Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Vận dụng quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.13 KB, 76 trang )

Luận văn tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích
lũy và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền
đã xuất hiện từ rất sớm, trong tư tưởng chính trị - pháp lý thời cổ đại đã chứa đựng
nhiều nhân tố của nhà nước pháp quyền.
Ngày nay, ở Việt Nam học thuyết đó được tiếp tục bổ sung, phát triển cho
phù hợp với những thay đổi sâu sắc của xã hội hiện đại. Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hiện nay, đang trong thời kì hội nhập kinh tế
quốc tế thì đòi hỏi nước ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước,
cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để
giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ,
giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Trong đó, cơ
sở hạ tầng bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các
kiểu quan hệ sản xuất khác, tạo tiền đề cho những thiết chế chính trị ra đời. Thực
vậy, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng luôn có mối quan hệ biện chứng, đan
xen và bổ sung cho nhau. Hai yếu tố kinh tế và chính trị không thể tồn tại độc lập,
tách rời nhau mà phải phát triển song song, bởi lẽ kinh tế phát triển sẽ dẫn đến
chính trị cũng thay đổi theo và ngược lại. Nhà nước là trung tâm, là trụ cột của hệ
thống chính trị; nó có tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền đã có tiền lệ gắn liền với lịch sử hình
thành với tư cách là một kiểu nhà nước đã thể hiện được tính tiến bộ của mình so
với các kiểu nhà nước độc tài, chuyên chế… Đối với các kiểu Nhà nước trước đó
còn nhiều hạn chế, quyền lực nhà nước phục vụ cho giai cấp thống trị, bất bình
đẳng xã hội ngày càng gay gắt. Chính vì thế, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước



GVHD: Nguyễn Đại Thắng

1

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay đem lại công bằng, dân chủ, hạnh
phúc ấm no cho nhân dân là một tất yếu khách quan. Nó đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, pháp lý…
Tuy nhiên, dưới góc độ của Triết học, việc lí giải tính tất yếu và những đặc
trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cần phải được tiếp tục
nghiên cứu nhằm bổ sung những luận cứ khoa học cho công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chính yêu cầu này, đã thôi thúc tôi lựa chọn đề
tài: “Vận dụng quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cho mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến hai bộ
phận chính: Đó là những đặc trưng cơ bản và mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề về
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại
hóa hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhằm phát huy nguồn lực cơ sở hạ tầng để phát
triển kiến trúc thượng tầng kinh tế - xã hội với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
tại Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương
pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp logic – lịch sử.

5. Kết cấu của đề tài

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

2

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận
văn gồm ba chương, 7 tiết.

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

3


SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG
TẦNG VỚI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Quan điểm trước Mác về Nhà nước pháp quyền
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, do đòi hỏi của lịch sử và xuất phát từ khát
vọng về tự do, dân chủ, bình đẳng và quyền con người của nhân dân, có hai thời kì
xuất hiện nhiều tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ về Nhà nước pháp quyền. Đó
là thời kì Nhà nước cổ đại Hy Lạp, La Mã, khi Nhà nước chiếm hữu nô lệ đã thể
hiện hết tính chất tàn bạo, dã man của nó và thời kì cách mạng tư sản ở Châu Âu,
khi giai cấp tư sản phát động các cuộc cách mạng đánh đổ chế độ phong kiến
chuyên chế, xây dựng nền cộng hòa và xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.
Những tư tưởng tích cực tiến bộ về Nhà nước pháp quyền trong thời kì cổ
đại ở Châu Âu thể hiện rõ nét ở các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời kì này như
Xôcrát, Đêmôcrít, Platôn, Arítxtốt, Xixêrôn.
Xôcrát (469 – 399 Trước Công nguyên): Ông tự coi mình là nhà hiền triết
đấu tranh cho khai sáng tinh thần nhân loại, ủng hộ triệt để nguyên tắc tuân thủ
pháp luật. Ông cho rằng, xã hội không thể tồn tại nếu các đạo luật bất lực; giá trị
cao nhất là công lý, tuân thủ pháp luật của Nhà nước; không tuân thủ pháp luật thì
cũng không thể có Nhà nước; công dân tuân thủ pháp luật thì Nhà nước sẽ vững
mạnh và phồn vinh.
Đêmôcrít (460 - 370 Trước Công nguyên): Được coi là người đầu tiên lý
giải một cách khoa học về sự xuất hiện và sự hình thành con người, xã hội loài
người. Ông cho rằng, sự xuất hiện loài người là quá trình phát triển tự nhiên của thế
giới; trong xã hội, các đạo luật là phương tiện bảo đảm cho đời sống thuận lợi của
con người trong mối quan hệ với Nhà nước và xã hội; đạo đức đòi hỏi phải có sự

tuân thủ pháp luật, tuân thủ chính quyền.
Platôn (427 - 347 Trước Công nguyên): Ông là học trò của Xôcrát, một
trong những nhà tư tưởng vĩ đại của thời cổ đại. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

4

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

được trình bày chủ yếu trong hai tác phẩm Nhà nước và Các luật. Ông cho rằng,
phân công lao động trong bộ máy Nhà nước là cần thiết, trong đó hoạt động xét xử
của tòa án là nhằm bảo vệ pháp luật và nêu luận điểm nổi tiếng: Ở đâu mà luật
không có hiệu lực và nằm dưới quyền lực của một ai đó thì ở đó, Nhà nước sẽ sụp
đổ mau chóng. Còn ở đâu mà luật đứng trên nhà cầm quyền, họ chỉ là nô lệ của luật
thì ở đó có sự cứu thoát của Nhà nước và tất cả các lợi ích mà chỉ có thượng đế mới
có thể ban phát cho các Nhà nước.
Arítxtốt (384 - 322 Trước Công nguyên): Ông là học trò của Platôn và được
C.Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại. Ông cho rằng, có tồn tại
pháp luật chung, tự nhiên, khác với pháp luật riêng, cao hơn pháp luật riêng do Nhà
nước ban hành; đạo đức phải phục vụ pháp luật; hành động công bằng là hành động
theo pháp luật. Ông cực lực lên án người cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà
đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực và cần phải phân quyền trong tổ
chức Nhà nước. Những quan điểm nêu trên được Arítxtốt trình bày trong tác phẩm
Đạo đức học và Thuật hùng biện.
Xixêrôn (106 - 43 Trước Công nguyên): Ông là nhà hoạt động Nhà nước,
nhà luật học và nhà hùng biện của thời kì La mã cổ đại, tác giả của những tác phẩm

nổi tiếng như Về nhà nước, Về những đạo luật và Về các nghĩa vụ… Ông đã có
những tư tưởng tiến bộ như Nhà nước là công việc chung của nhân dân; phân biệt
ba hình thức Nhà nước: Dân chủ, quý tộc và quân chủ; người điều hành công việc
Nhà nước phải sáng suốt, công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những
nguyên lý cơ bản của pháp luật… Đặc biệt, Xixêrôn đưa ra quan điểm nổi tiếng: Tất
cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và nhân dân phải coi pháp luật như
chốn nương thân của mình.
Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cách mạng tư sản
Những quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cổ đại được
tiếp tục phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ
phong kiến chuyên chế, độc tài và vô pháp luật ở Châu Âu thế kỷ XVII, XVIII.
Trong thời kỳ này tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được phát triển khá phong
phú, toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính trị - pháp

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

5

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

lý, tiêu biểu là quan điểm của các nhà tư tưởng: J.Lôcke, S.L.Môntexkie và J.J.Rut
– xô.
Trong thời kỳ này, ngoài các nhà lý luận nói trên, nhiều nhà tư tưởng, triết
học, luật học khác ở Châu Mỹ đã góp phần phát triển các nhà tư tưởng về nhà nước
pháp quyền như Tômát, Jepphecxơn (1743 – 1826) – tác giả của bản Tuyên ngôn
độc lập Mỹ năm 1976, Tômát Pên (1737 – 1809), Jôn Ađam (1735 – 1826); Jem
Mêđison (1752 – 1836)…


1.2. Quan điểm Mác – Lênin về quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng
Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất, bao giờ cũng
nảy sinh những mối quan hệ giữa người và người. Mối quan hệ ấy gọi là quan hệ xã
hội. Nhưng cái gắn bó con người thành xã hội trước hết là những quan hệ giữa họ
với nhau trong lĩnh vực sản xuất mà Mác gọi là quan hệ sản xuất mà trên nó hình
thành nên kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng và quy luật cơ sở hạ tầng - kiến
trúc thượng tầng. Đây là một trong những quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Khái niệm, kết cấu của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định.
Khái niệm cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ sản
xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Vì vậy, Mác viết: “Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng nên một kiến trúc pháp lý và chính trị và những hình thái ý
thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
Kết cấu của cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản
xuất là tàn dư của xã hội cũ, quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội tương lai.
Trong quan hệ sản xuất đó thì quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ
đạo, nó quy định tất cả các quan hệ sản xuất còn lại, nó quy định và tác động một
cách trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, đồng thời
cũng quy định tính chất, đặc trưng của toàn bộ cơ sở hạ tầng đương thời. Chẳng

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

6

SVTH: Hồ Thị Bé Lam



Luận văn tốt nghiệp

hạn, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản giữ địa vị thống trị sự
quyết định đặc trưng cơ sở hạ tầng của chế độ tư bản là có sự bóc lột bằng giá trị
thặng dư. Còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa giữ
địa vị thống trị nó sẽ quyết định đặc trưng của cơ sở hạ tầng ấy không có sự bóc lột.
Nhưng trong khi nhấn mạnh tính quy định của quan hệ sản xuất thống trị
trong cơ sở hạ tầng, chủ nghĩa duy vật lịch sử còn cho rằng, trong mỗi cơ sở hạ tầng
của xã hội còn có các quan hệ sản xuất khác như quan hệ sản xuất là tàn dư của xã
hội trước, quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau. Giữa chúng tuy khác nhau
nhưng không tách rời nhau, vừa đấu tranh với nhau vừa liên hệ với nhau và cùng
hình thành cơ sở hạ tầng của một hình thái kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn phát
triển nhất định. Chẳng hạn trong hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, ngoài quan
hệ sản xuất phong kiến thống trị còn tồn tại tàn dư của xã hội nô lệ, tồn tại chế độ sở
hữu cá thể của nông dân và thợ thủ công và sau này nảy sinh ra mầm mống của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tổng hợp tất cả các quan hệ sản xuất trong xã hội hình thành trên cơ sở hạ
tầng, những quan hệ sản xuất này chúng ta không tự tạo ra mà chúng được hình
thành khách quan trong quá trình sản xuất vật chất. Nó cũng trực tiếp thay đổi theo
sự biến đổi của lực lượng sản xuất, khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
thay đổi thì những quan hệ sản xuất đó tất yếu cũng mất đi.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, cơ sở hạ tầng của xã hội cũng có tính
đối kháng. Do địa vị kinh tế của các giai cấp khác nhau nên việc tồn tại mâu thuẫn
và đấu tranh trong cơ sở hạ tầng của xã hội là điều không tránh khỏi.
Kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm xã hội
như chính trị, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học… Với những thiết
chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội và
mối quan hệ nội tại giữa chúng, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất đinh.

Mỗi yếu tố kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển
riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại với nhau và đều
nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng đó.

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

7

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng tuy có quan hệ khắng khít với nhau
nhưng mỗi yếu tố có tính độc lập tương đối, có quy luật vận động riêng và cùng phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng. Song các yếu tố của kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ
khác nhau với cơ sở hạ tầng. Có các yếu tố liên hệ một cách trực tiếp như Nhà
nước, pháp luật, các tổ chức chính trị. Tính trực tiếp của nó được thể hiện khi cơ sở
hạ tầng sinh ra nó thay đổi hoặc mất đi thì các yếu tố đó cũng thay đổi và mất đi
theo. Còn các yếu tố khác như đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học… Thì liên hệ
với cơ sở hạ tầng một cách gián tiếp, tính gián tiếp của nó được thể hiện khi cơ sở
hạ tầng sinh ra nó thay đổi thì các yếu tố này không thay đổi ngay mà nó tồn tại dai
dẳng ở chế độ xã hội sau. Đồng thời, để tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng,
chúng phải thông qua các yếu tố trung gian như Đảng, Nhà nước thì mới phát huy
được tác dụng. Dù có sự tác động khác nhau, nhưng tất cả các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng đều phản ánh cơ sở hạ tầng, biến đổi theo sự biến đổi của cơ sở hạ tầng
của xã hội.
Kết cấu kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp đối kháng gồm hệ tư
tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, các quan điểm, tư tưởng tàn dư của xã hội
cũ để lại, quan điểm tư tưởng của các giai cấp mới ra đời, quan điểm tư tưởng của

các tầng lớp trung gian.
Các hệ tư tưởng, các quan điểm chính trị cùng các tổ chức, thể chế trên đây
hợp thành kiến trúc thượng tầng của mỗi một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Bộ phận chủ yếu chi phối, quyết định trong mỗi giai đoạn lịch sử là hệ tư tưởng,
quan điểm chính trị và thể chế của giai cấp đang giữ địa vị thống trị. Do đó, tính
chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị cũng quyết định tính chất cơ bản của kiến
trúc thượng tầng. Tất cả các quan điểm tư tưởng khác đều chịu sự chi phối của hệ tư
tưởng thống trị.
Nếu cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ sản xuất đối kháng và chính bản
thân nó nảy sinh ra những cuộc đấu tranh giai cấp thì kiến trúc thượng tầng tiêu
biểu cho những quan hệ tư tưởng của các giai cấp mang tính đối kháng. Cuộc đấu
tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức
tạp.

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

8

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

Khi nói tới kiến trúc thượng tầng ta đặc biệt chú ý tới vai trò của Nhà nước,
nó là bộ phận có quyền lực mạnh nhất. Vai trò của Nhà nước được thể hiện thông
qua pháp luật. Chính nhờ có Nhà nước mà hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thống
trị được toàn bộ đời sống xã hội. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ
ở sự đối lập về quan điểm, tư tưởng và cuộc đấu tranh về mặt chính trị, tư tưởng của
các giai cấp đối kháng. [12, tr.275]
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh tế sẽ quyết định chính trị,
chính trị là sự phản ánh các mối quan hệ kinh tế. Khi nói tới cơ sở hạ tầng là nói tới
mối quan hệ kinh tế, nói tới kiến trúc thượng tầng là nói tới mối quan hệ chính trị.
Do vậy, trong mối quan hệ này cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết
thể hiện ở chỗ: Cơ sở hạ tầng nào thì sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Tính chất của
quan hệ sản xuất nào thống trị thì đẻ ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng.
Sự tồn tại của kiến trúc thượng tầng chính trị là bảo vệ cho quan hệ sản xuất đang
chi phối toàn bộ đời sống xã hội. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp nào
thống trị về mặt kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về đời sống tinh thần. Trong
lĩnh vực quan hệ kinh tế của xã hội có biểu hiện mâu thuẫn xảy ra trong kiến trúc
thượng tầng, chúng ta không đi tìm ở ngay bản thân nó mà phải xét đến cơ sở hạ
tầng nơi sinh ra, hình thành nên kiến trúc thượng tầng. Có nghĩa là mâu thuẫn trong
lĩnh vực kinh tế sẽ dẫn đến mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể
hiện, những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm muộn cũng dẫn đến sự biến
đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Chẳng hạn, việc thay đổi chế độ kinh tế nô
lệ bằng chế độ kinh tế phong kiến dẫn tới kết quả là kiến trúc thượng tầng suy tàn
của chế độ nô lệ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến
mà Nhà nước, pháp luật, hệ tư tưởng của nó là công cụ quyền lực bảo vệ cho cơ sở
kinh tế phong kiến đã hình thành và phát triển. Nhưng chúng ta cần thấy rằng sự
thay đổi đó có thể diễn ra ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội, có nghĩa là khi

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

9

SVTH: Hồ Thị Bé Lam



Luận văn tốt nghiệp

sự biến đổi của cơ sở hạ tầng thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Ví dụ:
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giai đoạn trước nền kinh tế
của chúng ta là bao cấp, tương ứng với nền kinh tế bao cấp đường lối chính trị còn
chưa năng động. Nay nền kinh tế của nước ta chuyển sang kinh tế thị trường thì
chính trị đã năng động, mở cửa, quan hệ hợp tác với nước ngoài.
Do đó, khi cơ sở hạ tầng của một xã hội mất đi, kiến trúc thượng tầng sinh
ra nó cũng mất theo. Cơ sở hạ tầng mới ra đời cũng hình thành nên kiến trúc thượng
tầng mới phù hợp với nó, Nhà nước mới ra đời, hệ tư tưởng của giai cấp mới thay
thế tư tưởng của giai cấp cũ. Mác nói “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Trong xã hội có giai cấp
đối kháng, sự thay đổi đó diễn ra rất gay gắt, phức tạp. Phải thông qua cuộc đấu
tranh giai cấp giữa hai giai cấp thống trị và bị trị, dẫn tới cách mạng xã hội, cơ sở hạ
tầng cũ thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới thì giai cấp thống trị bị xóa bỏ, thay vào đó
là sự thống trị về chính trị của giai cấp mới.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là cơ sở hạ tầng cũ mất đi, kiến trúc
thượng tầng cũ mất đi ngay lập tức. Chỉ có những yếu tố nào trong kiến trúc thượng
tầng liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng thì mất ngay. Còn những yếu tố liên hệ gián
tiếp thì còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở hạ tầng của nó đã bị tiêu diệt. Hay trong
cơ sở hạ tầng cũng vậy, có những yếu tố hình thức nào sau khi bị xóa bỏ rồi, giai
cấp thống trị mới vẫn còn sử dụng để xây dựng, phát triển cơ sở kinh tế mới. Ví dụ:
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn còn sử dụng những hình thức kinh tế cũ như hàng
hóa, giá trị, giá cả, tiền tệ…
Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Mặt dù yếu tố kinh tế giữ vai trò quyết định, song yếu tố chính trị không thụ
động, nó có vai trò to lớn tác động trở lại đối với kinh tế làm cho kinh tế phát triển.
Do vậy, kiến trúc thượng tầng có vai trò tác động lại cơ sở hạ tầng.
Sự tác động đó được thể hiện: Kiến trúc thượng tầng được củng cố, bảo vệ,

duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, đồng thời đấu tranh chống lại cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

10

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị về
chính trị, tư tưởng cho giai cấp đang thống trị về kinh tế trong xã hội. Nếu giai cấp
thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tư tưởng thì cơ sở hạ tầng
của nó không thể đứng vững được.
Khi nói đến tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, chúng
ta đặc biệt chú ý tới vai trò của Nhà nước, vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai
cấp thống trị về kinh tế. Mặt khác, Nhà nước dùng hệ thống bạo lực như nhà tù,
quân đội, cảnh sát, viện kiểm sát để bảo vệ sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị,
bảo vệ vững chắc quan hệ sản xuất đang thống trị. Bên cạnh những yếu tố cơ bản
của kiến trúc thượng tầng tác động lại cơ sở hạ tầng, các yếu tố khác cũng có vai trò
nhất định trong việc củng cố cơ sở hạ tầng. Nhưng để tác động trở lại cơ sở hạ tầng,
những yếu tố này phải thông qua yếu tố trung gian là Nhà nước, pháp luật và các
thể chế tương ứng thì mới phát huy được sức mạnh, qua đó tác động đến cơ sở hạ
tầng. [12, tr.280]

1.3. Nhà nước pháp quyền từ góc nhìn cơ sở hạ tầng
Quan điểm Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật kiểu mới
Tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về Nhà nước pháp quyền và pháp luật

kiểu mới.
V.I.Lênin đã tiếp tục phát triển những tư tưởng, quan điểm về Nhà nước và
pháp luật của C.Mác và Ăngghen trong quá trình lãnh đạo nhân dân Nga giành
chính quyền và xây dựng Nhà nước kiểu mới.
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tư
tưởng của C.Mác và Ăngghen về nguồn gốc của Nhà nước. Nhà nước là một hiện
tượng lịch sử, ra đời và gắn với sự xuất hiện của giai cấp và chế độ tư hữu. “Bất cứ
ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được thì Nhà nước xuất hiện”. Người khẳng định sự cần thiết
phải “đập tan” Nhà nước bóc lột để giành chính quyền về tay nhân dân, giai cấp vô
sản phải xây dựng chính đảng để lãnh đạo cách mạng và tự trở thành giai cấp thống
trị. V.I.Lênin chỉ ra rằng, Nhà nước nào cũng có bản chất giai cấp, là công cụ của
giai cấp thống trị, “Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của một

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

11

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

giai cấp này đối với giai cấp khác”. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa Nhà nước là tổ
chức chính trị của nhân dân, thể hiện ý chí của nhân dân, theo V.I.Lênin, với việc sở
hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn là Nhà
nước nguyên nghĩa nữa, nó không chỉ có chức năng chấn áp sự phản kháng của các
giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ mà còn có vai trò quan trọng là tổ chức xây dựng xã
hội mới, trong đó quan trọng hơn cả là chức năng tổ chức quản lý kinh tế. Đến giai
đoạn phát triển cao của chủ nghĩa xã hội, khi không còn giai cấp nữa thì cũng không

cần Nhà nước, Nhà nước sẽ tự “tiêu vong”. Người chỉ ra rằng, bước quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sẽ xuất hiện nhiều hình thức chính quyền Nhà
nước của giai cấp công nhân, song thực chất cũng là chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản. Người chỉ rõ: Điều cốt lõi trong học thuyết của C.Mác là đấu tranh
giai cấp, nhưng “Kẻ nào chỉ thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó
chưa phải là một người Mácxít… Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh
giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người Mácxít”. Theo
Người, “Chuyên chính vô sản… Không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và
cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái
bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và
thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản”, “Xét
đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi
của chế độ xã hội mới”.
Trong khi nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước kiểu mới, V.I.Lênin
cũng chỉ ra bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước Xôviết ở Nga: “Các Xôviết là
do chính bản thân những người lao động thiết lập ra bằng nghị lực và sức sáng tạo
của họ, đó là cái đảm bảo duy nhất cho sự tận tụy vô biên của họ đối với quyền lợi
của quần chúng. Khi cử đại biểu của mình vào Xôviết, mỗi người nông dân cũng có
thể bãi miễn họ, và đó chính là tính chất nhân dân chân chính của các Xôviết”.
Người chỉ rõ: “Chính quyền Xôviết là một kiểu nhà nước mới, không có bộ máy
quan liêu… Một kiểu nhà nước trong đó nền dân chủ tư sản được thay thế bằng nền
dân chủ mới, một nền dân chủ đang đưa đội tiền phong của quần chúng lao động lên
hàng đầu, làm cho quần chúng lao động lên hàng đầu, làm cho quần chúng đó trở

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

12

SVTH: Hồ Thị Bé Lam



Luận văn tốt nghiệp

thành những người lập pháp và hành pháp, thành những đội vũ trang, bảo vệ, và
thiết lập một bộ máy có khả năng cải tạo quần chúng”. V.I.Lênin phản đối định kiến
cho rằng, người nông dân do trình độ hạn chế không thể tham gia quản lý nhà nước
và xã hội. Tư tưởng này thể hiện đậm nét ở Môngtexkiơ khi hạn chế quyền của
những người lao động tham gia quản lý nhà nước và xã hội. V.I.Lênin cho rằng,
“Chính quyền mới” với tính cách là chuyên chính của tuyệt đại đa số, đã có thể duy
trì và đã được duy trì chỉ là nhờ vào sự tín nhiệm của quần chúng đông đảo, chỉ
bằng lôi cuốn một cách tự do nhất, rộng rãi nhất và mạnh mẽ nhất toàn thể quần
chúng tham gia chính quyền, “Đó là chính quyền công khai đối với mọi người, làm
mọi việc trước mặt quần chúng, dễ dàng gần gũi nó, nó trực tiếp sinh ra từ quần
chúng, là cơ quan trực tiếp đại biểu cho quần chúng nhân dân và cho ý chí của họ”.
Người còn chỉ rõ khả năng tham gia quản lý nhà nước và xã hội của những người
lao động bình thường nếu họ được học về quản lý và trực tiếp tham gia quản lý:
“Chính quyền xôviết là một bộ máy, nhờ bộ máy này quần chúng có thể bắt tay
ngay vào việc học tập quản lý nhà nước và tổ chức sản xuất trên quy mô toàn quốc”.
Như vậy, tư tưởng về chủ quyền nhân dân của Môngtexkiơ và J. J. Rútxô đã được
V.I.Lênin phát triển toàn diện và triệt để, nhân dân không chỉ tham gia góp ý kiến
trong các công việc của nhà nước mà còn là người trực tiếp thực hiện những công
việc ấy.
V.I.Lênin đặc biệt coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi tổ chức
hoạt động của nhà nước. Người khẳng định tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo
của Đảng đối với nhà nước bởi vì “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân, là giáo
dục đội tiền phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền
và dẫn dắt toàn dân lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ
mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao
động và những người bị bóc lột để giúp đỡ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà
không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”. Và “Về nguyên tắc

Đảng cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không phải nghi ngờ gì nữa”.
V.I.Lênin chỉ rõ Đảng thực hiện lãnh đạo nhà nước là lãnh đạo một cách toàn diện
về cả phương diện tổ chức và hoạt động của nhà nước: “Trong nước cộng hòa của

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

13

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan
nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng”.
Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ để thực hiện vai trò lãnh đạo ấy, Đảng phải được xây
dựng, củng cố để thực sự là đội tuyên phong của giai cấp công nhân: Nhiệm vụ của
chúng ta là bảo vệ tính vững chắc, tính kiên định, tính trong sạch của Đảng ta.
Chúng ta phải cố gắng làm cho danh hiệu và ý nghĩa của đảng viên ngày càng cao
hơn lên mãi. Mặt khác, điều quan trọng hơn trong điều kiện Đảng cầm quyền là
“Cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng và Ban chấp
hành trung ương của nó với nhiệm vụ của Chính quyền xôviết; tăng thêm trách
nhiệm và tính chủ động cho các cán bộ xôviết và các cơ quan xôviết, còn về đảng
thì quyền lãnh đạo chung công tác của các cơ quan nhà nước gọp chung lại, mà
không can thiệp một cách quá thường xuyên không chính qui và thường là nhỏ nhặt
như hiện nay”.
V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước có đủ năng lực và phẩm chất cách mạng. Người yêu cầu những
người lãnh đạo “Gồm những người có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất, có kinh
nghiệm nhất”, “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống

trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Người
yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải thành thạo trong công việc của mình, phải
có trình độ chuyên môn cao, Người chỉ ra rằng: “Làm sao các đồng chí có thể quản
lý được nếu không có được uy tín chuyên môn… Nếu không có kiến thức đầy đủ,
nếu không tin thông khoa học quản lý”.
Để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước V.I.Lênin hết sức quan tâm
đến vấn đề đạo tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người chỉ rõ: “Muốn đổi mới bộ máy nhà
nước của chúng ta phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: Một là học
tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước
ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa… phải làm sao cho học
thức thực sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng
khít của cuộc sống”. V.I.Lênin nhấn mạnh yêu cầu tự giác học tập, rèn luyện trong

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

14

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

nhà trường, trong thực tiễn công tác, thi viết sách giáo khoa về quản lý, cử công
nhân và hồng quân ưu tú ra nước ngoài học tập, nghiên cứu.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước, V.I.Lênin cũng dành sự quan tâm thích
đáng đối với công tác tuyển chọn, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ. Người yêu cầu khi
tuyển chọn, đề bạc, bổ nhiệm cán bộ phải đánh giá theo các tiêu chuẩn: “Về mặt
trung thực; về lập trường chính trị; về mặt hiểu biết công việc; về năng lực quản lý”
và không chần chừ, do dự, phải mạnh dạng thay đổi những cán bộ yếu kém, không

chịu học tập.
Gắn với vấn đề đào tạo, rèn luyện cán bộ, V.I.Lênin kịch liệt đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Người viết: “Kẻ thù bên trong tệ hại nhất của chúng ta, chính là anh chàng quan
liêu” và cảnh báo “Những người cộng sản đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có
cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”. Đấu tranh chống quan liêu phải
gắn với đấu tranh chống lãng phí và những lề thói của người sản xuất nhỏ. Người
căn dặn: “Chỉ có làm cho bộ máy của chúng ta trong sạch đến tột mức, chỉ có giảm
bớt đến mức tối đa tất cả những cái không tuyệt đối cần thiết, chúng ta mới có thể
đứng vững được và đứng vững như thế, không phải là đứng vững ở trình độ một
nước tiểu nông, ở trình độ eo hẹp về mặt đó, mà là ở trình độ ngày càng vươn lên
lên nền đại công nghiệp cơ khí”. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo về sự thất bại của
chủ nghĩa xã hội nếu như không đấu tranh chống lại, quan liêu, tham nhũng, lãng
phí cũng như căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”, coi thường việc học tập, rèn luyện. Để
đấu tranh có hiệu quả với những căn bệnh ấy, vấn đề mấu chốt là kiểm tra, kiểm
soát hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước. Người nhấn
mạnh: “Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc thực tế công tác – mấu chốt
của toàn bộ công tác của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy và chỉ có ở
đấy”.
V.I.Lênin quan tâm củng cố mối liên hệ máu thịt giữa các tổ chức bộ máy
của Đảng, Nhà nước với quần chúng coi đây là điểm khác biệt cơ bản giữa chế độ
tư bản chủ nghĩa với chế độ xã hội chủ nghĩa. Người yêu cầu tổ chức bộ máy của
Đảng và Nhà nước phải “Liên hệ với quần chúng. Sống trong lòng quần chúng. Biết

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

15

SVTH: Hồ Thị Bé Lam



Luận văn tốt nghiệp

tâm trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến quần chúng. Dành
được lòng tin tuyệt đối của quần chúng. Những người lãnh đạo không được tách rời
khỏi quần chúng bị lãnh đạo, đội tiên phong không được tách rời khỏi toàn bộ đội
quân lao động”. Giữ mối quan hệ với quần chúng, phát huy tối đa quyền làm chủ
của họ sẽ tạo nên sức mạnh vô địch của nhà nước và chế độ mới. Người yêu cầu
phải “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem
thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn… Đó là một trong những nhiệm vụ
cấu thành của cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội”.
Trong tổ chức, hoạt động của nhà nước, V.I.Lênin còn quan tâm đến
nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là vấn đề quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá
nhân phụ trách. Người cho rằng: “Lãnh đạo tập thể là điều cần thiết để giải quyết
các công việc của nhà nước công nông. Nhưng mọi sự thoái hóa về lãnh đạo tập thể,
mọi sự lệch lạc đưa đến tình trạng quan liêu, thiếu tin thần trách nhiệm, mọi sự
chuyển biến của các cơ quan lãnh đạo tập thể thành chổ bàn cải suông, điều là
những tai hại rất lớn, cần phải chấm dứt cho bằng được, hết sức mau chóng, không
được ngại dù bất cứ biện pháp nào”. Người đòi hỏi “Một người nhất định hoàn toàn
chịu trách nhiệm về việc thực hiện một công việc nhất định”, “Nếu chế độ tập thể
lãnh đạo là cần trong việc thảo luận các vấn đề văn bản thì cũng cần có chế độ trách
nhiệm cá nhân và cá nhân điều khiển để tránh hiện tượng lề mề và hiện tượng trốn
trách nhiệm”.
Trong hoạt động của nhà nước Xôviết V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn
đề xây dựng pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa,
pháp luật là ý trí của nhà nước và của nhân dân lao động. Theo V.I.Lênin, “Nếu nó
là ý chí của nhà nước thì phải được biểu hiện dưới hình thức một đạo luật do chính
quyền đặt ra; nếu không thế thì hai tiếng “ý chí” chỉ là một sự rung động không khí
do những âm thanh rỗng tuếch gây nên”. Người cho rằng trong giai đoạn đầu của
chủ nghĩa xã hội, do tác động của nhiều yếu tố liên quan đến văn hóa, đến trình độ

phát triển kinh tế - xã hội, đến tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ… Nên
người ta chưa ngay lập tức tự giác tuân theo mọi luật lệ của Chính quyền xôviết, vì
vậy “Chúng ta cần có nhà nước. Các tòa án xôviết phải là những cơ quan của nhà

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

16

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

nước vô sản, thực hiện sự cưỡng bức ấy và nhiệm vụ to lớn của tòa án là phải giáo
dục dân chúng về kỷ luật lao động”. V.I.Lênin yêu cầu phải chấp hành nghiêm túc
pháp luật của Chính quyền xôviết, nhất là cơ quan, cán bộ Đảng, nhà nước. Khi cán
bộ đảng viên vi phạm pháp luật phải xử nặng hơn nhân dân. Pháp chế xã hội chủ
nghĩa phải được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn quốc, nghĩa là mọi vi phạm
pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, không thể “Dung túng quan điểm muôn
thuở của nước Nga và những tập quán nữa man rợ muốn duy trì pháp chế của tỉnh
Caluga cho khác với pháp chế của tỉnh Cadan”. Khi thực hiện chính sách kinh tế
mới, các quan hệ kinh tế, dân sự, được mở rộng thì càng đòi hỏi phải quan tâm hoàn
thiện pháp luật, tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Người chỉ rõ: “Hiện nay chúng ta phải phát
triển sự trao đổi của dân chúng; chính sách kinh tế mới đòi hỏi điều đó, mà cái đó
lại đòi hỏi phải có pháp chế cách mạng rộng lớn hơn… Điều kiện của một chính
quyền vững vàng, chắc chắn và tiến bộ, sự trao đổi của dân chúng càng phát triển,
thì lại càng phải cấp bách đề ra khẩu hiệu kiên quyết phải có pháp chế cách mạng
rộng lớn hơn”.
Trên đây là những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về nhà nước và pháp luật

kiểu mới. Khác với các Mác và Ăngghen, V.I.Lênin là người trực tiếp lãnh đạo
cuộc đấu tranh giành chính quyền và xây dựng nhà nước kiểu mới – nhà nước
xôviết, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân Nga. Vì vậy, những tư tưởng
quan điểm của người hết sức phong phú và còn nguyên giá trị, ý nghĩa thời sự đối
với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền kiểu mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân
đấu tranh giành chính quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta. Mặc dù trong
di sản của Người không đề cập đến khái niệm nhà nước pháp quyền nói chung và
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng, nhưng xét về nội dung khoa học
thì tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới thể hiện
khá đầy đủ, sâu sắc những đặc trưng, nội dung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan điểm, tư tưởng của Người về nhà nước pháp

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

17

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

quyền thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin với
việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức kinh nghiệm của nhân loại, vận
dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật kiểu mới có nội dung rất
phong phú, Người không chỉ quan tâm đến vấn đề giành chính quyền về tay nhân
dân mà còn rất quan tâm đến vấn đề khó khăn, phức tạp hơn là xây dựng nhà nước
mới của dân, do dân, vì dân như thế nào. Có thể khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí

Minh về nhà nước kiểu mới trên những điểm chủ yếu sau:
Một là, giai cấp vô sản phải xây dựng chính đảng cách mạng để tổ chức
lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Từ thực
tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và Châu Âu, C.Mác và Ăngghen đã đi đến kết luận
rằng: Giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng công nhân là giai đoạn giai cấp vô sản
tự xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ; mục tiêu của
cách mạng… Sẽ không nên là chuyển giao bộ máy quân phiệt quan liêu từ kẻ này
sang kẻ khác như trước nữa mà là đập tan bộ máy ấy. V.I.Lênin cho rằng, việc đập
tan bộ máy nhà nước tư sản thiết lập nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản là vấn
đề cơ bản của học thuyết mácxít về nhà nước và chỉ rõ những yếu tố cần thiết và
khả năng giành chính quyền về tay nhân dân trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã
phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Vận dụng những tư tưởng của C.Mác, Ăngghen
và Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm trước hết đến vấn đề giành
chính quyền về tay nhân dân. Theo Người, cách mạng Việt Nam không thể đi theo
con đường Cách mạng tư sản Pháp và Mỹ. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ điều kiện
bảo đảm thắng lợi của cách mạng vô sản, trước hết là xây dựng chính Đảng của giai
cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng, lý luận đấu tranh cách
mạng. Chính đảng ấy có sứ mệnh tổ chức, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giành
chính quyền về tay nhân dân.
Hai là, về xây dựng nhà nước kiểu mới: Trong di sản tư tưởng của Hồ Chí
Minh, tư tưởng về tiến hành cách mạng của nhân dân là sự phát triển sáng tạo của lý
luận chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản, trong quá trình lãnh đạo, xây
dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã để lại di sản vô giá cả về lý

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

18

SVTH: Hồ Thị Bé Lam



Luận văn tốt nghiệp

luận lẫn thực tiễn trên lĩnh vực này. Có thể khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước kiểu mới trên những quan điểm cơ bản dưới đây:
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh và phân tích cụ thể bản chất của nhà nước xã
hội chủ nghĩa, Người khẳng định giai cấp công nhân, Đảng của giai cấp công nhân
có vai trò là người lãnh đạo nhà nước và xã hội. Vì thế, bản chất giai cấp của nhà
nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ nhà nước xã hội chủ nghĩa phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, phải thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Người cho rằng: Sở dĩ giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo là do nó có “đặc tính
cách mạng”. “Đặc tính của giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ
chức, có kỷ luật. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các
tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp
công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo”. [03. tr.212]
Nhà nước kiểu mới là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Bên cạnh nhấn mạnh tính giai cấp của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ trong nhà nước ấy tính giai cấp hòa quyện với tính nhân dân
và tính dân tộc, “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi
quyền lực đều là của nhân dân, tức là của giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản
dân tộc. Bốn giai cấp ấy do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh
làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước, để thực hành
dân chủ chuyên chính”, “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm
chủ”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề đặt ra là làm sao để tất cả quyền lực
nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là người làm chủ nhà nước
và xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh rồi thì
làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì chuyển giao cho dân chúng số
nhiều, chớ để trong tay bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng

mới được hạnh phúc”. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ xã hội thông qua các cơ
quan nhà nước do nhân dân bầu ra, hoặc trực tiếp tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, bãi

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

19

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

miễn những người không xứng đáng, kể cả những người làm việc trong Chính phủ.
Đó là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của
mình… Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt
mình thi hành chính quyền ấy.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao
động. Vậy, công nhân, nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: Hiện nay,
nhân dân lao động ta là những người làm chủ nước ta, chứ không phải là những
người làm thuê cho giai cấp bóc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ
điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình… Đã là
người chủ Nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà… Đã là
người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”.
Nhà nước kiểu mới là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý xã
hội theo pháp luật và kết hợp chặt chẽ với giáo dục tư tưởng, đạo đức.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy được tầm quan trọng của tính hợp pháp của
nhà nước, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và hoạt động của nhà nước,
nhất là trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Trong nhận thức và trong
hành động, Hồ Chí Minh đã thể hiện được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng

đức trị và pháp trị.
Trong công tác lãnh đạo nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật, tăng cường
pháp chế, Hồ Chí Minh coi trọng biện pháp phòng ngừa, răn đe hơn là trừng trị,
“phòng bệnh” hơn “chữa bệnh”.
Trong điều kiện đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay, những tư tưởng,
quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu
vận dụng cho phù hợp.
Người cũng nói rõ: “Giới hạn” của tự do, dân chủ rộng rãi, tự do ở đây sẽ là
tự do trong kỷ luật, không phải là tự do vô Chính phủ: “Nhân dân ta hiện nay có tự
do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do
của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự
do của người khác là phạm pháp”.

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

20

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước vì dân và chịu trách nhiệm trước
nhân dân, bảo đảm cho công dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước và toàn xã
hội.
Hồ Chí Minh nêu chỉ định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ
có một mục đích là: Hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc phục vụ nhân dân”. [03, t.7,
tr.499]

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các cơ quan
của Đảng, Nhà nước phải hết sức chăm lo đời sống của nhân dân, lãnh đạo tổ chức,
giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…
Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của Nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước nếu không làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Người chỉ rõ: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là
Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Trong Nhà nước Xã hội chủ nghĩa quyền và nghĩa vụ của công dân luôn
gắn bó với nhau. Nhà nước công nhận và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền
tự do, dân chủ của mình, còn công dân phải làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và
xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước trong sạch; ngăn chặn, loại trừ
được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy
nhà nước.
Hồ Chí Minh thấy rõ những căn bệnh này đe dọa sinh mệnh của Đảng, của
nhà nước kiểu mới và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng là giặc nội xâm, là kẻ thù của
chủ nghĩa xã hội.
Sự quan tâm lo lắng đặc biệt của Hồ Chí Minh đối với việc đấu tranh tẩy trừ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các căn bệnh khác trong bộ máy nhà nước kiểu
mới được minh chứng trên những điểm sau đây:

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

21

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp


Một là: Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh đã dành bài học đầu tiên là “Tư
cách một người cách mệnh” để huấn luyện cán bộ, trong đó chú ý đến đạo đức và
những phẩm chất của người cán bộ cách mạng.
Hai là: Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh nhận
thấy những căn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực
khác đã phát sinh trong bộ máy nhà nước kiểu mới. Người nhấn manh: “Ai đã phạm
những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính
phủ sẽ không khoan dung”. [03, t.4, tr.58]
Ba là: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề đạo
đức, phẩm chất của cán bộ như: Sửa đổi lối làm việc (1947), phải tẩy sạch bệnh
quan liêu (2/ 9/1950)…
Bốn là: Trong hầu hết các bài nói, bài viết Hồ Chí Minh điều đề cập đến
vấn đề đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của đội ngũ cán
bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước kiểu mới
Đây là vấn đề mà chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Người cho rằng:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. [03, t.5, tr.269]
“Muôn việc thành công hoặc thất bại, điều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là
một chân lý nhất định”. [03, t.5, tr.240]
Trong vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh những vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức.
Hai là, về công tác lựa chọn, đánh giá sử dụng và chính sách đối với cán
bộ, công chức.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước kiểu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết năm cách đối xử
đúng đắn với đội ngũ cán bộ là:
“Chỉ đạo – thả cho họ làm, thả cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng
không sợ. Nhưng phải luôn luôn tùy theo hoàn cảnh mà bày vẻ cho họ về phương


GVHD: Nguyễn Đại Thắng

22

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

hướng canh tác, cách thức công tác, để cho họ phát triển năng lực và sáng kiến của
họ…
Nâng cao – luôn luôn tìm cách cho họ học thêm lý luận và cách làm việc…
Kiểm tra – không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm
tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Giao
công việc mà không kiểm tra đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu
dấu cán bộ.
Cải tạo – khi họ sai lầm thì dùng cách “thuyết phục” giúp cho họ sửa
chữa…
Giúp đỡ - phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ đau
ốm phải có thuốc than. Tùy theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình”.
[03, t.5, tr.276]
Nhà nước kiểu mới phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ
máy Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong hoạt đông của bộ máy nhà nước kiểu
mới, việc kiểm tra, giám sát là yêu cầu khách quan. Người nhấn mạnh “Muốn
chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành
không, thi hành có đúng không; muốn ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một
cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa
kiểm tra khéo về sau khuyết điểm bớt đi…

Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu.
Mới biêt rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan.
Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và các nghị quyết”.
Với tư tưởng và quan điểm trên Hồ Chí Minh chỉ rõ thanh tra, kiểm tra,
giám sát trong nhà nước kiểu mới không chỉ xử lý vi phạm mà chủ yếu là sửa chữa
khuyết điểm, là “Tai mắt” của trên là “Người bạn” của dưới.
Quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới thể hiện sự
kết tinh tri thức, tinh hoa của nhân loại trong lĩnh vực này với chủ nghĩa Mác –
Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng, quan điểm đó là di sản lý
luận vô giá của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị phổ biến đối với phong

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

23

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ. Chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta, vì vậy chúng ta
cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, vận dụng đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước kiểu mới, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân vì nhân dân ở nước ta hiện nay.

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

24


SVTH: Hồ Thị Bé Lam


Luận văn tốt nghiệp

Chương 2: VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ
SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG ĐỂ XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Thực trạng việc nhận thức, vận dụng quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng việc nhận thức về quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, vận dụng
sáng tạo các quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin; đồng thời, nghiên cứu, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa của nhân loại, bao gồm các tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước
pháp quyền, tổ chức nhà nước và kinh nghiệm áp dụng các học thuyết đó của các
nước trên thế giới để đưa vào thử nghiệm và từng bước xây dựng, hoàn thiện ở Việt
Nam. Đây là quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc, không sao chép, rập
khuôn, giáo điều mà luôn sáng tạo để vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch
sử cách mạng Việt Nam. Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986) đến nay tư tưởng về
Nhà nước pháp quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các văn
kiện của Đảng phản ánh quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và
toàn diện hơn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Kế thừa các quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa của Đại hội IX, Đại hội X của Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những

nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội. [14, tr.159]

GVHD: Nguyễn Đại Thắng

25

SVTH: Hồ Thị Bé Lam


×