất và kinh doanh tổng hợp, mở rộng ra phạm vi toàn địa bàn và
toàn ngành nghề. Tuy nhiên, nhìn toàn cục trong ngót 500 nông trường quốc doanh
thì hiện tượng làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài vẫn không còn nhỏ. Nhiều vấn
đè nan giải như việc làm, giáo dục… Vai trò chủ đạo của nông trường quốc doanh
trong kinh tế nông thôn vẫn còn mờ nhạt, tác động còn yếu đối với nông nghiệp và
kinh tế nông thôn nuớc ta.
Mặc dù có nhiều hạn chế, nhưng cần phải khẳng định vai trò to lớn của
doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay.
Trong khi thưc hiện sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế, cần
13


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

nhấn mạnh vai trò chủ đạo định hướng kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước. Trong
thực tế, đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, năng động, sáng tạo, thích
ứng nhanh với cơ chế thị trường, đã gợi ý những giải pháp cho phát triển kinh tế
quốc doanh trong nông nghiệp những năm trước mắt như:

Tăng cường tính đọc lập tự chủ của các đơn vị quốc doanh nông nghiệp,
giảm dần và đi đến xóa bỏ ngân sách nhà nước đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa nhà
nước với các đơn vị kinh tế quốc doanh nông nghiệp là quan hệ giữa chủ sở hữu với
chủ thể quản lí doanh nghiệp. Nhà nước đóng vai trò kiểm tra, kiểm soát, còn các
doanh nghiệp có nghĩa vụ làm đúng hợp đồng đã kí. Mọi doanh nghiệp quốc doanh
phải tuân theo pháp luật hiện hành.
Quan tâm đến lợi ích kinh tế của mọi người lao động trên cơ sở họ được làm
chủ thực sự quyền sở hữu, sử dụng tư liệu sản xuấ trong phạm vi hợp pháp của
mình. Giải quyết tốt các quan hệ ruộng đất như luật định, giao quyền sử dụng đất
cho các nông trường viên, thừa nhận quyền sở hữu các tư liệu sản xuất khác.
Xác định quyền tự chủ kinh doanh cho các nông trường viên, các doanh
nghiệp chủ yếu làm các dịch vụ đầu vào đầu ra giúp các hộ sản xuất tự chủ sản xuất,
kinh doanh. Quan hệ giữa hộ doanh nghiệp và gia đình là quan hệ tương tác, tạo
điều kiện tồn tại cho nhau trên cơ sở lợi ích kinh tế của mỗi bên được đảm bảo thỏa
đáng.
Trong kinh tế nông thôn, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã là
nhunữg tổ chức kinh tế hợp tác của những người liên kết tự nguyện góp vốn, góp
sức để sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các nghành ngề khác được sự hướng
dẫn, hỗ trợ của nhà nước. Hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ
bình đẳng cùng có lợi, có tư cách pháp nhân. Hợp tác xã là con đường tất yếu để
đưa nông dân và cư dân nông thôn dần lên CNXH. Kinh tế hợp tác phải trở thành
thành phần kinh tế có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế nông thôn. Đó là
cách đảm bảo cho kinh tế nông thôn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong kinh tế nông thôn, kinh tế của những hộ gia đình không tham gia hợp
tác xã là hình thức kinh tế thuộc thành phần kinh tế cá thể hoặc tiểu chủ. Hộ gia
đình tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, kết hợp với chính sức lao động của gia đình họ
để lao động được gọi là kinh tế cá thể; những hộ gia đình mà sức lao đọng của gia
14



GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

đình kết hợp với tư liệu sản xuất của hộ đồng thời có thường xuyên thuê mướn một
số người lao động là loại kinh tế tiểu chủ.
Trong điều kiện nông thôn nước ta hiện nay, kinh tế hộ gia đình đáp ứng
những yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng đất
đai, vốn và sức lao động cũng như tay nghề trong nền kinh tế nông thôn. Để hộ gia
đình tự chủ trong quá trình kinh doanh, trước hết cần giải quyết đúng đắn quan hệ
ruộng đất. Quan hệ đó là: nhà nước nắm quyền sở hữu, các hộ nông dân được nhà
nước giao quyền sử dụng lâu dài và cấp giấy sử dụng ruộng đất trên cơ sở những
ràng buộc chặt chẽ về nghĩa vụ và quyền lợi. Cùng với sự phát triển kinh tế hộ gia
đình, vấn đề phân công lại lao động xã hội, mở mang ngành nghề, khuyến khích
chuyên môn tạo điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ,tăng năng suất lao động.
Nhà nước có chính sách bảo hộ, tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển. Xu
hướng phát triển của kinh tế cá thể và tiểu chủ trong nông thôn theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là tất yếu là hợp tác hóa theo kiểu mới. Để khai thác tối ưu hình thức
cá thể và tiểu chủ hiện nay, cần chú ý các biện pháp:
Một là, chuyển nền kinh tế nông thôn sang nền kinh tế hàng hóa vận hành
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết hợp lí của nhà nước. Nông dân cần được
khuyến khích về lợi ích kinh tế. Với quyền tự chủ được thực hiện trong môi trường
kinh tế hàng hóa, lợi ích kinh tế hộ gia đình là động lực trực tiếp thúc đẩy kinh tế
nông thôn. Đó là nguyên nhân sâu xa tạo ra động lực phát triển kinh tế nông thôn
trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển nông – lâm – ngư nghiệp phải kết hợp với phát triển cơ sở
công nghiệp chế biến. Đó là điều kiện để giải quyết lao động nông nghiệp, khắp
phục tình trạng dư thừa sức lao động hiện nay và tận dụng giá trị hàng hóa nông
sản. Đó cũng còn là điều kiện để hỗ trợ thêm cho chủ trương chuyển dịch cơ cấu
kinh tế để phát triển nông nghiệp bền vững, cân đối.

Ba là, phát triển thị trường nông thôn. Qúa trình trao đổi lưu thông hàng hoá,
nhu cầu của người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, được phản ánh đầy đủ làm
cho tác dụng của kinh tế thị trường không chỉ là nơi giao lưu hàng hóa mà còn là
nơi chuẩn bị của quá trình sản xuất.

15


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

Trong kinh tế nông thôn hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản
nhà nước mới chỉ bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, đi đôi với quá trình phát triển kinh
tế nông thôn, các hình thức kinh tế trên có khả năng phát triển mạnh; cần khuyến
khích và định hướng các loại hình kinh tế này, vì nó là nấc thang tiến bộ trên con
đường phát triển kinh tế hàng hóa ở nông thôn và xã hội hóa kinh tế nông thôn.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò của phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta
1.1.2.1. Đặc điểm của kinh tế nông thôn ở nước ta
Ở nông thôn nước ta do tỷ lệ dân số khá cao trên địa bàn nông thôn nên đã
gây sức ép trên nhiều mặt về ruộng đất, nhà ở, việc làm. Tình trạng thất nghiệp hoàn
toàn ở nông thôn không nhiều, nhưng tình hình chia việc làm trong thời vụ nông
nhàn còn rất phổ biến. Khó khăn lớn nhất hiện nay là khoảng 1/3 quỹ thời gian của
người lao động nông thôn còn dư thừa do thiếu việc làm. Đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và thiếu thốn.
Nhìn chung, số nông họ nghèo và trung bình còn chiếm đa số, số hộ giàu và khá có
tăng lên nhưng ít, chất lượng bữa ăn còn thấp.
Bên cạnh đó, tình hình giáo dục ở nông thôn được mở rộng góp phần nâng
cao dân trí cho người dân, nhưng số lượng người mù chữ còn chiếm khá cao. Theo
thống kê của Tổng cục Thống kê (2007), tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên mù chữ phân

theo khu vực đô thị/nông thôn: con số chung cả nước là 7,9% - khu vực nông thôn
là 9,1% và đô thị là 4,0%. Sau hai năm (2009), con số tương ứng ở các khu vực này
là 7,0% - 8,1% và 3,7%[18]. Số học sinh phổ thông, đặc biệt là vùng cao vùng sâu
vùng xa, bỏ học ngày càng nhiều. Chất lượng giảng dạy và học tập ở nhiều vùng
nông thôn không được nâng cao mà còn giảm sút.
Mạng lưới y tế ở nông thôn có phát triển, nhưng cơ sở vật chất, kỹ thuật,
nhìn chung còn thiếu, đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn tay nghề còn hạn
chế. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, đặc biệt là ở bà mẹ trẻ em còn cao.
Tình hình an ninh, chính trị, xã hội nông thôn nói chung ổn định. Tuy nhiên,
tình hình dân cư, công bằng xã hội pháp luật kĩ cương chưa được đảm bảo. Tình
trạng lấn chiếm đất đai, tham nhũng, buôn lậu ở những vùng biên giới, đầu cơ cho
vay nặng lãi, các tệ nạn xã hội như: mê tín dị đoan, nghiện hút, cờ bạc, mại dâm,…

16


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

vẫn còn phổ biến. Trong khi đó, những truyền thông tốt đẹp của gia đình, tình làng
nghĩa xóm chưa được phát huy cao.
Bộ máy quản lý xã thôn và trình độ quản lý của cán bộ xã thôn còn thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, rừng bị tàn phá, đất bị xói mòn, đồi trọc tăng
lên, gây khó khăn cho việc bảo vệ môi trường, làm tăng thêm tình trạng úng hạn cục
bộ ở nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là vùng trung du miền núi.
Từ những đặc điểm về kinh tế nông thôn kể trên đã dẫn đến nền kinh tế nông
thôn Việt Nam vẫn còn chậm phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhìn tổng thể, nền kinh tế nông thôn Việt Nam vẫn còn mang nặng tính chất thuần

nông. Nếu xét về cơ cấu lao động, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu sản phẩm, sản phẩm
hàng hóa và xuất khẩu thì thì nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, còn công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn. Tính chất thuần nông đó làm cho
nông nghiệp mang nặng tính tự túc, tự cấp, sản xuất hàng hóa thấp, năng suất đạt
được trên một đơn vị diện tích chưa cao, dẫn đến nằn suất lao động, cũng như thu
nhập đầu người và đời sống nhân dân còn thấp.
Các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng như mạng lưới dịch vụ phục
vụ cho nhu cầu sản xuất trên địa bàn nông thôn nhìn chung vẫn còn chiếm số lượng
ít ỏi, thay vào đó là sự phát triển của các nghành nghề thủ công truyền thống mang
đậm bản sắc văn hóa của từng vùng, miền.
Cơ cấu hạ tầng kinh tế nông thôn nhìn chung còn thiếu và chưa đồng bộ,
chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Giao thông đặc biệt là ở vùng núi, vùng
sâu vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, gây trở ngại cho việc sản xuất và việc tổ chức
lưu thông hàng hóa. Bên cạnh đó, mạng lưới thủy lợi tuy có được mở rộng nhưng
chưa đồng đều giữa các vùng nhưng hiệu quả còn thấp. Việc cung ứng điện cho
nông thôn tuy có nhiều tiến bộ nhưng chưa đồng bộ, chủ yếu phục vụ cho đời sống
và thủy lợi, cho phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp. Thêm vào đó là mạng
lưới điện ở nông thôn còn thiếu quy hoạnh, thiếu an toàn, tổn thất điện lớn dẫn đến
giá điện còn ở mức cao. Cơ sở chế biến vào bảo quản nông sản sau khi thu hoạch
chưa đáp ứng được yêu cầu nơi sản xuất, làm hạn chế quá trình chuyên môn hóa và
tập trung hóa sản xuất nông nghiệp.
17


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

kTrước những đặc điểm về kinh tế nông thôn Việt Nam kể trên đã đặt ra
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời tới là phải xóa

bỏ sự lạc hậu của nông thôn, tăng cường đầu tư, xây dựng và phát triển nông thôn
theo hướng văn minh, dân chủ và hiện đại, góp phần tạo nền tảng vững chắc phát
triển đất nước.
1.1.2.2. Vai trò của việc phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta
Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là xu thế
phát triển của nhiều nước, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đối với nước ta từ một nước
có nền kinh tế kém phát triển, phổ biến là nông nghiệp trong tình trạng nghèo nàn,
lạc hậu, muốn nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải
đẩy mạnh công nghiệp hóa. Có thể nói phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn
vững về chất và mạnh về lượng sẽ là tiền đề quan trọng để nước ta thực thắng lợi
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Với xu thế phát triển toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay,
phát triển kinh tế nông thôn không chỉ dừng lại ở tầm một quốc gia nữa mà còn có
ảnh hưởng đến phạm vi toàn cầu, nó được xem là mục tiêu phát triển của nhiều
nước và nhiều vùng lãnh thổ. Bởi lẽ:
Phát triển kinh tế nông thôn góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng đảm
bảo thắng lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển kinh tế nông thôn trước hết là phát triển công nghiệp một cách
mạnh mẽ và ổn định, tạo cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là công nghiệp, một
cơ sở vững chắc về nhiều phương diện, trước hết là lương thực, thực phẩm. Dù cho
nền kinh tế nước ta rồi đây phát triển đi đến đâu và tỷ lệ làm nông nghiệp giảm
xuống do năng suất lao động trong công nghiệp tăng lên như thế nào thì nông
nghiệp bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng. Vì nó thỏa mãn nhu cầ hàng đầu
của con người về ăn, mặc, ở, tạo ổn định về kinh tế, chính trị và an ninh quốc
phòng. Với việc phát triển đồng bộ các nghành nghề ở nông thôn, kinh tế nông thôn
sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm với giá trị ngày càng tăng và điều đó góp phần
giải quyết vấn đề vốn cho quá trình phát triển đất nước.
Phát triển kinh tế nông thôn sẽ thực hiện được quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa tại chỗ, gắn bó tại chỗ công nghiệp với nông nghiệp, vấn đề đô thị hóa
18



GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

sẽ được giải quyết theo phương thức đô thị hóa tại chỗ, giảm sức ép về sự chênh
lệch kinh tế và đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng phát triển và vùng
kém phát triển.
Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ tạo ra sự phát triển của cơ sở vật chất
cho sự phát triển văn hóa ở nông thôn. Nông thôn vốn là vùng kinh tế, văn hóa còn
nhiều lạc hậu, sản xuất và sinh hoạt phân tán, nhiều hủ tục. Mặt khác, nông thôn là
nơi lưu giữ những truyền thống cộng đồng (cả tốt lẫn xấu) còn sâu đậm. Phát triển
kinh tế nông thôn sẽ tạo điều kiện để vừa giữ gìn vừa phát huy truyền thống văn hóa
tốt đẹp, bài trừ nét văn hóa lạc hậu, vừa tổ chức tốt đời sống văn hóa tinh thần cho
người dân.
Sự phát triển của kinh tế nông thôn gắn liền với sự phát triển của xã hội, văn
hóa, chính trị và kiến trúc thượng tầng theo định nghĩa xã hội chủ nghĩa, sẽ dẫn đến
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn, góp phần quyết định đến thắng lợi của
chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Đó cũng là thắng lợi của việc giữ vững và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền
và lợi ích quốc gia. Một nông thôn có kinh tế văn hóa phát triển, người dân có đời
sống ấm no, đầy đủ về vật chất, hạnh phúc về tinh thần sẽ là nhân tố quyết định
củng cố vững chắc trận địa lòng dân, thắt chặt mối liên minh công – nông, bảo đảm
cho nhân dân có thể đánh bại mọi âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù
địch, cũng như tằng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng – ninh đủ sức đánh bại
mọi âm mưu xâm lược của mọi kẻ thù, dưới bất kỳ hình thức nào.
Tóm lại, trong quá trình phát triển đất nước hiện nay việc phát triển kinh tế
nông thôn giữ một vai trò quyết định đến sự phát triển của cả nước. Nếu nói nền
kinh tế quốc dân là một cơ thể sống thì kinh tế nông thôn được xem là bộ phận quan

trọng của cơ thể sống đó. Sự phát triển của kinh tế nông thôn có ảnh hưởng nhất
định đến sự phát triển của nền kinh tế nói riêng và sự phát triển của đất nước nói
chung. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần có những đường lối chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế nông thôn phù hợp với từng vùng, từng địa phương để tạo tiền đề
quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là nền tảng vững chắc cho
sự phát triển của đất nước sau này.[7]

19


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

1.2. Khái niệm và tiêu chí xác định nghèo đói ở nông thôn
1.2.1. Khái niệm về nghèo đói ở nông thôn
Những năm gần đây, vấn đề đói nghèo đã thu hút sự quan tâm to lớn của
cộng đồng quốc tế, đồng thời khẳng định cần có sự nỗ lực toàn cầu trong giải quyết
các vấn đề kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo.
Tuyên bố Thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển, đã tạo đà và tầm nhìn về
một thế giới mà ở đó không còn đói nghèo, ai cũng được chăm lo về y tế, giáo dục,
môi trường, mọi người được tự do bình đẳng...
Nền kinh tế càng tăng trưởng càng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc và
chi phí khắc phục hậu quả của nó ngày một tốn kém hơn. Trong các vấn đề xã hội
bức xúc đó, vấn đề đói nghèo nổi lên hàng đầu và được cả cộng đồng quốc tế quan
tâm. Những năm đầu của thế kỷ 21 có tới 78 quốc gia thuộc nhóm các nước nghèo
và đang phát triển xây dựng chiến lược nghèo toàn diện; trong đó có gần 30 tổ chức
quốc tế, bao gồm cả tổ chức đa phương, song phương và NGO (non-governmental
organization – Tổ chức phi chính phủ) xây dựng chiến lược hỗ trợ các nước nghèo
trong cuộc chiến chống nghèo đói.

Quan niệm về đói, nghèo hay nhận dạng về đói, nghèo của từng quốc gia hay
từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí
chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác nhau chủ yếu là xác định mức độ
thoả mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào yếu tố lịch sử, trình
độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc
gia.
Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương do (ESCAP) tổ chức ở Băng Cốc, Thái Lan vào tháng 9 -1993,
các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao về khái niệm nghèo đói như sau:
Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục
ấy được xã hội thừa nhận.[2]
Ở khái niệm về nghèo khổ trên, cần xem xét ba vấn đề sau:
20


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

(i) Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: ăn ở, mặc, y tế, giáo dục, văn
hoá, đi lại và giao tiếp xã hội.
(ii) Nghèo khổ thay đổi theo thời gian: Thước đo nghèo khổ sẽ thay đổi theo
thời gian, kinh tế càng phát triển, thì nhu cầu cơ bản của con người cũng sẽ thay đổi
theo và có xu hướng ngày một cao hơn.
(iii) Nghèo khổ thay đổi theo không gian: Thông qua định nghĩa này đã chỉ
cho chúng ta thấy rằng hiện tại thì chưa nhưng trong tương lai sẽ có chuẩn nghèo
chung cho tất cả các nước, vì nó phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của các

quốc gia, từng vùng. Xu hướng chung là các nước đang phát triển ngưỡng đo nghèo
đói ngày càng cao.
Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith chia sẽ với quan niệm này cho rằng con
người bị coi là nghèo đói khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có
thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó, họ không thể
có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một
cách đúng mức.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen,
Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một quan niệm cụ thể hơn về nghèo đói như sau:
“người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày
cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.
[8]
Ông Abapia Sen, một chuyên gia hàng đầu của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) - người được giải thưởng Nôben về kinh tế năm 1998, cho rằng: Nghèo đói là
sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Xét cho
cùng sự tồn tại của con người nói chung và người giàu, người nghèo nói riêng, cái
khác nhau cơ bản để phân biệt họ chính là cơ hội lựa chọn của mỗi người trong
cuộc sống, thông thường người giàu có cơ hội lựa chọn nhiều hơn, người nghèo có
cơ hội lựa chọn ít hơn.
Ngân hàng thế giới còn đưa ra quan điểm: Nghèo là một khái niệm đa chiều
vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên
thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng, sức

21


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng


khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có
quyền lực.
Quan niệm của bản thân người nghèo ở nước ta cũng như một số quốc gia
khác trên thế giới về nghèo đói đơn giản hơn, trực diện hơn. Một số cuộc tham vấn
có sự tham gia của người dân, họ nói rằng: Nghèo đói là gì ư ? là hôm nay con tôi
ăn khoai, ngày mai không biết con tôi ăn gì? Bạn nhìn nhà ở của tôi thì biết, ngồi
trong nhà cũng thấy mặt trời, khi mưa thì trong nhà cũng như ngoài sân.
Tháp tiếp cận về nghèo đói.[10]
1.

Tiêu dùng

2.

Tiêu dùng + tài sản

3.

Tiêu dùng + tài sản + con người

4.

Tiêu dùng + tài sản + con người + văn hoá - xã hội

5. Tiêu dùng + tài sản + con người + văn hoá - xã hội + chính trị
6. Tiêu dùng + tài sản + con người + văn hoá - xã hội + chính trị + bảo vệ
Một số người khác thì trả lời nghèo đói đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh tre,
nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát; không đủ đất đai để sản xuất, không có trâu, bò,
không có ti vi, con cái thất học, ốm đau không có tiền đi khám chữa bệnh…
Các quan niệm về đói nghèo nêu trên phản ánh 3 khía cạnh của người nghèo.

(i) Không được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
cho con người.
(ii) Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân
cư.
(iii) Thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia trong quá trình phát triển cộng đồng.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại: Nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn, mặc,
nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...).
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định.
22


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

Những quan niệm về đói nghèo nêu trên, phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của
người nghèo là: Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
cho con người; có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng; thiếu cơ hội lựa chọn
tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghèo tuyệt đối chủ yếu phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không
được thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của con người, trước hết là ăn, mặc, ở...;
Nghèo tương đối lại phản ánh sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư
khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một thời kỳ
nhất định. Do đó, có thể xóa dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối luôn xảy ra
trong xã hội, vấn đề quan tâm ở đây là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo
và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, giảm thiểu tới mức thấp nhất tỷ lệ nghèo tương

đối.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn cứ vào
thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và
xoá đói, giảm nghèo đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung
về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á - Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993. Đồng thời vấn đề đói nghèo
ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình
và cộng đồng, do đó bên cạnh khái niệm nghèo đói, ở nước ta còn có một số khái
niệm sau:
Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là
những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay
mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.
Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành
đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát...
Hộ nghèo: Là hộ đói ăn không đủ bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm,
không có khả năng phát triển sản xuất...
Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở
hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ dân trí thấp, tỷ
lệ mù chữ cao.
23


GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng nằm ở những khu vực khó khăn hiểm
trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Như vậy, đói nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu

nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng
những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào
quá trình ra quyết định... Qua nghiên cứu chúng ta nhận thấy đói nghèo có nguồn
gốc căn nguyên từ kinh tế; nhưng với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các
quốc gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã
hội phức tạp, chứ không thuần túy chỉ là vấn đề kinh tế cho dù các tiêu chí đánh giá
của nó trước hết và chủ yếu dựa trên các tiêu chí về kinh tế. Vì vậy, khi nghiên cứu
những tác động ảnh hưởng đến thực trạng, xu hướng, cách thức giải quyết vấn đề
đói nghèo cần phải đánh giá những tác động của nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng có như vậy mới đề ra được các giải pháp đồng bộ cho công tác
xoá đói, giảm nghèo ở nước ta.
Quan niệm về hộ nghèo, xã nghèo là những thuật ngữ đã được người dân
Việt Nam sử dụng từ ngàn đời xưa, còn thuật ngữ “xoá đói, giảm nghèo” chỉ mới
xuất hiện trong những năm gần đây. Trong cuộc sống cộng đồng làng xã, người dân
cũng đã có những nhận xét, so sánh về tình trạng, mức độ nghèo đói của các hộ gia
đình, họ đánh giá nhà này giàu có, nhà kia khá giả, nhà nọ nghèo khổ…sự nghèo
khó khá giả hoặc nghèo khổ theo cách nghĩ, cách đánh giá của người dân chủ yếu
dựa vào các yếu tố quan sát được hoặc hiểu biết được các thông tin qua trao đổi hoặc
giao tiếp hằng ngày. Các yếu tố mà họ sử dụng làm căn cứ cho những nhận xét chủ
yếu là nhà ở, tài sản, tư liệu sản xuất, thu nhập, chi tiêu và đồ dùng sinh hoạt hằng
ngày; đặc biệt là chi tiêu cho ăn mặc, khám chữa bệnh và học hành của con cái hoặc
là nhà ở, tài sản và thu nhập hàng tháng hoặc hàng năm của các hộ gia đình. Cũng
có khi họ chỉ nhìn vào chi tiêu của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày hoặc thu nhập
hàng tháng, hàng năm của hộ gia đình mà không cần quan sát yếu tố nhà ở, tài sản,
trong trường hợp họ thấy nhà cửa, tài sản cũng không có gì đáng giá. Với cách đánh
giá như vậy người ta gọi là đánh giá định tính của người dân và sau này hình thành
phương pháp đánh giá định tính, hoặc là phương pháp đánh giá có sự tham gia của
người dân. Sự quan sát và đánh giá mang tính chất định tính của người dân phần
24



GVHD: Th.S.GVC: Trần Thanh Quang

SVTH: Phan Thanh Hưng

nào cũng đã phản ánh thực trạng giàu - nghèo của các hộ gia đình ở cộng đồng. Tuy
vậy nó cũng nảy sinh những khó khăn khi xem xét các hộ nằm giữa các ranh giới
nghèo và không nghèo, trong trường hợp này cách đánh giá định tính có thể đúng,
nhưng chưa sát thực. Mặt khác, xét trên tổng thể cũng không thể biết được hộ nào
nghèo đến mức nào, vì không có tiêu chí nào để đánh giá, hay nói cách khác là không
có mốc để so sánh.
Tương tự như vậy, khi người dân có những nhận xét, đánh giá xã này giàu,
xã kia khá, xã nọ nghèo hoặc so sánh xã này giàu hơn xã kia hoặc xã này nghèo hơn
xã kia hoặc xếp xã này vào nhóm nghèo, xã kia vào nhóm không nghèo. Tuy chỉ
đánh giá định tính, song không phải không có những căn cứ nhất định, mặc dù đánh
giá một xã là nghèo hay không nghèo phức tạp hơn nhiều so với đánh giá hộ gia
đình. Căn cứ trực quan sinh động nhất mà người dân dễ nhận thấy là số hộ có nhà
cửa khang trang, số hộ có mức sống khá giả, kết cấu hạ tầng của xã như đường giao
thông, trạm xá, trường học, điện, hệ thống thuỷ lợi, chợ, công trình văn hoá…trình độ
phát triển kinh tế thông qua thu nhập ngày công lao động hoặc thu nhập tháng/năm của
hộ gia đình. Việc đánh giá như trên phần nào cũng phản ánh được mức độ giàu nghèo
của một xã. Tuy nhiên, khi đánh giá một xã là nghèo hay không nghèo cũng rất khó vì
thiếu những dẫn chứng mang tính định lượng có sức thuyết phục, nhất là các xã nằm ở
ranh giới nghèo và không nghèo. Một xã được đánh giá là nghèo trên thực tế không
phải không có các yếu tố cụ thể nào đó trội hơn xã không nghèo, ví dụ như trường học,
trạm xá, trụ sở xã hoặc hệ thống thuỷ lợi, cũng có thể số hộ (tỷ lệ hộ) có nhà ngói
ngang bằng với xã không nghèo…
1.2.2.Tiêu chí xác định đói nghèo ở nông thôn
Đối với Việt Nam, dù là trong ký ức của người dân hay trong các tài liệu
của chính phủ trước đây, quan niệm về cái nghèo chưa bao giờ được coi đơn thuần

là vấn đề thu nhập vật chất. Cái nghèo ở đây luôn hàm chứa cả sự nghèo nàn về đạo
đức, học vấn, truyền thống…
Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
với sự gia tăng các nguồn viện trợ từ nước ngoài (kể cả chính phủ và phi chính phủ)
thì những khái niệm về giàu nghèo dựa trên thu nhập hiện đang được chính phủ và
nhân dân sử dụng ngày càng nhiều, để xác định ai "giàu" và ai "nghèo".
25


×