Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Phát huy vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho đồng bào Khơme ở tỉnh Trà Vinh hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.41 KB, 103 trang )













LUẬN VĂN:
Phát huy vai trò giáo dục pháp luật của
chính quyền cấp xã cho đồng bào Khơme
ở tỉnh Trà Vinh hiện nay









Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nhiệm vụ rất nặng nề, khó
khăn, phức tạp, song vấn đề quan trọng không kém đó là làm như thế nào để đưa
pháp luật vào cuộc sống, để pháp luật được mọi người tôn trọng và chấp hành đầy
đủ. Trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ thảo luận dự thảo luật Hôn nhân gia


đình ngày 10/10/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công bố đạo luật
này, chưa phải mọi việc đều xong, mà phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới
thực hiện được tốt”[36, tr.54]. Do đó, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trong nhân dân, tìm tòi những hình thức và biện pháp thiết thực, xây
dựng một cơ chế để mọi người dân đều có điều kiện tiếp cận với pháp luật, thực
thi quyền được thông tin về pháp luật và được hưởng dịch vụ tư vấn pháp lý là
yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là mục tiêu
được Nhà nước ta khẳng định tại Điều 2 Hiến pháp 1992. Để thực hiện được mục
tiêu đó, Nhà nước ta phải đổi mới toàn diện, trong đó pháp luật là phương tiện quan
trọng bảo đảm cho sự thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đặt ra. Pháp luật là phương
tiện mà thông qua đó chủ trương, chính sách của Đảng được thể chế hoá nhằm quản
lý xã hội. Để pháp luật đi vào cuộc sống không chỉ có một hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, minh bạch dễ hiểu, thực thi và khoa học mà còn phải phổ biến, tuyên truyền
giáo dục pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội hiểu và thực hiện đầy đủ các quy
định của pháp luật.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là sự tác động có hệ thống, có mục
đích của Nhà nước nói chung, của chính quyền các cấp, của các tổ chức kinh tế, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp nói riêng nhằm hình
thành và nâng cao ý thức pháp luật và thói quen thực hiện hành vi phù hợp các quy
định pháp luật của công dân. Với ý nghĩa đó, Chỉ thị 32/CT-TW của Ban Bí thư
(khoá IX) ngày 09-12-2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân
đã khẳng định:
Để đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế, Ban Bí thư yêu cầu cấp
uỷ, tổ chức đảng các cấp, các ngành thực hiện tốt các công tác sau: xác định
rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Trong những năm tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thật
tốt công tác này để góp phần chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp
luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân [2].
Cấp xã là một cấp trong hệ thống hành chính Nhà nước Việt Nam, là nơi trực
tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và nhiệm vụ của chính quyền cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống
của nhân dân, là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng
và Nhà nước.
Chính quyền cấp xã đã góp phần không nhỏ trong việc trực tiếp phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người dân. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật ở cấp xã được tiến hành một cách thụ động, sơ sài, nội dung,
hình thức chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Trà Vinh, là một trong những tỉnh nghèo của nước ta, với khoảng 30% dân
số của tỉnh là người dân tộc Khơme, công tác giáo dục pháp luật nói chung và công
tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã nói riêng được
các cấp uỷ đảng và chính quyền quan tâm, nội dung, hình thức, phương pháp thực
hiện được đổi mới do vậy, cũng đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy
nhiên trên thực tế, trong thời gian qua tại tỉnh Trà Vinh, vẫn còn một bộ phận nhân
dân trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số là người Khơme trình độ hiểu biết pháp
luật còn hạn chế, vi phạm pháp luật còn xảy ra nhiều, thậm chí có nơi còn phổ biến.
Vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho các tầng lớp nhân dân chưa
được chú trọng, đặc biệt là giáo dục pháp luật cho người dân tộc Khơme.

Là một cán bộ công tác tại trường Chính trị tỉnh Trà Vinh tôi nhận thấy công
tác giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh
hiện nay là vấn đề cần quan tâm, nghiên cứu nên tôi chọn đề tài: “Phát huy vai trò
giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho đồng bào Khơme ở tỉnh Trà
Vinh hiện nay”. Đây là một đề tài rất cần thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn đối với tỉnh có đông đồng bào Khơme sinh sống như Trà Vinh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề phát huy vai trò của chính quyền cấp xã và giáo dục pháp luật là
những vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu về hai vấn đề này như:
- Công trình đã viết thành sách:
TS Trần Nho Thìn, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Viện
Khoa học tổ chức Nhà nước, Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Đổi
mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành
chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của quyền cấp xã, phường, Nxb Thống kê, 1999.
Bàn về giáo dục pháp luật, của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thị
Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Xây dựng ý thức pháp luật
và lối sống theo pháp luật do GS, TSKH Đào Trí úc chủ biên, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý
hành chính của TS Lê Đình Khiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Tìm
hiểu văn hoá dân tộc Khơ-me Nam Bộ, Nxb Tổng hợp Tiền Giang, 1998.
- Các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ nghiên cứu về phổ biến giáo
dục pháp luật như:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật trong
công cuộc đổi mới, đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223 ĐT của Viện Nghiên

cứu khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp. Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục pháp
luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, đề tài khoa học cấp Bộ của Viện
Nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo dục pháp luật
trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp Bộ của
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai
đoạn tới, đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 2004
Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến giáo dục pháp luật: ý

thức pháp luật và giáo dục ở Việt Nam, luận án PTS Luật học của tác giả Nguyễn
Đình Lộc (bảo vệ ở Liên Xô), 1997; Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, luận án PTS Luật học của tác giả Trần Ngọc Đường
(bảo vệ ở Liên Xô), 1998; Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam,
luận án PTS Luật học của tác giả Dương Thị Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật
trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật)
ở nước ta hiện nay, luận án PTS Luật học của tác giải Đinh Xuân Thảo, 1996; Giáo
dục pháp luật cho người Khơ-me Nam Bộ (qua thực tiễn tỉnh An Giang), Luận văn
Thạc sĩ Luật học của Lê Văn Bền, Hà Nội, 1998 và một số luận văn Thạc sĩ Luật
học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác cũng
đề cập đến vai trò của chính quyền cấp xã và chủ đề giáo dục pháp luật.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy hay các cán
bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan Nhà nước được công bố trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của tập thể và
cá nhân đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền
cấp xã và giáo dục pháp luật. Song cho đến nay chưa có công trình, luận văn, luận
án, đề tài khoa học nào nghiên cứu, đi sâu về phát huy vai trò của chính quyền cấp
xã trong hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme. Tuy nhiên,
các công trình, luận văn đã nghiên cứu tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa

để tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng vai trò của chính quyền cấp xã
trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật để đề ra được những phương hướng và
giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian tới. Việc nghiên cứu đề tài được đặt
trong bối cảnh cụ thể của Trà Vinh một tỉnh có nhiều công dân Khơme sinh sống và
là nơi tác giả công tác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
Luận văn làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vai trò của chính quyền cấp xã

trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải
pháp để phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến giáo dục
pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Phân tích cơ sở lý luận về vai trò của chính quyền cấp xã và hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật.
- Nghiên cứu vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh hiện nay.
- Đánh giá thực trạng về phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme
của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh hiện nay.
- Đề xuất phương hướng giải pháp nhằm phát huy vai trò của chính quyền cấp xã
trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chính quyền cấp xã thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng
luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của cấp xã trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về giáo dục pháp luật. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương
pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và
có hệ thống về vai trò giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme của chính quyền cấp
xã ở Trà Vinh hiện nay.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của chính quyền cấp xã trong phổ biến
giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng phổ biến,
giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh cho đồng bào Khơme, các
giải pháp do luận văn đề xuất có khả năng ứng dụng trong thực tế nhằm phát huy
hơn nữa vai trò của chính quyền cấp xã trong giáo dục pháp luật cho nhân dân nói
chung và cho đồng bào Khơme nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về vai trò giáo dục pháp luật
của chính quyền cấp xã cho đồng bào KhơMe


1.1. Cơ sở lý luận về Vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã
1.1.1. Quan niệm về chính quyền cấp xã
Trong lịch sử hình thành, từ Nhà nước cát cứ đến Nhà nước thống nhất, việc
phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính để thực hiện hoạt động quản lý, điều
hành, cai trị luôn là vấn đề có tính tất yếu khách quan của các quốc gia trên thế giới.
Ngay từ thế kỷ thứ X, với chính quyền tự trị đầu tiên, người Việt đã lấy làng xã
truyền thống của mình làm đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước [31, tr.9-12].
Với nguồn gốc từ công xã nông thôn chuyển thành, làng, xã là hình ảnh thu
nhỏ của xã hội với đầy đủ các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nơi mà sinh
hoạt xã hội diễn ra hàng ngày. Trải qua các thời kỳ lịch sử phát triển, đơn vị hành
chính nhỏ nhất này vẫn giữ được vai trò quan trọng tổ chức bộ máy hành chính Nhà
nước đang từng bước được củng cố và hoàn thiện.
Hiến pháp quy định xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành

chính lãnh thổ trong hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện,
xã) của Nhà nước ta.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, số lượng xã, phường, thị trấn
trong những năm qua không ổn định, nhu cầu chia tách địa giới hành chính nhằm
đảm bảo việc quản lý có hiệu quả các mặt của đời sống dân cư đã làm số lượng xã,
phường, thị trấn tăng lên đáng kể. Tính đến cuối năm 2005, nước ta có 10.876 đơn
vị hành chính xã, phường, thị trấn, trong đó có 9069 xã, 1219 phường, 588 thị trấn
[48, tr.15]. Với vị trí là cấp thấp nhất trong tổ chức bộ máy Nhà nước, cấp thực
hiện, cấp đưa chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
vào đời sống, vai trò của chính quyền cấp xã được thể hiện ở các phương diện sau:
- Là cấp thấp nhất nên chính quyền cấp xã là cấp triển khai thực hiện chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trực tiếp đến nhân dân. Vì vậy, cấp xã nói
chung là cơ sở thực tiễn, nơi mà các chủ trương đường lối được thực hiện trên mọi
mặt của cuộc sống.

- Hoạt động của chính quyền cấp xã là thước đo đánh giá hiệu quả của hoạt
động quản lý của bộ máy nhà nước. Với chức năng nhiệm vụ được giao và được cấp
trên uỷ quyền, chính quyền cấp xã thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên mọi
mặt của đời sống xã hội, là nơi giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên cơ sở kết hợp
hài hoà các lợi ích của Nhà nước với nhân dân và giữa các cá nhân với nhau. Đồng
thời, chính quyền cấp xã tạo mọi điều kiện để phát huy hoạt động tự quản của nhân
dân, chủ động kiểm tra, định hướng cho hoạt động này phát triển phù hợp với quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
- Trong hệ thống chính trị cơ sở, chính quyền cấp xã là “trụ cột”, “trung tâm”
trong tổ chức triển khai mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước và bảo đảm cho nó đi vào thực tiễn. Thực tế cho thấy, nếu đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có đúng đắn đến đâu đi
nữa nhưng chính quyền cấp xã không tổ chức triển khai hoặc triển khai không đến
nơi đến chốn thì chính sách, pháp luật đó không được thực hiện hoặc thực hiện
không chính xác và hiệu quả tác động vào cuộc sống không cao, không bảo đảm lợi

ích của nhân dân.
- Chính quyền cấp xã là cơ quan trực tiếp tổ chức, chăm lo mọi mặt đời sống
của nhân dân, giải quyết các nhu cầu phát sinh ở cơ sở. Chính quyền cấp xã giữ vai
trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội, hoạt động của chính quyền cấp xã gắn liền
với hoạt động sinh hoạt của nhân dân. Từ thực tế của một số địa phương như ở Thái
Bình, Gia Lai, Đắk Lắk trong thời gian qua cho thấy chính quyền cấp xã phải
thường xuyên đi sâu, đi sát để nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, để không xảy ra
tình trạng nội bộ mâu thuẫn, bị kẻ xấu lợi dụng gây chia rẽ làm mất đoàn kết trong
nhân dân, phá vỡ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, làm giảm sút uy
tín của Đảng với nhân dân.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, một số yếu tố đã tác động tiêu
cực đến đời sống ở nhiều nơi, nhưng làng, xã là nơi còn lưu giữ những giá trị văn
hoá, truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam. Do đó,
chính quyền cấp xã giữ vai trò nòng cốt trong công tác giáo dục, tuyên truyền, giữ

gìn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp, giàu bản sắc dân tộc, xây
dựng đời sống văn hoá mới và thắt chặt tình đoàn kết trong nhân dân.
Vậy để hiểu về chính quyền cấp xã trước hết phải tìm hiểu chính quyền là gì?
Chính quyền nói chung: được hiểu là bộ máy điều khiển quản lý công việc
hành chính Nhà nước với các phương pháp quản lý hoạt động mang tính chất quyền
lực Nhà nước. Còn chính quyền cấp xã là cấp thực hiện bao gồm Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân, trong đó Hội đồng nhân dân “là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và cơ quan Nhà nước cấp trên”[32, tr.7-8] còn Uỷ ban nhân dân “do Hội đồng nhân
dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan Hành chính Nhà
nước ở địa phương chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan
Nhà nước cấp trên" [32, tr.9].
Qua sự phân tích trên, có thể rút ra quan niệm về chính quyền cấp xã như
sau:

Chính quyền cấp xã (bao gồm xã, phường, thị trấn) là cấp thấp nhất trong
hệ thống chính quyền bốn cấp của Nhà nước ta, bao gồm Hội đồng nhân và Uỷ ban
nhân dân đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa
phương, quyết định và tổ chức thực hiện những vấn đề liên quan đến phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của nhân dân địa phương theo
quy định của Hiến pháp, pháp luật, các mệnh lệnh, quyết định và sự uỷ quyền của
cơ quan Nhà nước cấp trên.
Bên cạnh chính quyền cấp xã được coi là trung tâm, trụ cột, trong hệ thống
chính trị cơ sở còn có các thiết chế chính trị khác như: Đảng uỷ thực hiện vai trò hạt
nhân lãnh đạo ở cơ sở, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh) đại diện cho nhu cầu và
lợi ích của các tầng lớp nhân dân địa phương cùng tham gia quản lý Nhà nước.
Toàn bộ hoạt động của các thiết chế đó Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc Việt
Nam ở cơ sở tạo thành cơ chế vận hành của hệ thống chính trị cơ sở đảm bảo việc

thực thi quyền lực của nhân dân và có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của
chính quyền cấp xã.
* Đặc điểm của chính quyền cấp xã
- Thứ nhất, chính quyền cấp xã là chính quyền cơ sở bởi dưới chính quyền
cấp xã không có cấp chính quyền thấp hơn, mặc dù hiện nay có tổ chức thôn, buôn,
làng, ấp, khóm, khu phố song đây không phải là cấp chính quyền độc lập có ngân
sách, con dấu cũng như tư cách pháp nhân mà là tổ chức tự quản trong cộng đồng
dân cư, không được phép sử dụng quyền lực nhà nước trong hoạt động của mình.
- Thứ hai, chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân, sát dân, trực tiếp
tiếp xúc, chăm lo, giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích của nhân dân, là cấp
triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc
sống. Ngoài việc sử dụng các biện pháp mang tính chất quyền lực, tuỳ vào thực tiễn
và tính đặc thù của địa phương mà chính quyền của cấp xã nơi đó lựa chọn các biện
pháp thích hợp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và vận động nhân dân nghiêm chỉnh chấp

hành pháp luật.
- Thứ ba, trong cơ cấu tổ chức của mình, chính quyền cấp xã chỉ bao gồm cơ
quan quyền lực Nhà nước là Hội đồng nhân dân, cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân địa phương và Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành
đồng thời là cơ quan hành chính Nhà nước địa phương.
- Thứ tư, trên địa bàn dân cư, không chỉ có sự quản lý tổ chức của chính
quyền cấp xã mà còn có hoạt động mang tính chất tự quản của cộng đồng dân cư.
Ngoài ra hoạt động quản lý hành chính Nhà nước của chính quyền cấp xã còn chịu
sự tác động của các mối quan hệ như huyết thống, dòng tộc, phong tục, tập quán
của từng địa phương. Chính quyền cấp xã là cơ quan thực hiện chức năng quản
lý hành chính Nhà nước, là cơ quan đưa đường lối chính sách vào cuộc sống,
nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương để có biện pháp, phương pháp
thích hợp. Niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước là thước đo hiệu quả công
việc của chính quyền cấp xã, cấp sát dân, gần dân nhất.

-Thứ năm, “Tuy cùng là cấp cơ sở nhưng phường so với xã và thị trấn có
những điểm khác nhau về cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế - kỹ thuật, kết cấu dân cư,
trình độ dân trí” [16, tr.18]. Cùng là cấp chính quyền cơ sở nhưng tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn cũng
khác so với phường. Chính quyền xã, thị trấn quản lý toàn bộ các hoạt động sản
xuất, đời sống trên địa bàn dân cư cũng như xã thị trấn, phường còn có chức năng
quản lý đô thị như quản lý thực hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, vệ sinh môi
trường và trật tự đô thị.
* Tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã
Từ thế kỷ X, tổ chức xã đã trở thành đơn vị hành chính cơ bản trong hệ
thống tổ chức hành chính Việt Nam. Phát triển theo sự phát triển của đất nước dù
tên gọi có thay đổi theo từng triều đại phong kiến khác nhau, nhưng vai trò, chức
năng của xã vẫn không thay đổi.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhận thấy tầm quan trọng và vai
trò to lớn của chính quyền địa phương nên ngay khi mới thành lập, Chính phủ lâm

thời đã ban hành sắc lệnh 63/SL ngày 22/11/1954 về tổ chức Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban hành chính các cấp. Sắc lệnh quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan
hệ của hệ thống chính quyền các cấp, hệ thống này gồm 4 cấp: kỳ, tỉnh, huyện, xã.
Như vậy xã được coi là cấp cơ sở. Đây chính là cơ sở pháp lý đầu tiên đề cập đến
chính quyền cấp xã và sau đó được hoàn thiện dần trong quy định của các Hiến pháp
1946, 1959, 1980 và các văn bản có liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã
có giai đoạn vai trò quản lý nhà nước ở cơ sở của chính quyền cấp xã hầu như bị tê liệt,
thay cho cơ cấu đó là các hợp tác xã gần như làm thay các công việc của chính quyền.
Để đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, Hiến
pháp 1992 được ban hành.
Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy
định chính quyền cấp xã gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và được tổ
chức như sau:

-Tổ chức Hội đồng nhân dân xã:
Theo điều 119 Hiến pháp 1992, Hội đồng nhân dân vẫn được xác định là “cơ
quan quyền lực Nhà nước ở địa phương” [49, tr.245]. Khác với Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh và cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã không có các ban chuyên môn
giúp việc mà chỉ có Thường trực Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân
dân cấp xã gồm có Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Thường trực Hội đồng nhân dân do
Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân mỗi khoá là
5 năm kể từ kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá đó cho đến kỳ họp thứ
nhất của Hội đồng nhân dân khoá sau.
Hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân chủ yếu thông qua các kỳ họp
và hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân cấp xã họp
thường lệ mỗi năm 2 kỳ. Ngoài kỳ họp thường lệ Hội đồng nhân dân còn tổ chức
các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc khi có ít nhất 2/3 đại biểu Hội
đồng nhân dân cùng cấp yêu cầu. Kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành khi có
ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia. Hội đồng nhân dân họp

công khai, trong trường hợp cần thiết có thể họp kín theo đề nghị của chủ toạ kỳ họp
hoặc của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Để phát huy hơn nữa quyền làm chủ
của nhân dân, tăng cường hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, thường trực
Hội đồng nhân dân được thành lập ở 3 cấp tỉnh, huyện, xã theo quy định của Hiến
pháp 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003.
Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bầu cử căn cứ theo quy
định của Luật bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân. Đối với cấp xã có từ 25 - 35 đại
biểu, tuỳ theo vị trí địa lý, quy mô dân số, điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng
của địa phương.
-Tổ chức Uỷ ban nhân dân cấp xã:
“Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân” [49, tr.247]. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyết định các vấn

đề quan trọng tại địa phương nhưng do hoạt động không thường xuyên nên các vấn
đề như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch ngân sách địa phương chỉ có
thể thực hiện được thông qua Uỷ ban nhân dân.
Uỷ ban nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có nhiệm kỳ
theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là năm năm. Thành viên của Uỷ ban nhân
dân cấp xã có từ 3 - 5 thành viên gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Chủ
tịch xã là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã trước Hội đồng nhân dân xã và trước Uỷ
ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Theo quy định tại điều 8 của Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Uỷ ban nhân dân được thực hiện
thông qua các phiên họp, các hoạt động của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các bộ phận
chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân xã. Phiên họp của Uỷ ban nhân dân được tổ
chức 01 lần/tháng, đây là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Uỷ
ban nhân dân vì phần lớn nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân được thực hiện tại phiên
họp này. Uỷ ban nhân dân xã có các bộ phận chuyên môn, giúp việc cho uỷ ban
như: công an - quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế
toán, tư pháp - hộ tịch, văn hoá - xã hội.

Các bộ phận chuyên môn này chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân xã và
các phòng, ban chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. ở cấp xã trên thực tế
có nơi vẫn tổ chức thành các ban chuyên môn mặc dù luật không quy định. Cùng
với các phong trào xây dựng hương ước mới, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
cư, các chức danh trưởng thôn, ấp, bản, khu phố được phục hồi. Vai trò, vị trí của
chức danh này trong việc quản lý thôn, bản dần dần được xác lập. Trưởng thôn,
ấp do nhân dân bầu ra và được Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận.
ở nhiều địa phương thường bố trí Bí thư chi bộ đảm nhiệm chức danh này, đây được
coi là cánh tay nối dài trong hoạt động quản lý nhà nước xuống tận cộng đồng dân
cư của chính quyền cấp xã .
* Nhiệm vụ của chính quyền cấp xã

Chính quyền cấp xã với vai trò là cấp hành chính trực tiếp quan hệ với dân
trong hệ thống tổ chức bốn cấp của bộ máy hành chính nhà nước. Do đó, chính
quyền cấp xã giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức điều hành việc triển khai thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở nước ta hiện nay, để đạt
được mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thực
hiện được phải tiến hành từ cấp xã và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Do
vậy, có thể khẳng định chính quyền cấp xã là mắt xích rất quan trọng trong việc thực
hiện quyền lực Nhà nước, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Khi nói đến
chính quyền cấp xã Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là
nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được thì mọi việc điều xong xuôi” [33, tr.371-
372].
Nhiệm vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đời sống xã hội của chính
quyền cấp xã theo quy định của pháp luật bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Trong lĩnh vực kinh tế: Chính quyền cấp xã xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm phát huy mọi tiềm lực phát triển kinh tế
của địa phương. Tổ chức thực hiện dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, quản
lý ngân sách trên địa bàn; có biện pháp quản lý, sử dụng hợp lý nhằm khai thác hiệu

quả tối ưu các nguồn lợi về đất đai của xã; xây dựng và quản lý các công trình công
cộng, đường giao thông, trường học, trạm y tế theo các quy định của pháp luật; huy
động sự đóng góp của các tổ chức cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng trên cơ sở dân chủ, tự nguyện; hướng dẫn khuyến khích, tạo điều kiện
để phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương, đồng thời với việc hướng
dẫn ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất; chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch chung.
Chính quyền cấp xã quản lý nhà nước về kinh tế ở cơ sở bằng việc sử dụng
quyền lực nhà nước bảo đảm cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh, dịch vụ của các thành phần kinh tế phát triển theo đúng pháp luật. Chính

quyền cấp xã tạo mọi điều kiện để các chủ thể phát huy hết khả năng của mình
trong phát triển kinh tế cũng như làm tròn nghĩa vụ của Nhà nước.
- Trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, xã hội và đời sống. Thực hiện chủ trương
của Đảng và Nhà nước trong việc nâng cao chất lượng văn hoá thông tin, đẩy mạnh
văn hoá quần chúng, xây dựng và sử dụng có hiệu quả các thiết chế văn hoá như thư
viện, nhà sinh hoạt văn hoá của ấp, làng, bản, thôn các câu lạc bộ, hệ thống truyền
thanh cơ sở, kiểm soát chặt chẽ các loại sách, báo, phim ảnh, bài trừ các loại văn
hoá phẩm đồi trụy, các hủ tục lạc hậu, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục
nhân dân xây dựng phong trào thể dục thể thao, rèn luyện nếp sống văn minh, gia
đình văn hoá mới. Chính quyền cấp xã phải xây dựng và thực hiện sự nghiệp giáo
dục ở cơ sở, tạo điều kiện để trẻ em trong độ tuổi đến trường; tổ chức các lớp bổ túc
văn hoá để xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi; chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ
cho nhân dân, phát triển mạng lưới y tế cộng đồng.
Đối với công tác bảo trợ xã hội chính quyền cấp xã có kế hoạch tổ chức thực
hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, người tàn tật, cô đơn, trẻ mồ
côi; thực hiện kế hoạch hoá gia đình, giải quyết việc làm cho người lao động; bảo vệ
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
- Trong lĩnh vực tư pháp - hộ tịch: Chính quyền cấp xã thực hiện một số

nhiệm vụ sau: tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, vận
động nhân dân chấp hành pháp luật và các chủ trương của Đảng và Nhà nước; tổ
chức thực hiện các vụ việc được giao hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng
trong việc thi hành án; quản lý công tác hộ tịch gồm khai sinh, khai tử, đăng ký kết
hôn, lý lịch tư pháp theo quy định của pháp luật; giải quyết tranh chấp đơn giản
trong nhân dân thông qua tổ hoà giải cơ sở; tổ chức tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị của công dân theo thẩm quyền; thực hiện các quyết định về xử phạt
vi phạm hành chính, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Trong lĩnh vực bảo vệ quốc phòng, an ninh trật tự và an toàn xã hội. Chính
quyền cấp xã tổ chức tuyên truyền giáo dục xây dựng nền quốc phòng toàn dân; bảo

đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng huấn luyện lực lượng dân quân tự
vệ ở địa phương; xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; chăm lo
công tác quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ góp phần xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, tổ chức công an
xã, thị trấn và phong trào quần chúng bảo vệ an ninh, an toàn xã hội vững mạnh,
thực hiện biện pháp phòng ngừa, phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật khác ở địa phương. Quản lý hộ khẩu, tổ chức việc đăng ký tạm trú quản lý
việc đi lại của người nước ngoài ở địa phương.
Để hoàn thiện hơn nữa tổ chức chính quyền cấp xã, Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong đó Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp là bước khởi đầu quan
trọng trong tiến trình cụ thể hoá Nghị quyết hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành
Trung ương khoá VII, Nghị quyết đại hội lần thứ VIII của Đảng về cải cách hành
chính nhà nước, bảo đảm sự quản lý thống nhất của trung ương và quyền chủ động
sáng tạo của từng địa phương. Gần đây Đại hội đại biểu toàn toàn quốc lần thứ X
của Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân
dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa

phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của hội đồng
nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền
đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo [23, tr.127].
1.1.2. Vai trò của giáo dục pháp luật chính quyền cấp xã
*Quan niệm về giáo dục pháp luật:
Giáo dục pháp luật là vấn đề lý luận có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
khoa học giáo dục cũng như trong khoa học pháp lý ở nước ta. Giáo dục pháp luật
là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật. Đây là một vấn đề cơ
bản không những đối với nước ta mà còn đối với các nước khác. Qua sách, báo, các
tài liệu hội thảo về công tác giáo dục pháp luật, một số tác giả nước ngoài đã khẳng

định: “Hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật là những nhiệm
vụ nâng cao văn hoá pháp luật, ý thức pháp luật của nhân dân” [67, tr.335].
Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội và cũng là phương tiện
để mọi người tự bảo vệ mình nhưng so với giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức
thì giáo dục pháp luật được hình thành và tiến hành trên thực tế muộn hơn. Chính vì
vậy, quan niệm về giáo dục pháp luật vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: Giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này thì giáo dục pháp luật không
được xem là một hoạt động độc lập mà nó chỉ là một bộ phận của hoạt động giáo
dục chính trị và giáo dục đạo đức, thông qua đó ý thức pháp luật của nhân dân được
hình thành. Như vậy, nếu làm tốt công tác giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức thì
sẽ có sự tôn trọng pháp luật của nhân dân. Nói cách khác, sự hình thành ý thức pháp
luật của công dân là hệ quả của quá trình giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức.
- Quan niệm thứ hai cho rằng: Giáo dục pháp luật chỉ đơn thuần là hoạt động
phổ biến tuyên truyền hay giải thích pháp luật. Theo quan niệm này thì giáo dục pháp
luật là nhiệm vụ của các chủ thể tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
- Quan niệm thứ ba cho rằng: Giáo dục pháp luật đồng nghĩa với việc dạy và
học pháp luật trong nhà trường. Với quan điểm này thì việc tuyên truyền pháp luật ở
ngoài phạm vi nhà trường thì không được xem là giáo dục pháp luật.

- Quan niệm thứ tư cho rằng: Không có khái niệm giáo dục pháp luật. Vì
pháp luật là các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung và mọi người có nghĩa vụ phải
tuân thủ. Do đó không cần đặt ra vấn đề giáo dục pháp luật, chỉ cần ban hành văn
bản pháp luật và người dân có nghĩa vụ tự tìm hiểu và thực hiện theo các quy định
của pháp luật.
Tất cả những quan niệm trên, mặc dù đã đề cập đến giáo dục pháp luật ở
những góc độ khác nhau nhưng mỗi quan điểm đều đưa ra những cơ sở, luận cứ
khoa học để khẳng định mình đúng. Song trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta hiện nay, các quan điểm này đều mang tính phiến diện,

không đánh giá đầy đủ về vai trò và giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Do đó, vấn
đề được đặt ra là phải hiểu một cách đúng đắn về giáo dục pháp luật để nâng cao
hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở kế thừa mặt tích
cực của các quan niệm trên, có thể đưa ra quan niệm về giáo dục pháp luật như sau:
Giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ
thể giáo dục lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ý thức pháp luật, thái độ chấp
hành pháp luật, thói quen tuân thủ pháp luật phù hợp với yêu cầu của Nhà nước và
xã hội.
* Quan niệm về vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã:
Trong điều kiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành sâu
rộng đến các tầng lớp nhân dân như hiện nay, đây không còn là nhiệm vụ riêng của
các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ giáo dục pháp luật nữa mà nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị trong đó chính quyền cấp xã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa
pháp luật vào cuộc sống. Với đặc điểm là cấp chính quyền gần dân, trực tiếp tiếp
xúc với nhân dân nên vai trò giáo dục pháp luật được tiến hành thường xuyên trong
mọi lĩnh vực do chính quyền cấp xã quản lý. Tuy nhiên, vai trò giáo dục pháp luật
là gì hiện nay vẫn chưa có một quan niệm thống nhất. Do đó, để đưa ra khái niệm
vai trò giáo dục pháp luật, trước hết phải nghiên cứu từ quan niệm về vai trò.
Vai trò nói chung được hiểu là: “Phần việc, phần hoạt động (của một người,
một cơ quan ) nói về mặt tác dụng và ảnh hưởng của nó [50, tr901]. Theo quan

niệm này thì vai trò được hiểu đây là việc thực hiện những công việc của chủ thể cụ
thể đã tác động và ảnh hưởng đến sự vật, sự việc nào đó.
Từ quan niệm này và các quan niệm về chính quyền cấp xã, giáo dục pháp
luật, chúng ta có thể đưa ra quan niệm như sau:
Vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã chính là những tác dụng
và ảnh hưởng trong việc thực hiện mục tiêu nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân thông qua các hoạt động có định hướng, có chủ định của chính quyền cấp xã.
Trước yêu cầu của công tác giáo dục pháp luật nhằm:

Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến
cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp
luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân [42].
Vai trò của chính quyền cấp xã thể hiện như sau:
Thứ nhất, chính quyền cấp xã là chủ thể thực hiện các hoạt động giáo dục
pháp luật trong phạm vi địa bàn do cấp xã quản lý.
Hội đồng nhân dân đưa ra các Nghị quyết về phổ biến, giáo dục pháp luật,
trên cơ sở đó Uỷ ban nhân dân xây dựng thành các kế hoạch, chương trình cụ thể
theo quý, năm, hoặc từng giai đoạn nhất định, đưa Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân thành hiện thực. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải căn cứ vào chương
trình phổ biến giáo dục pháp luật chung của Chính phủ, tỉnh, huyện và theo yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của địa phương để xây dựng kế hoạch tổ chức tuyên truyền, giáo
dục pháp luật khoa học và phù hợp cho các đối tượng cư trú trên địa bàn xã,
phường, thị trấn. Việc xây dựng các kế hoạch này bảo đảm cho hoạt động giáo dục
pháp luật có tính kế hoạch, được chỉ đạo, lãnh đạo thường xuyên, có hiệu quả. Với
vai trò là cơ quan hành chính Nhà nước ở cơ sở, với những kế hoạch này, chính
quyền cấp xã có điều kiện phân bổ thời gian hợp lý giữa các nhiệm vụ quản lý,
tránh được tính “tự phát” và tính “thời vụ”, tập trung được các điều kiện về mặt vật
chất, nhân sự để triển khai công tác giáo dục pháp luật hợp lý, đúng thời điểm.

Ngoài việc tổ chức triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên cơ sở
kế hoạch, chính quyền cấp xã còn tổ chức triển khai các kế hoạch, chương trình của
các cơ quan cấp trên uỷ quyền thực hiện. Chính quyền cấp xã đã hiện thực hoá các
kế hoạch thành hành động thực tiễn, biến các năng lực đã được xác định trong kế
hoạch vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật có hiệu quả. Bên cạnh đó
thông qua việc thực hiện kế hoạch để rút kinh nghiệm cho công tác giáo dục pháp
luật trong thời gian tiếp theo.

Thứ hai, giáo dục pháp luật được tiến hành trên tất cả các mặt của hoạt
động quản lý Nhà nước của chính quyền cấp xã, phong phú về nội dung, đa dạng về
hình thức.
Là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong đơn vị hành chính lãnh thổ ở nước ta,
nên cơ cấu dân cư trên địa bàn xã rất đa dạng khác nhau về trình độ, nghề nghiệp,
dân tộc, giới tính, tôn giáo cùng chung sống trên một địa bàn nhất định. Do đó, để
các quy định của pháp luật đến với tất cả các đối tượng thì không riêng gì chính
quyền cấp xã mà các chủ thể khác cũng phải đa dạng hoá nội dung và phương pháp
giáo dục pháp luật.
Về nội dung: chính quyền cấp xã tập trung một số nội dung tuyên truyền,
phổ biến các văn bản luật, chủ yếu tập trung vào các quy định mang tính định hướng
chung:
- Phổ biến, giải thích kịp thời các văn bản pháp luật hiện hành cho nhân dân
một cách kịp thời, đặc biệt là những văn bản liên quan trực tiếp đến quyền lợi ích và
nghĩa vụ của công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như quyền nhân thân,
quyền tài sản, quyền khiếu nại, tố cáo, các chế độ chính sách mà nhân dân được
hưởng v.v
- Nghĩa vụ của công dân trong việc đấu tranh phòng chống các hành vi vi
phạm pháp luật, các quy định về trật tự an toàn xã hội.
- Nghĩa vụ của công dân trong việc thực hiện nghiêm túc và đúng đắn các
quy định pháp luật của nhà nước và các hương ước, quy ước sinh hoạt trong cộng
đồng.

- Các quy định về quyền và nghĩa vụ trong tổ chức, hoạt động của cơ quan,
tổ chức nhà nước.
- Nêu gương “người tốt, việc tốt” trong việc thực hiện pháp luật, qua đó vận
động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật.
Về hình thức tuyên truyền giáo dục pháp luật.

Chính quyền cấp xã thường sử dụng các hình thức sau trong công tác phổ
biến tuyên truyền pháp luật:
- Tuyên truyền miệng.
- Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng: hệ thống truyền
thanh cơ sở, tờ rơi, tủ sách pháp luật, panô, áp phích
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động thực tiễn của đội
ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã như công tác hộ tịch, công tác hoà giải,
công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, công tác địa chính, văn hoá - xã hội, hoạt động
tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân
- Giáo dục pháp luật thông qua các lễ hội truyền thống, sinh hoạt văn hoá ở
vùng nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng có đông đồng bào dân tộc ít người sinh
sống. Tổ chức phối hợp với các tổ chức đoàn thể quần chúng, những người có uy tín
trong cộng đồng dân cư, trưởng thôn, xóm, ấp, bản, khóm, tổ dân phố, để các quy
định pháp luật được tuyên truyền rộng rãi, đến nhân dân.
- Phối hợp với các trường học đóng trên địa bàn trong việc dạy và học
môn giáo dục công dân ở trong nhà trường, tổ chức, xây dựng, khuyến khích học
sinh tham gia phong trào bảo vệ trật tự pháp luật trong và ngoài trường học.
Việc đa dạng hoá nội dung, phương pháp, hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật giúp cho hoạt động giáo dục pháp luật của chính quyền lôi cuốn được nhiều
tầng lớp nhân dân tham gia trên tất cả các lĩnh vực của xã hội. Mặt khác, đa dạng
hoá phương pháp và nội dung giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã giúp cho
các đối tượng giáo dục pháp luật có điều kiện tiếp nhận thông tin pháp luật phù hợp
với độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc
Thứ ba, chính quyền cấp xã chủ động phối hợp với các cá nhân, tổ chức

khác trong giáo dục pháp luật.
Sự kết hợp chặt chẽ trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của chính
quyền cấp xã với các cá nhân, tổ chức hình thành “dây chuyền” tuyên truyền pháp

luật được tiến hành rộng khắp đến các đối tượng trong cộng đồng dân cư đa dạng ở
cấp xã. Cơ chế phối hợp được tiến hành trên các mặt:
- Cơ chế phối hợp của chính quyền cấp xã không chỉ được tiến hành trong
giai đoạn triển khai tuyên truyền trên thực tế mà được tiến hành từ giai đoạn xây
dựng kế hoạch. Trong quá trình xây dựng kế hoạch chính quyền cấp xã trao đổi,
phối hợp với các ban chuyên môn, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận tổ quốc, Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân để nắm bắt tình hình,
nhu cầu thực tiễn cũng như kế hoạch hoạt động cụ thể của các tổ chức này để có cơ
chế phối hợp hợp lý. Đây chính là những tổ chức có khả năng tập hợp quần chúng
nhân dân, vận động quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Cơ chế phối hợp giữa chính quyền cấp xã với các tổ chức chính
trị - xã hội làm cầu nối thông tin pháp luật đối với cộng đồng dân cư.
- Cơ chế phối hợp cũng được xác lập giữa chính quyền cấp xã với các cá
nhân có uy tín trong cộng đồng dân cư. Họ có thể là các chức sắc tôn giáo, người
lớn tuổi, cán bộ về hưu, cựu chiến binh, giáo viên được nhân dân tôn trọng và tin
tưởng. Thông qua các cá nhân này, chính quyền cấp xã chủ động chuẩn bị nội dung
và trang bị cho họ những tài liệu cần thiết phù hợp với tình hình thực tế của từng
cụm dân cư, trong địa bàn xã.
Ngoài ra, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, các cơ sở sản xuất
kinh doanh không chỉ tập trung ở trung tâm tỉnh lỵ mà ngày càng được mở rộng
xuống xã để khai thác các nguồn lực tại chỗ của địa phương, do đó, cơ chế phối hợp
của chính quyền cấp xã được mở rộng đến các tổ chức công đoàn trong công tác
giáo dục pháp luật cho công nhân làm việc trong các đơn vị đó.
Thứ tư, vai trò kiểm tra, giám sát, tổng kết công tác giáo dục pháp luật
Kiểm tra, giám sát là một hoạt động rất quan trọng trong quản lý nhà nước.
Qua kiểm tra, giám sát các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước thấy được những ưu

điểm, đồng thời cũng thấy được những mặt tồn tại, hạn chế, rút ra bài học kinh
nghiệm, từ đó có những phương hướng phù hợp nhằm làm cho công tác đạt hiệu quả
cao hơn. Qua kiểm tra, giám sát, chính quyền cấp xã đánh giá được những ưu điểm

trong việc phổ biến giáo dục pháp luật cũng như tìm ra những thiếu sót, bất cập
trong nội dung, phương pháp giáo dục pháp luật. Từ đó, có sự chỉ đạo cụ thể của
chính quyền cấp xã đối với đội ngũ cán bộ tuyên truyền pháp luật.
Kiểm tra việc thực hiện công tác giáo dục pháp luật là bảo đảm sự thành
công, hiệu quả của chương trình giáo dục pháp luật và thực hiện giáo dục pháp luật.
Việc xây dựng chương trình giáo dục pháp luật và thực hiện chương trình giáo dục
pháp luật phải gắn liền với hoạt động kiểm tra.
Hoạt động kiểm tra, giám sát có nhiệm vụ nắm tình hình và kết quả giáo dục
pháp luật một cách có hệ thống. Công tác kiểm tra, giám sát phải chú ý tới cả hai
mặt của việc thực hiện kế hoạch, chương trình giáo dục pháp luật. Một mặt tìm ra
các nguyên nhân của việc không thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt các mục tiêu đã
đề ra, mặt khác cũng chú ý tới kết quả đã đạt được để tìm ra những ưu điểm, rút ra
những bài học kinh nghiệm trong việc giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã.
Việc kiểm tra, giám sát thực hiện các chương trình giáo dục pháp luật phải
được xây dựng thành kế hoạch đồng thời với việc xây dựng kế hoạch, chương trình
giáo dục pháp luật chung, trong đó xác định rõ cơ quan, cá nhân có trách nhiệm
kiểm tra và đối tượng bị kiểm tra. Việc kiểm tra, giám sát được tiến hành ngay từ
khi kế hoạch giáo dục pháp luật được thông qua và trong suốt thời gian thực hiện kế
hoạch. Công tác kiểm tra được tiến hành:
- Hội đồng nhân dân giám sát đối với Uỷ ban nhân dân trong việc thực hiện
Nghị quyết về công tác giáo dục pháp luật gồm: giám sát nội dung giáo dục pháp
luật có đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục chung của cả nước và của
địa phương; hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật do Uỷ ban nhân dân xây
dựng có phù hợp với đối tượng và đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tiễn của
địa phương hay không? Hội đồng nhân dân kiểm tra hiệu quả của công tác giáo dục
pháp luật của Uỷ ban nhân dân, thông qua hoạt động chất vấn Chủ tịch, phó Chủ

tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên của Uỷ ban nhân tại các kỳ họp,
hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân, báo cáo định kỳ công tác

của Uỷ ban nhân dân để đánh giá hiệu quả công tác giáo dục pháp luật của Uỷ ban
nhân dân.
- Uỷ ban nhân dân tự kiểm tra công tác giáo dục pháp luật bằng các hình
thức: kiểm tra hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật của các bộ phận chuyên
môn, đặc biệt là cán bộ tư pháp; kiểm tra hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật; kiểm tra cơ chế phối hợp của Uỷ ban nhân dân với các
tổ chức đoàn thể Công tác kiểm tra được Uỷ ban nhân dân tiến hành thông qua
kiểm tra báo cáo công tác định kỳ, kiểm tra thực tiễn.
Chính quyền cấp xã tiến hành kiểm tra một cách thường xuyên và toàn diện
trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch giáo dục pháp luật của năm, của quý hoặc
của tháng hoặc những kế hoạch đột xuất do cấp trên giao. Chính quyền cấp xã cũng
có thể tiến hành kiểm tra, đột xuất, có trọng điểm, tập trung vào một số nội dung
nhất định của kế hoạch. Ngoài ra, chính quyền cấp xã còn kiểm tra việc tổng kết
chương trình giáo dục pháp luật của Tư pháp xã. Qua công tác kiểm tra, chính
quyền cấp xã có biện pháp xử lý, lãnh đạo công tác giáo dục pháp luật.
Sau khi tiến hành các hoạt động giáo dục pháp luật Ban Tư pháp xã phải có
trách nhiệm sơ kết, tổng kết đánh giá các kế hoạch giáo dục pháp luật được đề ra
theo tháng, quý, năm. Công tác tổng kết, đánh giá phải được tiến hành chính xác để
từ đó có những biện pháp thích hợp để nâng dần hiệu quả giáo dục pháp luật cho
nhân dân của chính quyền cấp xã.
Ngoài chính quyền cấp xã, công tác kiểm tra còn được tiến hành bởi phòng
Tư pháp, Sở Tư pháp về hoạt động giáo dục pháp luật và hoạt động kiểm tra thực
hiện nhiệm vụ chung của chính quyền cấp trên trong đó có công tác giáo dục pháp
luật.
Công tác kiểm tra, tổng kết, đánh giá hoạt động giáo dục pháp luật nói chung với
mục đích làm cho hoạt động này ngày càng mang lại hiệu quả cao hơn.
Thứ năm, chính quyền cấp xã có các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giáo

dục pháp luật được triển khai.

×