Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

XÂY DỰNG TÌNH đoàn kết các dân tộc ANH EM KINH – KHMER – HOA – CHĂM ở TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.26 KB, 51 trang )

z

Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

XÂY DỰNG TÌNH ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC ANH EM
KINH – KHMER – HOA – CHĂM Ở TỈNH TRÀ VINH
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204
Giảng viên hướng dẫn:
Th.S. GVC Trần Thị Tuyết Hà

Sinh viên thực hiện:
Kim Trường Tưởng
MSSV: 6096132

Cần Thơ, Tháng 4 - 2013
SVTH: Kim Trường Tưởng

1

MSSV: 6096132



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

LỜI CẢM TẠ

Con xin kính ơn Cha Mẹ đã cho con có ngày hôm nay, cho con từng miếng
cơm tấm áo, cho con được bằng bạn bằng bè, và trên hết là đã luôn dõi theo bước
chân con trong suốt cuộc đời. Cha mẹ đã luôn đứng sau ủng hộ con, luôn nâng đỡ
khi con vấp ngã, và không bỏ rơi con khi con thất bại. Con thật sự biết ơn và
không bao giờ dám quên, và đó sẽ giúp con tự tin bước vào đời, vì con biết chúng
con luôn có tình thương của cha mẹ, tình thương đó luôn là niềm kiêu hãnh trong
suốt cuộc đời con.
Em xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô Trường Đại Học Cần Thơ. đặc
biệt là Quý Thầy Cô Khoa Khoa Học Chính Trị, đã tận tình giảng dạy truyền đạt
cho em những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Cô Trần Thị Tuyết Hà, người đã đóng
góp ý kiến, giúp em định hướng đúng đắn về đề tài, giúp em nhận ra những điểm
khuyết trong kiến thức, và sửa những sai lầm dù là nhỏ nhặt để em có thể hoàn
thành thật tốt đề tài này.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cám ơn đến Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh,
Ban dân tộc tỉnh Trà Vinh. Đã giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm tài liệu có liên quan
đến đề tài luận văn mà tôi đang nghiên cứu.
Xin cảm ơn tất cả bạn bè đã và đang động viên, giúp đỡ cho em trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thành tốt luận văn trong phạm vi và khả
năng của mình, nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế.
Em kính mong nhận được sự cảm thông, chỉ bảo từ Thầy Cô và các ý kiến đóng
góp từ các bạn sinh viên
Tác giả


Kim Trường Tưởng

SVTH: Kim Trường Tưởng

2

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong chiều dài lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta phải đương
đầu với thế lực hung hãn, có lúc phải đối trọi với đội quân hùng mạnh nhất, có lúc
gặp muôn nghìn khó khăn nhưng cuối cùng dù kẻ thù có lớn mạnh tới đâu thì cuối
cùng nhân dân ta cũng dành được thắng lợi vẻ vang. Đó là nhờ sự đoàn kết yêu
nước nồng nàng của dân tộc ta, từ xưa đến nay sẵn sàn hi sinh vì độc lập dân tộc
của nhân dân ta và dưới sự lãnh đạo tài tình , sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính
yêu của dân tộc đã đảy lùi thực dân pháp và đế quốc Mỹ. Trong thời chiến thì tinh
thần đoàn kết đó được thể hiện, đó là sự đoàn kết của dân tộc ta một lòng tạo thành
một sức mạnh tinh thần chống giặc ngoại xâm , chống lại những âm mưu của kẻ
thù, ngày nay đất nước ta đang trên con đường xây dựng đất nước Việt Nam ngày
càng giàu đẹp thì tinh thần đoàn kết đó của các dân tộc anh em vẫn tiếp tục cùng
nhau chung sức, đoàn kết xây dựng đất nước. Đó là do nhờ Đảng và Nhà Nước ta
đã vận dụng tốt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh và

của Đảng về đoàn kết dân tộc và với những chính sách đúng đắng của Đảng và
nhà nước, góp phần xây dựng, phát huy tình đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng
anh em người Việt. Đất nước ta có trên 54 dân tộc anh em gắn bó lâu dài từ xưa
đến nay tinh thần đoàn kết dó vẫn duy trì và phát huy, tuy nhiên vẫn còn một số ít
người đồng bào dân tộc tiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi sự lĩnh hội và
tiếp thu tình đoàn kết, chung sức góp phần xây dựng đất nước còn chia rẽ về dân
tộc, các phần tử âm mưu diễn biên hòa bình cũng lợi dụng vấn đề dân tộc nhằm
chia rẽ tình đoàn kết của dân tộc ta. Để góp phần xây dựng, phát huy tình đoàn kết
của dân tộc trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc từ xa xưa của dân tộc ta của
Ông Cha ta cho đến ngày nay nước ta đang trong thời kỳ xây dựng đất nước tinh
thần ấy, sức mạnh ấy vẫn ngày càng phát huy tất cả điều đó là nhờ tinh thần đoàn
kết của đân tộc ta từ xưa đến nay tiếp nối và phát huy truyền thống tôt đẹp của dân
tộc Việt Nam. Tỉnh Trà Vinh là quê hương em sinh ra và lớn lên, từ xưa đến nay
SVTH: Kim Trường Tưởng

3

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

có các dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa – Chăm, các dân tộc sống trong trong
một cộng đồng hòa viện vào nhau, cùng nhau hợp tác, đoàn kết trong cộng đồng
dân tộc anh em, tuy nhiên vẫn còn một số ít người họ còn phân biệt dân tộc làm
hạn chế tình đoàn kết, ảnh hưởng đến sự phát triển tỉnh Trà Vinh. Thấy được tầm
quan trọng đó nên em quyết định chọn đề tài “Xây dựng tình đoàn kết các dân tộc
anh em Kinh _ Khmer _ Hoa - Chăm ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.”. Làm đề tài luận

văn tốt nghiệp của em, để góp phần cho mọi người thấy rõ hơn và nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề, cùng nhau chung sức, sống chang hòa vào nhau, cùng
nhau hợp tác, chia sẽ kinh nghiệm, giao lưu văn hóa,…. đặt biệt là những người ở
quê hương Trà Vinh nói riêng và các dân tộc anh em trong cộng đồng người Việt
Nam nói chung. Chúng ta là thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Chúng
ta cần phải tiếp nối truyền thống, tinh thần đoàn kết tốt đẹp từ xưa đến nay của ông
cha ta cần phát huy hơn nữa góp phần xây dựng tình đoàn kết các dân tộc anh em
Kinh – Khmer – Hoa – Chăm trên quê hương Trà Vinh nói riêng và xây dựng đất
nước Việt Nam ta ngày càng phát triển, giàu đẹp hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghên của đề tài.
2.1 Mục đích
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về đoàn kết dân tộc, xây dựng tình đoàn kết các
dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa – Chăm, từ đó khảo sát thực trạng và đề xuât
một số giải pháp xây dựng tình đoàn kết các dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa
– Chăm ở tỉnh Trà vinh hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ:

Trình bày và phân tích một số vấn đề lý luận về đại đoàn kết dân tộc và tầm quan
trọng trong việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa –
Chăm ở tỉnh Trà vinh hiện nay.
Nghiên cứu thực trạng xây dựng tình đoàn kết các dân tộc anh em Kinh –
Khmer – Hoa – Chăm ở tỉnh Trà vinh trong thời gian qua.

SVTH: Kim Trường Tưởng

4

MSSV: 6096132



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng tình đoàn kết
các dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa – Chăm ở tỉnh Trà vinh hiện nay.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.

Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng tình đoàn kết các dân tộc anh
em Kinh – Khmer – Hoa – Chăm trên địa bàn tỉnh Trà Vinh từ góc độ tuyên
truyền, phổ biến một số hoạt động công tác tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin
,của Hồ Chí MInh và của Đảng.
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu trong phạm vi từ năm gần đây cho đến
năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng; đồng thời sử
dụng phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, thu thập tài liệu, nghiên
cứu va xử lý tài liệu, sưu tầm sách báo, các tài liệu trên mạng Internet và các thông
tin cặp nhật trên đài phát thanh, thời sự, dánh giá thực trạng, tổng hợp tài liệu để
vận dụng đề xuất giải pháp xây dụng tình đoàn kết xây dựng tình đoàn kêt các dân
tộc anh em kinh – Khmer – Hoa – Chăm ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.

5. kết cấu niên luận.
Trong luận văn ngoài lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và
phần kết luận thì luận văn gồm có 3 chương.

SVTH: Kim Trường Tưởng


5

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

1.1.Lý luận chung về đại đoàn kết dân tộc
1.1.1. Khái niệm về đại đoàn kết dân tộc
Khái niệm đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: là
một hệ thống nhữngluận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tập
hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệpđ ấ u t r a n h vì
đ ộ c l ậ p d â n t ộ c , d â n c h ủ v à c h ủ n gh ĩ a x ã h ộ i . N ó i mộ t c á c h
k h á c , đ ó l à t ư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng
trong sự nghiệp giải phóng dântộc, giải phóng giai đoạn, giải phóng con
người.
1.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đại đoàn kết dân tộc
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước nồng nàng từ xưa đến nay. Xem dân là
gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết dân tộc,
đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí
Minh còn cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn
kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng.
Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô
địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc

cho con người. Cách đây 64 năm, vào ngày 2/9/1945, chủ tịch hồ chí minh đã đọc
bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước việt nam dân chủ cộng hoà. 64 năm đã
qua đi nhưng bài học về tinh thần đoàn kết dân tộc trong tư tưởng hồ chí minh vẫn
còn nguyên giá trị. Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương
lớn của đảng, chính sách của nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Các hình thức tập hợp nhân dân đa
SVTH: Kim Trường Tưởng

6

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủxã hội được phát huy; bước đầu đã
hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội.Có thể khẳng định: chính sách
đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng đã thực sự là một bộ phận của đường lối đổi
mới và góp phần to lớn vào những thành quả của đất nước.Tuy nhiên, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa đảng, nhà nước và nhân dân đang đứng
trước những thách thức mới. Lòng tin vào đảng, nhà nước và chế độ của một bộ
phận nhândân chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức
tạp, lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống. Nhân dân bất
bình trước những bất công xã hội, trước tệt ham nhũng, quan liêu, lãng phí,
v.v…Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém trên là do: đảng ta chưa kịp thời phân
tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội trong quá trình

đổi mới đất nước và nhữngmâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân để kịp thời
có chủ trương, chính sách phù hợp; có tổchức đảng, chính quyền còn coi thường
dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt trận; ở không ít nơicòn tư tưởng định kiến, hẹp
hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng;
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, v.v… không thực
hiện được vai trò tiên phong gương mẫu.Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá
hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân
quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ đảng, nhà
nước và nhân dân ta.Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải
củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. cụ thể:một là, đảng ta phải luôn xác định
cách mạng việt nam là một bộ phận ko thể tách rời của cáchmạng vô sản thế giới,
việt nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách mạng,các xu
hướng trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ
trương phát huy sức mạnhdân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ
lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ
SVTH: Kim Trường Tưởng

7

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

1.1.3. Ý nghỉa của đại đoàn kết dân tộc

Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc
với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những
điểm chính sau:- Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định
mọi thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết,
chia rẽ là thất bại.- Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung.
Không đoàn kết một chiều, đoànkết hình thức, nhất thời.- Đoàn kết trong tổ chức,
thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổchức
không tách rời nhau.- Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương,
từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân
dân.- Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới
tương lai.- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của đảng, là biện
pháp phát huy sức mạnh của đảng, của toàn dân tộc.- Muốn xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong đảng. Thực hiện đồng bộ đoàn kết
trong đảng - đoàn kết toàn dân - đoàn kết quốc tế.- Đoàn kết trong mọi chủ trương,
chính sách của đảng và nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi
thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc được C.Mác và Ph.Ăngghen
xem là một bộ phận của hệ vấn đề dân tộc và giai cấp, tức là các ông xem xét vấn
đề dân tộc dưới góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư
sản. Các ông nhấn mạnh rằng: xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng
dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Đến V.I.Lênin, vấn đề dân tộc
được đặt ra một cách trực tiếp khi Người và Đảng Bônsêvích lãnh đạo Cách mạng
Tháng Mười vĩ đại và sau đó, lãnh đạo công cuộc bảo vệ thành quả Cách mạng,
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã đề ra các nguyên tắc cho việc
giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, trong đó Người đặc biệt
nhấn mạnh về quyền bình đẳng và quyền tự quyết của tất cả các dân tộc, chống
SVTH: Kim Trường Tưởng


8

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

mọi đặc quyền của bất kỳ dân tộc nào đối với dân tộc khác, không thừa nhận quan
hệ có tính chất áp đặt giữa các dân tộc.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng về đại đoàn kết dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dựa trên những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,
Đảng ta đã coi trọng và làm tốt chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, góp
phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước, những thời cơ và thách thức mới cùng với những tác động từ bên ngoài
và cả những vấn đề nảy sinh trong nước đòi hỏi vấn đề dân tộc phải được nhận
thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Ngay từ trước đổi mới, tại Đại hội IV - Đại
hội đầu tiên khi đất nước thống nhất sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng
dân tộc với sự huy động sức mạnh của toàn dân tộc trong đó đồng bào các dân tộc
thiểu số đã có những đóng góp hết sức to lớn cho cách mạng và kháng chiến, Đảng
ta đã khẳng định “việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những
nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam”. Chính sách dân tộc
của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo
những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn
hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng
tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Và để thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, ra

sức phát triển kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc, phát triển nông nghiệp, lâm
nghiệp, xây dựng các vùng kinh tế mới, các khu công nghiệp, mở mang giao thông
vận tải và thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, nghệ
thuật, khoa học, y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em,… nhanh chóng
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc ít người, đặc biệt
chú trọng vùng cao và vùng biên giới. Tiếp đó, Đại hội lần thứ V của Đảng nhấn
mạnh việc “phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc

SVTH: Kim Trường Tưởng

9

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể”. Đại hội VI của Đảng là Đại hội mở
đầu cho công cuộc đổi mới toàn điện đất nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đánh giá những thành tựu
đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng, thẳng thắn chỉ ra
những khó khăn, thách thức, nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm và rút ra những
bài học kinh nghiệm chủ yếu. Về vấn đề dân tộc, Đại hội khẳng định, “chính sách
dân tộc luôn luôn là một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội”. Đồng thời,
Đại hội nhấn mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự
củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính
cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng,
tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong

bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và
là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái
độ thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân
tộc của mỗi người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc
lớn” và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi. Sau Đại hội VI, trước
những yêu cầu đòi hỏi của thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày 27/11/1989, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế - xã hội miền núi đã góp phần thúc đẩy phát triển một bước quan
trọng kinh tế - xã hội miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tình hình
thế giới những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX có những biến
động to lớn. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ gây bất lợi cho phong trào
cách mạng thế giới trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng ta tiến hành
Đại hội lần thứ VII. Đại hội VII của Đảng đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội VI, hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển các chủ trương đổi mới của Đại hội
VI, đề ra các phương hướng, nhiệm vụ lớn cho 5 năm 1991 - 1995 và đặc biệt
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Điểm mới trong văn kiện Đại hội VII là ở chỗ, lần đầu tiên, chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc đã được Đảng ta đưa vào trong Cương
SVTH: Kim Trường Tưởng

10

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

lĩnh của Đảng với tên gọi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con
đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam”. Đại hội cũng khẳng định chính sách đoàn kết, bình đẳng,
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định việc phải có chính sách phát triển kinh
tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng
vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh
của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước. Trên cơ sở các quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề dân tộc, Hiến
pháp 1992, một lần nữa, khẳng định về quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở nước
ta. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, đã có
những thay đổi to lớn và sâu sắc so với thời kỳ bắt đầu đổi mới. Đại hội VIII của
Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử đó. Đại hội khẳng định: “Công cuộc
đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan
trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 - 1995 đã được hoàn thành
về cơ bản”. Về vấn đề dân tộc, Đại hội nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến
lược lớn”. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số,
miền núi, vùng sâu, vùng cao, đó là: “điều kiện sống và dịch vụ, hạ tầng cực kỳ
khó khăn, đất nông nghiệp thiếu, chưa đủ điều kiện tiến lên sản xuất hàng hóa;
GDP bình quân đầu người năm 1994 chỉ bằng 31% mức trung bình cả nước. Mật
độ đường giao thông chỉ có 0,09km/km2, còn 464 xã chưa có đường ô tô đến”.
Trước thực tế đó, Đại hội đã đề ra chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi
và vùng đồng bào dân tộc với mục tiêu khai thác mọi nguồn lực ở địa phương và
SVTH: Kim Trường Tưởng


11

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

huy động sức của cả nước để tạo bước tiến nhanh hơn về kinh tế - xã hội, ổn định
đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với tốc độ
bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung của cả nước; năm 2000 GDP bình quân
đầu người đạt gấp đôi năm 1994. Các khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc
đều phải có bước phát triển, khu vực có điều kiện thuận lợi phải phát triển với tốc
độ cao hơn để thúc đẩy, hỗ trợ các khu vực khác cùng phát triển. Tăng trưởng kinh
tế phải kết hợp hài hòa với phát triển xã hội - văn hóa, bảo đảm an ninh - quốc
phòng, phấn đấu giảm bớt khoảng cách giữa các vùng về mặt tiến bộ xã hội. Đồng
thời, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể về phát triển công nghiệp chế biến, phát
triển công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp, nông - lâm nghiệp, đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng, dịch vụ và đưa ra các giải pháp chủ yếu để đạt mục tiêu nói trên trong
đó nhấn mạnh việc nhà nước phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư
theo chương trình tổng hợp và có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp cho khu vực miền núi,
vùng cao, vùng sâu phát triển nhanh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng diễn ra trong bối cảnh thế kỷ XX vừa kết thúc, thế kỷ XXI vừa bắt đầu.
Toàn Đảng và toàn dân ta đã trải qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
VIII của Đảng, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội 1991 - 2000 và 15 năm đổi mới. Đại hội IX đã kiểm điểm và đánh giá những
thành tựu và khuyết điểm thời gian qua, đề ra những quyết sách cho thời kỳ tới,
phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động
viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vững
bước đi vào thế kỷ mới. Những năm đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch ra sức
lợi dụng những khó khăn và hạn chế của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở
Tây Nguyên để dụ dỗ, lôi kéo đồng bào phá hoại khối đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Đại hội IX của Đảng đặc biệt chú trọng vấn đề dân tộc và cụ thể hóa nhiều nội
dung mới ở chỗ, nếu như Đại hội VIII coi vấn đề dân tộc là “vấn đề có vị trí chiến
lược lớn” thì Đại hội IX khẳng định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc
luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Rằng, Đảng ta phải
SVTH: Kim Trường Tưởng

12

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng
hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí,
giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc
biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và
kháng chiến; Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc
hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc. Cụ thể hóa
tư tưởng chiến lược được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX và nâng cao hơn nữa
nhận thức của các cấp, các ngành về công tác dân tộc, Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (phần hai) đã ban hành Nghị quyết về công

tác dân tộc. Điều này, một mặt, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối
với đồng bào các dân tộc thiểu số và mặt khác cho thấy việc giải quyết vấn đề dân
tộc đang là sự đòi hỏi cấp thiết và cần phải có những chỉ đạo kịp thời. Nghị quyết
về công tác dân tộc đã đánh giá tình hình các dân tộc thiểu số và công tác dân tộc
trong thời gian qua, những thành tựu cơ bản cùng với những hạn chế, yếu kém và
nhất là đề ra những giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó.
Nghị quyết khẳng định năm quan điểm cơ bản trong việc thực hiện công tác dân
tộc ở nước ta: 1) Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; 2)
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc; 3) Phát triển toàn
diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng
dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực
hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản
sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của
SVTH: Kim Trường Tưởng

13

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất; 4) Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã

hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và
cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh
thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm
hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước; 5) Công
tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Hiện thực hóa
những quan điểm, giải pháp được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy là
việc các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số được triển khai đã tạo đà quan trọng cho sự phát triển và làm thay đổi rõ
rệt bộ mặt của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó cho thấy
những đổi thay trong thực tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số được bắt nguồn từ
chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Tiếp tục tư tưởng của Nghị quyết về công tác dân tộc được thông qua tại Hội nghị
lần thứ bảy, khóa IX, Đại hội X khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”. Các dân tộc
trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhấn mạnh
việc Đảng và Nhà nước phải tiếp tục chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá
đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá,
tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc đồng thời thực hiện tốt
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, vùng căn cứ cách mạng; Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.
Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 cũng là lúc Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ XI. Đây là Đại hội
có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao
SVTH: Kim Trường Tưởng

14


MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Báo cáo chính
trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng của nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Thực
hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc,
tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa,
ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ
dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và
các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Hiện nay, Nghị quyết của Đại hội XI
trong đó có vấn đề dân tộc đang được các cấp, các ngành liên quan triển khai trong
thực tế, đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Như vậy, xuyên suốt trong các nghị quyết
của Đảng là tư tưởng khẳng định sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc ở nước ta, chống mọi sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Dưới ánh sáng các nghị quyết

của Đảng, với những chương trình đầu tư đồng bộ và có trọng điểm, miền núi và
vùng đồng bào dân tộc đã có những đổi thay mạnh mẽ, vươn lên cùng với sự phát
triển chung của đất nước. Tuy nhiên, nếu như ở các Đại hội IX, X, Đảng ta khẳng
định vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề cơ bản mang tính chiến lược
của cách mạng Việt Nam thì ở Đại hội XI, Đảng ta coi đoàn kết các dân tộc có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Việc khẳng định như vậy là
đúng đắn, cần thiết nhưng có lẽ là chưa đủ. Bởi, vấn đề dân tộc là vấn đề rộng lớn,
SVTH: Kim Trường Tưởng

15

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

bao hàm nhiều nội dung chứ không thể chỉ là vấn đề đoàn kết các dân tộc. Cụm từ
“đoàn kết các dân tộc” chỉ đề cập tới một trong những khía cạnh của vấn đề dân
tộc, còn cụm từ “vấn đề dân tộc” bao hàm trong đó nội dung về “đoàn kết các dân
tộc”. Nhìn vào thực tiễn lịch sử thế giới cũng như hiện tại thấy rằng, vấn đề dân
tộc là một vấn đề lớn, chứa đựng những phức tạp tiềm ẩn dễ bùng phát và rất dễ bị
các thế lực thù địch lợi dụng nếu Nhà nước không có những sự quan tâm cần thiết
và những chính sách khôn khéo, đúng đắn. Việc Liên Xô sụp đổ là do nhiều
nguyên nhân trong đó không thể không kể đến việc nước này đã không coi trọng
đúng mức vấn đề dân tộc, chủ quan cho rằng vấn đề dân tộc đã được giải quyết
xong, giờ chỉ còn phải giải quyết vấn đề giai cấp. Song, thực tế đã bác bỏ quan
điểm sai lầm đó. Việc các nước cộng hòa lần lượt tuyên bố độc lập, tách ra khỏi
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, trên thực tế là tiếng chuông cảnh

tỉnh cho các quốc gia đa dân tộc trong việc phải chú trọng tới vấn đề dân tộc. Do
đó, thiết nghĩ, cần phải tiếp tục khẳng định theo tư tưởng của Hội nghị lần thứ bảy
khóa IX và của các Đại hội IX, X là: Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc là
vấn đề có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Điều này không chỉ
là vấn đề câu chữ mà có khẳng định như vậy mới bao quát và thấy hết những nội
dung của vấn đề dân tộc để từ đó có những giải pháp chiến lược, cơ bản và có
những chính sách đầu tư thỏa đáng nhằm tạo đà cho sự phát triển nhanh hơn của
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho đồng bào - yếu tố cơ bản để xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở
nước ta.
1. 3.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng
.

Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đoàn kết là một truyền thống cực kỳ

quý báu của nhân dân ta. Người cho rằng: “ muốn giải phóng các dân
tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu
tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Trong từng thời kỳ, từng

SVTH: Kim Trường Tưởng

16

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà


giai đoạn cách mạng ,có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và
phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau,
nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhân thức là vấn đề sống còn
của cách mạng. Đ o à n kế t kh ô n g p h ả i l à t h ủ đ o ạ n c h í n h t r ị n h ấ t t h ờ i
m à t ư t ư ở n g đ o à n k ế t l à t ư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì: đoàn
kết tạo nên sức mạnh, là thenchốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến
thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc
vào một mối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui
mô, mức độ của thành công. Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống
còn của cách mạng. chủ tịch Hồ Chí Minh nói:“Toàn dân Việt Nam chỉ có một
lòng: Quyết không làm nô lệ chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước Chỉ có
một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc
sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc
xung quanh Tổ q u ố c . D ù đ ị c h h u n g t à n , x ả o q u y ệ t đ ế n mứ c n à o ,
đ ụ n g đ ầ u n h ằ m b ứ c t ư ờ n g đ ó , c h ú n g cũng phải thất bại”. Để thấy rõ hơn
vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong thắng lợi của Cách Mạng
Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra:“Vì sao có cuộc thắng lợi đó? Một
phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân
đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo
đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực
lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”Từ
thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào
dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc
nàodân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn ”.Và Người khuyên dân ta
rằng:“ Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh ”
Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do
1.3.1.Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân


SVTH: Kim Trường Tưởng

17

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con
rồng cháu tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với
người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái, trai, giàu, nghèo. Nói
dến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ta đoàn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai
có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân
thì ta đoàn kết với họ”. Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa
truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan
dung, độ lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông,
trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng:
liên minh công nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn
dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc
càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại
đoàn kết dân tộc
1.3.2 Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc; đồng thời, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người
Đất nước ta trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước,

Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng
với con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng
ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ" tinh thần yêu nước gắn liền với
ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã
được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Đối với mỗi
người Việt Nam, yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự
nhiên, in đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng
chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần
SVTH: Kim Trường Tưởng

18

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã có
rất nhiều chuyện cổ tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước
- nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước"Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng
của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí

Minh về đại đoàn kết dân tộc. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế
thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Truyền thống
này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ
nước hàng ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn của người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ
thời các vua Hùng dựng nước, tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung…Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc
chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường
tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con
người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có
những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của cách
mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ
nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người đã
lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài nhưng cả năm ngón đều
thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết. Người
tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà
đoàn kết với họ. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không
phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào,
hãy cùng nhau đoàn kết vì nước, vì dân. Để thực hiện được đoàn kết, cần xóa bỏ
SVTH: Kim Trường Tưởng

19

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà


hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Để
thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu
dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc
tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm
gốc, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít “Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức
mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng,
là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết
dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu
triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, một khẩu hiệu hành động của
toàn Đảng, toàn dân tộc. nó phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức. Tổ chức
đó chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ
mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ
ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù
ở bất cứ nơi nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt
Nam, đều được coi là thành viên của Mặt trận.Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào
yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống
nhất có thể có những nét khác nhau, tên gọi của Mặt trận dân tộc thống nhất theo
đó, cũng có thể khác nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ
(1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận
Liên Việt (1946), Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam (1960), Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976). Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức
Chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo
các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu
nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống
nhất của tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Hiện nay, nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo
của đảng, việt nam đ a n g x â y d ự n g n ề n k i n h t ế t h ị t r ư ờ n g đ ị n h h ư ớ n g
x ã h ộ i c h ủ n g h ĩ a , x â y d ự n g n h à n ư ớ c p h á p quyền xã hội chủ nghĩa của

SVTH: Kim Trường Tưởng

20

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

dân, do dân, vì dân. Việt nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa
sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế
phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển.Trong những năm đổi mới, nền kinh
tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so vớicác nước khác trong
khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định.
Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không
ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên
trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những
năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nôi lực kết hợp với tranh thủ
ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về
cơ bản làm cho việt nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; nguồn lực conngười, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninhđược tăng cường; thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về
cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.Mặt khác,
việt nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau. Sự nghiệp
đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội để phát triển của đất nước. Đó
là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực là hết sức
quan trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp

thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên
thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành
công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh
sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinhtế độc lập tự chủ, đưa
việt nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực. Tuy vậy, chúng ta cũng
đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớntrên con
SVTH: Kim Trường Tưởng

21

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham nhũng, tệ quan liêu
cũng như sự suythoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường
lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước,gây bất bình và làm giảm
niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm
mọicách thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta do đảng cộng sản việt nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù
địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết củanhân dân ta, luôn kích động cái gọi là
“dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng ligián, chia rẽ nội

bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ, văn minh" đang đòi
hỏi toàn ðảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoànkết
toàn dân tộc ở chiều sâu. đặc biệt, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với giaicấp nông dân và đội ngũ tri
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
Tóm lại: Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống
yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành,
củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm
của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm
hồn của người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ thời các vua Hùng
dựng nước, tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung…Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu
và chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc
dân tộc được giữ vững.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ,
trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm,
mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan
dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể
SVTH: Kim Trường Tưởng

22

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà


tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có
ngón ngắn ngón dài nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn tay, để nói lên sự
cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây
chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”[Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.7, tr.438]. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước,
không phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã từng đứng về
phe nào, hãy cùng nhau đoàn kết vì nước, vì dân. Để thực hiện được đoàn kết, cần
xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí
Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước
lấy dân làm gốc, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít “Cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng”. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng,
là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi
của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận.

Chương II: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG TÌNH ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC
ANH EM KINH - KHMER – HOA – CHĂM Ơ TỈNH TRÀ VINH TRONG
THỜI GIAN VỪA QUA.

SVTH: Kim Trường Tưởng

23

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

2.1 Tình hình phát triển các dân tộc Kinh – Khmer – Hoa – Chăm ở Tỉnh
Trà Vinh hiện nay.
Trà Vinh là tỉnh nằm ở hạ lưu giữa sông Tiền và sông Hậu, có 65 km bờ
biển, diện tích đất tự nhiên 222.560 ha, dân số trên 1 triệu người, trong đó có trên(
69%) dân số là người kinh, 29% là người Khmer, 1% là người Hoa, và một số ít là
người Chăm. Toàn tỉnh có 342 cơ sở thờ tự tôn giáo, có khoảng 4.760 tu sĩ, chức
sắc, trong đó có 141 chùa khmer với khoảng 3.500 vị sư tu học theo phong tục và
hầu hết người Khmer theo đạo Phật, đa số sống bằng nghề nông, mặt bằng dân trí
thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, điều kiện phát triển kinh tế khó khăn, hộ nghèo luôn
chiếm tỷ lệ cao. Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer
có nền văn hóa dân tộc đặc trưng: tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ
thống chùa rất đặc thù. Kinh tế chủ yếu dựa vào chăn nuôi, và trồng trọt. Tuy là
vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hoá đa dạng, đặc biệt là văn hoá vật
thể và phi vật thể của người kinh – khmer – Hoa - Chăm. Như người Khmer có
chữ viết riêng, các lễ hội truyền thống như Chol chnam thmay (mừng năm mới),
Dolta (lễ cúng ông bà), Ok Om Bok (lễ cúng trăng), Lễ hội nghinh ông (lễ cúng
biển), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục tập quán có giá trị văn hoá
khác.(lễ hội nghinh ông diễn ra vào ngày 10 đến 12 tháng 5 hằng năm). Người
Khmer còn xây dựng trên địa bàn Trà Vinh nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hoà
quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Âng, toạ lạc tên khu đất rộng 4 ha, trong thắng
cảnh Ao Bà Om. Theo thống kê trên địa bàn Trà Vinh có tới 141 chùa Khmer. Lễ
hội cúng ông (Quan Công, địa phương gọi là "ông bổn") của người Hoa vào rằm
tháng 7 hàng năm tại huyện Cầu Kè. Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa
Giáo như Bãi San, Đức Mỹ... Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa Giáo
như Bãi San, Đức Mỹ... Nhà thờ tại thị xã Trà vinh có kiến trúc đẹp và cổ điển.
Giáo xứ Nhị Long huyện Càng Long có Cha cố rất trẻ thụ phong Linh mục lúc 28
tuổi (Cha Sơn). Qua chiều dài lịch sử gắn bó lâu dài của ba dân tộc anh em kinh –

Khmer – Hoa - Chăm ở Trà vinh. Đã hội tụ dầy đủ đặt điểm, truyền thống, văn
hóa, phong tục của các dân tộc anh em cùng chung sống giúp đỡ lẫn nhau tạo
SVTH: Kim Trường Tưởng

24

MSSV: 6096132


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: T rần Thị Tuyết Hà

thành cộng đồng dân tộc anh em sống hòa viện vào nhau, đã chung sống từ thời
xưa cho đến ngày nay thì tinh làng, nghĩa xóm, đoàn kết đấu tranh giữ nước. Nước
ta trải qua biết bao cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chống kẻ thù xâm lược cho dù
là một nước đế quốc hùng mạnh thế giới đã bị dân tộc Việt Nam, Cách mạng Việt
Nam đảy lùi đánh bại thắng lợi rực rỡ giữ nước cũng như đang trong thời kỳ xây
dựng đất nước ngày nay mối quan hệ đoàn kết đó vẫn duy trùy và phát huy hơn
nữa tình đoàn kết ba dân tộc anh em xây dựng Trà Vinh nói riêng và xây dựng đất
nước ta ngày càng giàu đẹp hơn. Đó là nhờ truyền thống đoàn kết của dân tộc
Việt Nam từ xưa đến nay và nhờ một phần vào việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc, để hiểu rỏ hơn nữa về việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy tình đoàn kết các dân tộc anh em
Kinh – Khmer – Hoa – Chăm ở tỉnh Trà Vinh hơn nữa.
2.2 Thành tựu xây dựng tình đoàn kết của các dân tộc Kinh – Khmer – Hoa
– Chăm ở tỉnh Trà Vinh trong thời gian vừa qua.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,

do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn
sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì
hòa bình độc lập và phát triển. Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất
nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình
hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến
bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế
của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất
nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp
tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bềnh
vững. Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Riêng ở tỉnh Trà vinh tình hình kinh tế - chính

SVTH: Kim Trường Tưởng

25

MSSV: 6096132


×